Thứ Ba, 7 tháng 6, 2011

Các Nông cụ VN- Vang bóng một thời

Các nông cụ Việt Nam vang bóng một thời
Nguồn: http://chimvie3.free.fr/43/NPT_cacnongcuvangbong.htm 
Tiểu Đệ 

Trong dân gian ai cũng biết : "Đời sống con người hay vật dụng hằng ngày cũng chỉ có một thời kỳ mà thôi". Bởi vì, sự vô thường phải đến để thay đổi không ai thoát khỏi, từ con người cho đến vật dụng. Nếu chúng ta nhìn ngược thời gian khoảng non một lục hoa giáp (60 năm), thì chúng ta sẽ thấy sự thay đổi đời sống con người đáng lưu ý, bằng chứng những nông cụ Việt Nam chúng ta đã không còn sử dụng nữa, ví như : Cối xay lúa, cối xay bột, cối giả gạo... cho đến cái phảng, cái cù nèo, cái nọc để cấy lúa v.v.

Trước đây, trong quyển sách 4000 TỪ NGỮ THỰC HÀNH tôi để bút hiệu Hàn Lâm NGUYỄN PHÚ THỨ (nay bước sang năm 2011 tôi chỉ dùng Tiểu Đệ NGUYỄN PHÚ THỨ), có nêu đến các Nông Cụ Việt Nam, ngõ hầu góp phần giữ gìn và phổ biến cho thế hệ sau biết (xin xem Sinh Hoạt Đời Sống Việt Nam trong quyển sách 4000 TỪ NGỮ THỰC HÀNH từ trang 567 đén trrang 599).

Nay, xin góp phần mọn về Vang bóng một thời qua các nông cụ Việt Nam, như chúng ta biết, đất nước VN phần đông sống về nông nghiệp, cho nên mới thấy trong dân gian có câu :

Tháng chạp là tháng trồng khoai,
Tháng giêng trồng đậu,
Tháng hai trồng cà,
Tháng ba cày vỡ ruộng ra,
Tháng tư làm mạ, mưa sa đầy đồng...

Lưỡi cày và trâu cày ruộng

Vì thế, công việc làm ruộng bắt dầu tháng 3 âm lịch (Tháng ba cày vỡ ruộng ra), ngày trước dùng lưỡi cày với đôi trâu cày đất làm ruộng. Sau đó, mới lựa lúa tốt làm giống để chuẩn bị rải lúa xuống miếng đất gieo mạ (Tháng tư làm mạ, mưa sa đầy đồng) và bừa trục miếng đất.

Trâu bừa trục đất và bừa răng cào

Mãi đến khoảng 14 tháng 7 âm lịch hằng năm, nước dâng bò lên tớicác ruộng đất gò, thì bắt đầu nhổ mạ, bởi vì, con nước rong chỉ thuận tiện để cấy được mấy ngày, nếu nhổ mạ trễ thì cây mạ kể như bị nằm phơi nắng, hoặc là có nơi mùa cấy bắt đầu rất muộn, khoảng đầu tháng 8 âm lịch. Đó là, lúc mưa dầm nước lụt, ngập đến lưng quần, nông dân phải cấy các loại giống lúa mùa có thân cao như : nàng thơm, nàng tét, trắng lùn... lúc đầu thì cấy nọc, sau đất thuộc dùng trâu cày thì cấy tay.

Nhổ mạ để cấy
Cây nọc và Quang cảnh các thợ cấy

Khoảng bốn giờ hay hơn một chút, người thợ cấy đến miếng ruộng để bắt công cấy và khoảng năm giờ sáng bắt đầu cấy, họ cấy thật nhanh thoan thoát với cái âm thanh tay người rút khỏi mặt nước nghe chong chóc vang đều, có nơi họ phải trầm mình dưới nước hoặc bị những đám mưa, mặc cho muỗi mòng đĩa vắt. Trên lưng họ là tấm lá chằm và chiếc nón lá để che mưa, nắng. Bữa cơm trưa của họ thường ăn trên bờ giồng gồm : Cơm, một chén Mắm chưng hoặc là Cá kho và một tô Bí rợ hầm dừa...

Khi nói đến cấy lúa, thường dành đàn bà, phải dùng cây nọc để cấy lúa. Cây nọc thường dùng cây Căm xe, Cà chất để đẽo làm cây nọc, nếu làm bằng cây tạp như cây : Sao, Dầu, Mù U... thì cấy chỉ được một mùa mà thôi.

Còn đàn ông thì lo chuyển gánh mạ, đôi khi bằng trâu để cung cấp cho đàn bà cấy.

Ngoài ra, họ phải lo cày bừa, trục và phát cỏ để dọn đất, cào cỏ thành bờ giồng cho sạch để trước khi quý đàn bà cấy lúa.

Khi nhắc đến cây Phảng phát cỏ, thì nó phải đi kèm với cây Cù nèo móc cỏ. Hồi xưa, dân làng phát cỏ dọn đất vào mùa mưa, vì cỏ mọc xanh dờn cả cánh đồng. Đây là, công việc nặng nhọc, người nông dân trai tráng chỉ có thể phát cỏ một công đất mỗi ngày, là mệt đừ, cho nên phải ăn cơm trước dằn bụng mới phát nổi, từ sáng sớm khoảng 4 giờ 30 hay 5 giờ đã ra đồng để phát cỏ, nghe tiếng phảng đập xuống phình phịch, làm dậy lên cả cánh đồng.
Cây Phảng với Cù nèo và người phát cỏ

Như chúng ta đã biết việc làm ruộng bắt đầu : Tháng ba cày vỡ ruộng ra,
Tháng tư làm mạ, mưa sa đầy đồng Cho đến gần Tết tức tháng Chạp mới đem lúa được về nhà và chuẩn bị ăn Tết nguyên Đán chào mừng năm mới.
Vì thế, nhà nông có nơi làm tới 2 hoặc 3 vụ mùa, tùy theo lúa giống và khu đất ruộng đã được phân chia khoanh vùng manh mún để thực hiện. vì thế, trên đồng ruộng lúc nào cũng có lúa chín, mới ngậm đồng đồng, mới cấy, mới gieo mạ hay cấy giâm...

Nhưng đa phần, mùa nước nổi từ tháng bảy đến tháng tám là mùa đông ken để cấy lúavà bắt đầu tháng 11 cho đến tháng Chạp là mùa gặt lúa chín vàng ngoài đồng.

Dưới đây, là quang cảnh cắt lúa, đập lúa của nhà nông :







Sau đó, mới phơi lúa, quạt lúa, giê lúa... mới đem lúa vào nhà, hoặc lúa bán đong bằng cái gịa 40 lít như dưới đây :








Khi có lúa vào bồ nhà rồi, quý bà con nhà nông còn phải qua giai đoạn xay lúa, rồi giả gạo mới có hạt gạo trắng để nấu cơm dùng hằng ngày, giai đoạn này thời xa xưa cũng không kém phần cơ cực mới có miếng ăn. Nhân đây, xin kể Cối xay lúa, Cối giả gạo, Cối xay bột....ngày xưa Vang bóng một thời nay không còn hữu dụng nữa như sau :

 
1.- Cối xay lúa : Ngày trước không có nhà máy xay lúa như ngày nay, cho nên phải dùng Cối xay lúa, trong thời gian trước kia, khoảng nửa thế kỷ, ngày nay cối này không còn thấy để sữ dụng nữa, chỉ thấy ở trong viện bảo tàng, để các em cháu thuộc thế hệ trẻ sau biết được Cối xay lúa, xin trích hình ảnh tôi đã chụp được như sau :

Khi nhìn chúng ta thấy Cối xay lúa có hai thớt trên và dưới chồng lên nhau, cho nên Ông bà mình nói Cối xay lúa này có âm dương kết hợp giống như Cối xay bột vậy, ngoài ra còn có cần trục để xay lúa. Cái thớt trên để đổ lúa vào như chúng ta thấy hình ảnh dưới đây :

Việc làm Cối xay lúa rất cơ cực, tôi đã nghe các bô lão xa xưa kể lại,xin trích dẫn như sau : Khi nhìn cái cối, chúng ta thấy cái vỏ của nó làm bằng tre hoặc trúc, cho nên trước hết phải đương như cái hình dạng giống như cái cần xé, rồi chọn đất sét thật tốt và dẽo, có khi dùng chân đạp vào cho de?, kế đến chọn cây như : Căm xe, Cà chất để chẻ làm răng đặt lên trên, nếu làm bằng cây tạp như cây : Đước,Sao, Dầu, Mù U... thì chỉ xài không được lâu, tuy giá rẻ hơn. Việc làm cối phải biết chẻ răng cho đúng kỹ thuật, nếu không xay lúa không ra gạo lức tốt mà còn làm nát gạo...

Việc làm cối thớt trên và thớt dưới làm giống như nhau,chỉ khác thớt trên phải khoét lỗ để khi xay lúa mà cho lúa vào và làm thêm 2 tay để gắn cần trục xay lúa. Sau đó, làm cái chân cối và cái cần cần trục để xay lúa bằng tay. Về việc làm cối, mỗi miền đất nước khác nhau, có nơi rất cầu ky?, dùng Tre để đan vỏ cối phải đốn vào tháng chạp, bởi vì, mùa khô, Tre khô ráo nước, vừa dễ đan và có độ bền. Còn răng cối được làm bằng rễ cây dẻvà được trét một lớp đất ổ mối lên các kẽ răng, bởi vì, các Cụ ngày xưa cho rằng đất ổ mối chịu được khí hậu nóng lạnh không nứt nẻ rất tốt.

Cối xay lúa chỉ để xay ra gạo lức, còn muốn có gạo trắng để ăn thì phải dùng chiếc cối giã gạo. Muốn có gạo lức sạch sau khi xay lúa xong, lại phải đem ra gió để giê lúa cho sạch vỏ lúa trước khi đem giã gạo trắng.





2.- Cối giã gạo gồm có cái cối và cái chày, thông thường thời xưa cái Cối làm bằng cây quý như Căm xe, Cà chất, Cẩm lai.... để cho nó cứng, chắc bền, quết (giã) lâu ngày không ra dăm, có hình trụ, sau thập niên 60 - 70 Cối không làm bằng cây nữa, mả được thay thế Cối bằng đá, bởi cây quý càng ngày khó tìm chăng ? còn cái chày thường làm 2 cái bằng cây tạp như : Sao, Dầu, Mù U...dài khoảng từ 1 thước 2 đến 1 thước rưỡi (1,5m), để hai người cùng giã cho mau trắng gạo, vào dịp năm hết Tết đến, thường dùng cái cối này để quết Bánh Phòng (xin xem bài Phong Tục Tết trích quyển Tìm Hiểu Đời Sống An Lạc từ trang 590 đến trang 616 của Tiểu Đệ Nguyễn Phú Thứ).





Cối chày giã gạo; Gạo tấm; Bà đang sàng gạo; Các cái Sàng
Sau khi giã gạo xong, còn phải dùng cái sàng để sàng lọc Cám và gạo tấm ra. Cám để cho heo ăn, còn gạo tấm để nấu cơm tấm sau này.

Cối xay bột

3.- Cối xay bột : Sau khi dùng Cối giã gạo để có gạo trắng nấu cơm ăn mỗi ngày, giống như người Pháp ăn bánh mì vậy. Nhưng muốn có bột dể làm bánh, thì phải dùng gạo ngâm nước trước một đêm trước khi xay ra bột. Cối xay bột, làm bằng khối đá, rồi đẽo thành hai thớt trên và dưới như hình kế bên đây. Ngày xưa, nhứt là trong dịp cận Tết, thông thường, quý bà con đồng hương dùngCối xay bột để xay ra bột, rồi làm các loại bánh, đặc biệt còn mang bột đến lò để tráng các bánh tráng như :bánh tráng mỏng đểlàm bánh cuốn, chả giò, bánh tráng mỏng ngọt để ăn sống,bánh tráng dày để nướng. Ngoài ra, quý bà trong khi tráng bánh, còn mang theo nhưn đậu xanh, dừa nạo mới rán vỏ... rồilấy bánh tráng ngọt mõng làm da bánh ướt ăn rất ngon. Đó là, thời kỳ xa xưa, Cối xay bột ngày nay không còn dùng nữa, vì bột đã được bày bán khắp nơi rất tiện dụng.
4.- Dụng cụ bắt Cá, lươn : Trở lại mùa nước nổi từ tháng bảy đến tháng tám là mùa đông ken để cấy lúa, các loại cá cũng thi nhau lên đồng tìm chổ đẻ và đến mùa lúa chín vàng đồng , nước bắt đầu rút cạn, thì cá cũng bắt đầu trở ra sông rach, cho nên nhà nông bắt cá quanh năm và thường dùng dụng cụ để bắt cá, xin trích dẫn trang 586 quyển 4000 Từ Ngữ Thực Hành 2 viết 4 ngôn ngữ : Anh Pháp Việt và Hoa (Đức) Ngữ của Nguyễn Phú Thứ có nêu lên các dụng cụ nhà nông đã vang danh một thời dưới đây :


Cái bung; Cái đụt; Cái giỏ( cái oi)

Cái rộng cá; Cái đăng

Nơm cá
Cái nơm; Nơm bắt cá; Cái đó
Cái lờ ( cái lừ); Cái trúm đặt bắt lươn

(Nếu cần tìm hiểu thêm phương cách Soi cá, Câu cá, Nhấp cá, Cấm câu, Giăng câu, Bủa lưới cá, Đặt lờ bắt cá Sặt, Đặt trúm bắt lươn, bắt chuột.... xin mời tìm đọc các bài viết của nhà văn Lê Cần Thơ, chủ bút tạp chi Văn Hóa Việt Nam, phát hành Houston, Texas, Hoa Kỳ, đặc biệt bài viết của Anh Kể Chuyện Bắt Cá Miệt Vườn Trên Sông Nước Quê Tôi, đã đăng trên đặc san Phù Sa Cửu Long Xuân Kỷ Sửu 2009 từ trang 93 đến trang 102, rất giá trị, trân trọng giới thiệu đến thế hệ trẻ nghiên cứu sưu tầm làm tài liệu khi cần).

Nếu chúng ta nhìn ngược thời gian trên dưới 50 năm, đời sống của chúng ta ở nông thôn VN, mặc dù với nông cụ thô sơ miệt vườn, không được văn minh máy móc tối tân như bây giờ, nhưng có đời sống thoải mái, bởi ngoài đồng có ruộng lúa, có cá tôm, chim, chuột rất nhiều, sau vườn có cây trái và có sông nước trong lành, không bị nhiểm trùng như hiện nay, làm cho sức khỏe con người bị bịnh đe dọa, bởi hóa chất và kỷ nghệ máy móc tạo nên. 

Hơn nữa, ngày nay dân số đã tăng trên 85 triệu người, trong khi các loại cá tôm sanh nở không đáp ứng lại nhu cầu đòi hỏi, cho nên không còn cảnh rải Cám ran thơm trên đất sình khi nước cạn rồi chờ các lũ Cá Mè Dinh theo nước lớn lên ăn mồi, để Chài vài mẻ bắt Cá Mè Dinh, như thời thân phụ tôi đã chài xa xưa, bởi vì, bị nguồn nước không được trong sạch do các chất thải độc hại ô nhiểm của các nhà máy, ngoài ra, do sự đánh bắt quá nhiều mà không biết bảo dưỡng các loại cá tôm cá, ví như rà điện.... làm tiêu hao những trứng và cá con, đôi khi không còn thấy xuất hiện những con cá quen thuộc như cá : Trê vàng, Lăng, Phèn, Rô đồng (chỉ thấy Cá Rô Phi)....
Để tạm kết thúc bài này, xin góp phần mọn cho những ai muốn tìm hiểu các Nông Cụ Vang Bóng Một Thời, đồng thời rất mong những vị đã từng sanh sống ở nông thôn hiểu biết, xin cho biết thêm để bổ túc bài này đầy đủ hơn. Trân trọng Cảm Ơn trước.

Tiểu Đệ

Thứ Năm, 2 tháng 6, 2011

Tình Nghĩa Nguyễn Hoàng - N.T.G.Hương

TÌNH NGHĨA NGUYỄN HOÀNG 
Nguyễn Thị Giáng Hương

                                                                             

            Lời giới thiệu:

              Cô Nguyễn Thị Giáng Hương là dân Huế 100%. Sau khi tốt nghiệp ĐHSP/Huế - Ban Anh Văn, Cô nhận nhiệm sở Trường Trung hoc Nguyễn Hoàng từ đầu niên khóa 1973 đến 30/4/1975. Thời gian đó, Cô đã chịu thương chịu khó cùng người Quảng Trị trong những ngày tạm cư ở vùng Non Nước (Đà Nẵng) cho đến khi về hồi cư tại bãi cát Hải Lăng - Quảng Trị.
 Sau năm 1975, Cô cùng gia đình thuyên chuyển lên Pleiku. Hơn 30 năm sau, Cô - trò liên lạc và tìm gặp nhau để rồi từ đó đến nay Cô có mặt hầu hết ở những cuộc hội ngộ Nguyễn Hoàng: từ Quảng Trị đến Saigon; từ Đồng Nai, Ngãi Giao ra tận Hàm Tân và Cô sẽ còn theo tiếng gọi Tình Nghĩa Nguyễn Hoàng ở những lần kế tiếp…
 Mời quý vị đọc một bài viết trong những bài viết về Tình Nghĩa Nguyễn Hoàng của Cô Giáng Hương để cảm nhận thêm tấm chân tình nồng nàn, thắm thiết của Cô dành cho đại gia đình Nguyễn Hoàng - Quảng Trị.

            “Bóp đây! Bóp đây! Bóp trên mười ngàn, bóp dưới hai mươi ngàn”.

            Đang uống cà phê trong quán, hai người đàn ông nghe tiếng rao hấp dẫn quá nên rủ nhau đi tìm nơi xuất phát. Đến nơi, họ mới biết mình bị hố to khi thấy người rao hàng là một phụ nữ trước ngực mang tấm bảng lớn treo lủng lẳng các ví đựng tiền đủ loại, đủ màu sắc được xếp thành hai dãy. "Bóp" ở đây là danh từ; là cái ví đựng tiền hay giấy tờ tùy thân theo tiếng gọi của người miền Trung. Thế mà hai người đàn ông kia lại hiểu nhầm chữ “bóp” là động từ nên mới hí hửng đi tìm… Ha ha… hơ hơ… hi hi… Cả xe vang lên tiếng cười, dzui quá là dzui… khi Mỹ Liên, một old Nguyễn Hoàng/Saigon vừa dứt câu chuyện góp vui.

Chúng tôi đang ngồi trên xe từ Saigon về Hàm Tân dự lễ mừng thọ thầy Lê Văn Quýt - một trong những vị giáo sư đầu tiên của trường Nguyễn Hoàng từ những năm đầu của thập niên 50. Trên xe, thầy cô Lê Hữu Thăng lớn tuổi nhất, kế đến thầy Nghiên. Tôi, anh Lê Thiện Ngữ và các old Nguyễn Hoàng khác đều trên dưới 60 một chút còn Liên Hưng là “út”.


       Cô Giáng Hương cùng thầy trò Nguyễn Hoàng trong
  chuyến về Hàm Tân mừng thọ thầy Lê Văn  Quýt (1/1/2011)

        Các MC Quang Tuyết, Trị và Đặng Mừng thay nhau làm “hoạt náo viên”. Hết tập hát đến đố vui có thưởng hoặc kể chuyện vui. Đi theo chuyến xe “cười” này chúng tôi có dịp cười tự do, cười thoải mái, cười… quên cả say xe. Cười từ Saigon đến Hàm Tân rồi tiếp tục cười từ Hàm Tân về lại Saigon. Quang Tuyết và Mỹ Liên ngoài năng khiếu ca múa ra còn kể chuyện khôi hài cũng rất sôi động.

           Theo tôi, chuyến xe này còn là “chuyến xe tình nghĩa", vì nó mang tình nghĩa  của các môn đệ của thầy Quýt về mừng thọ thầy. Tôi cảm phục lòng tôn sư trọng đạo của người Quảng Trị nói chung và của các cựu học sinh Nguyễn Hoàng nói riêng. Tôi nhớ trong lần về gặp thầy cô Lê Hữu Thăng ở Saigon vài tháng trước, tôi được nghe thầy bàn với Trị và Liên Hưng định ngày làm lễ mừng thượng thọ thầy Quýt - mà vợ chồng thầy Thăng là nhà tài trợ chính. Thế rồi sau khi bàn bạc chu tất, ngày Tết Dương Lịch năm 2011, Nguyễn Hoàng Hàm Tân đã hân hoan đón các old Nguyễn Hoàng từ khắp mọi miền đất nước về dự lễ mừng thượng thọ vị thầy cao niên nhất của trường. Thầy Quýt hôm ấy mặc áo dài khăn đóng rất trang trọng. Dù đã 90 tuổi nhưng mắt thầy vẫn sáng ngời, dáng người quắc thước, giọng nói rõ ràng, hoạt bát. Tôi có viết một bài lục bát tặng thầy, xin trích ra vài câu nói về thầy theo suy nghĩ của tôi trong những lần gặp thầy ở các họp mặt Nguyễn Hoàng trước đây:

 “Thầy tôi nay đã chín mươi

 Vẫn còn vững bước, mắt ngời tinh thông

 Bao năm thầy đã vun trồng

 Biết bao thế hệ Nguyễn Hoàng,  Hàm Tân…”

Khi thầy Thăng lên sân khấu chúc mừng thầy, thầy vô cùng cảm động nên ôm lấy thầy Thăng và nói: "Anh Thăng ơi! Việt Nam chỉ có mình tui là được học trò tổ chức mừng thọ như thế nầy”.

                                            
Cô Giáng Hương đang chúc thọ thầy Lê Văn Quýt

Cảm động hơn nữa vì thầy Thăng là môn đệ của thầy, rồi sau này là đồng nghiệp. Khi ở xa tận U.S.A, thầy Thăng đều luôn luôn hỏi thăm thầy, khi về Việt Nam lại đến nhà thăm thầy và đã là người khởi xướng để có buổi lễ long trọng mà ấm áp nghĩa tình này. Trước đó một tháng, các anh chị cựu học sinh Nguyễn Hoàng khắp nơi đã cùng nhau xướng họa những bài thơ mừng thọ thầy 90 tuổi trên mail, sau đó được tập hợp lại để in thành tập thơ “Tình Thầy Đồng Vọng”; trong đó chứa đựng cả những tấm lòng tôn sư trọng đạo của các Nguyễn Hoàng khắp nơi hướng về thầy; nhớ ơn thầy truyền dạy bao năm tháng dài; nhớ ơn thầy đã nối vòng tay lớn cho Nguyễn Hoàng khắp nơi kết nối. Thầy Thăng cũng là người hướng dẫn và tài trợ cho tập thơ - “một món quà rất quý giá, vừa tình cảm quý mến, vừa tôn vinh một thầy giáo trường Nguyễn Hoàng đã cống hiến cuộc đời cho sự nghiệp giáo dục của Quảng Trị chúng ta.” (Trích lời cảm tạ của nhóm thực hiện ở cuối sách).

Tấm lòng tôn sư trọng đạo của các cựu học sinh Nguyễn Hoàng được thể hiện qua việc tổ chức buổi lễ thật trang trọng và chu tất. Một tình nghĩa thầy trò hiếm có; một việc làm chưa từng có ở thời đại nầy khiến tờ báo chính của tỉnh Bình Thuận - nơi thầy Quýt đang sinh sống - cũng không cầm lòng được nên đã đưa tin kèm hình ảnh.

 Tôi sinh trưởng ở Huế. Tuy Huế và Quảng Trị không cách xa nhau lắm nhưng đến lúc ra trường tôi vẫn chưa biết gì về Quảng Trị hay về trường Nguyễn Hoàng. Ngày ra trường, khi chọn nhiệm sở ý tôi muốn lên Pleiku theo người yêu nhưng bị mẹ tôi bác bỏ: "Con gái chưa chồng phải ở gần ba mẹ, không được đi xa nhà". Ba tôi hiểu ý nên khuyên bảo rất chi là tâm lý: "Ba nghĩ nếu đã yêu nhau thì chờ đợi 2, 3 năm có là bao! Xa nhau nhưng vẫn chung thủy với nhau mới là tình yêu thật sự". Thế là tôi chọn nhiệm sở Nguyễn Hoàng, vừa để vừa lòng ba mẹ vừa để “thử thách tình yêu”.
Trường Nguyễn Hoàng năm học 1973-1974 còn tạm cư tại trại số 5 Non Nước - Đà Nẵng, thế nên tôi hầu như mù tịt về Quảng Trị và về trường Nguyễn Hoàng cũ. Tôi đã cùng với người Quảng Trị, với các học sinh của tôi ở đây 1 năm. Thời gian dạy học ở Nguyễn Hoàng - Non Nước, tôi được ban giám hiệu chia thời khóa biểu gọn lại, mỗi tuần chỉ dạy 3 ngày còn lại được nghỉ. Phần nhiều các giáo viên ở Huế đều được thông cảm xa nhà nên ban giám hiệu đã chia thời khóa biểu như vậy. Ngày nào dạy tôi ở lại nhà cô Chanh nghỉ trưa. Tôi cũng đã sống với người Quảng Trị, với các học sinh trong những căn nhà gỗ thô sơ gần biển – vùng đất nắng gắt, gió cát của Đà Nẵng. Có những lần đi dạy tôi phải đi bộ từ đường cái lớn rồi băng qua các phi đạo mới đến lớp được. Những ngày gió lớn, tôi tưởng chừng như gió sẽ cuốn mình đi trong gió cát mù mịt và thầm nghĩ “như là bão cát sa mạc!!!”. Nếu có ai chụp ảnh tôi lúc ấy, tôi hình dung ảnh sẽ đẹp vì tôi “như cánh vạc về chốn xa xôi …” (thời con gái tôi chỉ 37kg). Cho nên, gần đây khi Bích Liên gọi cho tôi từ U.S.A, em cứ bảo "nhớ cô thời gian khổ với Nguyễn Hoàng mà thương cô quá!”… Hồi ấy tôi rất thương các em học sinh của tôi vì môi trường sống khó khăn như thế nhưng các em vẫn không quản ngại hay lười biếng. Những ngày gió cát phủ đầy lớp học, lên cả bàn ghế, các em vẫn quét dọn sạch sẽ để học. Năm học sau trường dời về Hải Lăng, dù trường được xây lại khang trang hơn nhưng cũng nằm trên …cát. Toàn cát là cát!!! Thời gian này, tôi thuê nhà trọ ở với cô Trai, cô Quả, cô Sen và cô Cẩm Vân. Cô Trai và cô Quả ở Huế nên tôi đã gặp lại và hẹn nhau về họp mặt Nguyễn Hoàng ở Ngãi Giao tháng 6 này. Hai cô kia như “bóng chim tăm cá” không biết ở mô mà tìm !!!.  Thời gian hai năm dạy ở Nguyễn Hoàng chẳng là bao nhưng đã có biết bao nghĩa tình mà các em học sinh đã dành cho tôi. Âu đó cũng là “phần thưởng” cho những người con ngoan, ... biết nghe lời cha mẹ như tôi.

                                  

 cùng học trò tại sân trường Nguyễn Hoàng - Quảng Trị (20/6/2010)

Người lớn dù sao cũng có tầm nhìn xa hơn; và như ba tôi nghĩ, hai năm sau chúng tôi thành gia thất.

Sau ngày 30/4/75, tôi không trở lại nhiệm sở Nguyễn Hoàng Hải Lăng mà theo chồng lên Pleiku dạy học và định cư luôn ở đó, phải hơn 30 năm sau tôi mới gặp lại các học sinh Nguyễn Hoàng của tôi.

Đầu tiên là các em ở Pleiku như Trần Ngọc Thanh và Đoàn Ngọc Hồng, rồi đến Nguyễn Thanh từ Đại Học Sư Phạm Huế. Trước đó, Thanh đã gửi thư báo tin em đã ra trường và sẽ xin lên phố núi; em có được tin tức của tôi nhờ học cùng khóa với em tôi. Vợ chồng Trung Hương ở Ngãi Giao cũng biết được số điện thoại của tôi do em Quang ở Daklak cung cấp. Quang đã gặp tôi trong một lần về Pleiku công tác, lúc ấy dù tôi đã “đẫy đà” hơn nhưng em vẫn nhận ra. Đến khi tập san Nguyễn Hoàng - Chân Dung và Kỷ Niệm ra đời thì các em tìm gặp tôi nhiều hơn. Năm 2007 tôi nghỉ hưu nên có thời gian đi đây đó để gặp gỡ lại các học sinh thuở mới bước vào đời dạy học của mình và họp mặt với các đồng nghiệp khắp nơi. Ấn tượng nhất là lần tôi về Cù Bị để dự cuộc họp mặt của nhóm bạn liên lớp 10 niên khoá 1973 – 1974. Lần đầu tôi gặp lại nhiều học trò cũ, nhìn các em bây giờ đều chững chạc và cả… già nua, tôi vừa mừng vừa xúc động bùi ngùi. Để rồi từ đó đến nay, những cuộc gặp gỡ giữa tôi và Nguyễn Hoàng cứ tiếp nối. Xin có lời cảm ơn cô Võ Thị Quỳnh - một cựu học sinh của trường Nguyễn Hoàng - người chủ biên những tập sách nầy để thầy trò bạn hữu Nguyễn Hoàng khắp nơi biết tin tức mà tìm về với nhau.

...về vùng cao su Cù Bị thăm học trò cũ (Hè 2007)
Trong những lần gặp gỡ, tôi đã gần gũi học trò và nghe các em tâm sự về những thăng trầm cuộc sống, trong đó niềm vui thì ít mà gian khó thì nhiều. Miền Trung đất đai khô cằn vì là đất núi Trường Sơn. Ngày xưa mẹ tôi thường gán đất đai ở đây là nơi "chó ăn đá,gà ăn muối”, người nông dân khổ cực mới kiếm được hột gạo. Có những em cựu nữ sinh Nguyễn Hoàng - học trò cũ của tôi -  không may chồng mất sớm, các em phải đi làm ruộng vất vả; làm nhang bán hay chạy chợ hàng ngày để nuôi đàn con nhỏ. Thế mà các em vẫn đảm đang gánh vác việc nhà làm tròn thiên chức người mẹ và người chủ gia đình, thương và nể phục biết bao! Đó là lý do mà kỳ họp mặt Nguyễn Hoàng Quảng Trị 2010, tôi đã theo các em về nhà để thăm hỏi và nghe các em tâm sự mà quên mất việc gặp các đồng nghiệp và ghé thăm nhà dì tôi cũng ở gần trường. Lúc trở về nhà  sực nhớ tôi phải gọi điện xin dì tha cho cái tội “ham chơi” và hẹn dì năm sau. Lần họp mặt ngày 20 tháng 6 ấy Quảng Trị nắng quá - nghe đâu trên 41 độ C, tôi gần như say nắng nên các em đưa ra biển Mỹ Thủy hóng gió.                                                               

Học trò cũ của tôi ở thành phố Đông Hà cũng mỗi nhà mỗi cảnh: có em thành đạt, có em vẫn còn phải bôn ba…Nhưng tất cả đều có chung một tấm lòng tha thiết với trường cũ, với thầy cô, bạn bè nên dù khó khăn mấy cũng đi họp mặt để được nhìn thấy nhau, được tâm sự với nhau sau bao ngày xa cách.

Sống ở miền Trung gian khổ vì đất đai khô cằn, khí hậu khắc nghiệt, thiên tai thường xảy ra hàng năm và cũng vì nhiều lý do khác nên người Quảng Trị một số vào Nam lập nghiệp. Học trò cũ của tôi đa số ở các huyện thuộc tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu. Các em ở đây thường nhắc lại cái buổi ban đầu đến xứ lạ phải vất vả kiếm sống như thế nào. Đó là các nông trường cao su bạt ngàn mang tên Cù Bị 1, Cù Bị 2, Cù Bị 3. Tôi còn nhớ lần đầu khi kết nối liên lạc với nhóm Ngãi Giao, tôi đã muốn đi thăm các em ở Cù Bị. Từ Ngãi Giao vào đường đi toàn đất đỏ, trời mưa thì trơn trợt, đi xe hay đi bộ đều khó, thế nên phải đợi đến mùa khô vợ chồng Trung Hương mới đưa tôi vào vùng ấy. Sau khi vượt qua những con đường đất đỏ bụi mù, tôi đến nơi mới thấy rõ ý chí khắc phục khó khăn, cần cù của những người sống ở đây. Có lẽ họ đã  từng trải qua những ngày khổ ải, không chỉ với công việc mà còn phải chống chọi với bệnh sốt rét nguy hiểm để tồn tại được đến ngày hôm nay. Thật là :

    “Bàn tay ta làm nên tất cả

                                     Với sức người sỏi đá cũng thành cơm”

Gặp lại các em, ai cũng vui vì không ngờ tôi đến thăm, những Khánh, Tuấn, Trâm, Anh,... giờ đã có nhà cửa khang trang, mát mẻ. Tôi mừng cho các em và thầm cảm phục đức tính chịu thương, chịu khó của họ. Em nào cũng mời tôi ở lại chơi vài hôm nhưng tôi không có nhiều thời gian. Thế mà với tính hiếu khách sẵn có của người Quảng Trị, các em lại đưa tôi và vợ chồng Trung Hương về lại Ngãi Giao để mời tôi đi ăn cháo bột cá tràu và bánh khoái. Đến tối, sau một chầu cà phê các em mới tạm biệt tôi để trở lại nhà.

Nói đến tính hiếu khách của người Quảng Trị, tôi lại nhớ đến các cựu học sinh Nguyễn Hoàng ở Hàm Tân trong ngày lề mừng thượng thọ thầy Quýt. Sau khi tiếp đãi ăn trưa xong, tối lại, một chị là old Nguyễn Hoàng ở đây đã mang đến tặng đoàn Nguyễn Hoàng/Saigon một thau bánh bột lọc trần thật ngon. Chị làm thật công phu từng cái bánh nhỏ để vừa bỏ vào miệng. Buổi trưa nghe nói đã có một chị khác cho bánh bột lọc gói và bánh dừa rồi. Các học sinh của tôi cũng vậy, rất giàu tình cảm và rất hiếu khách; không gặp thì thôi, chứ đã gặp thì cứ mời về nhà cho bằng được, lo chỗ ăn, chỗ ngủ tươm tất. Nếu đi từ Saigon về đến Bà Rịa -Vũng Tàu hay ra Quảng Trị - Đông Hà, tôi không thiếu chỗ ở đâu. Như Liên Hưng hay vợ chồng Trung - Hương, cặp Vĩnh Phước - Mỹ ở Hắc Dịch hay cặp Bằng - Nga ở Đông Hà… Các em đối với tôi như chị em một nhà, gặp nhau là có bao nhiêu chuyện để nói, mừng vui khôn xiết! Và tôi đã sống với các em những ngày thật vui, đong đầy tình nghĩa. Năm nào tôi cũng dành thì giờ để đi họp mặt Nguyễn Hoàng ở khắp nơi để gặp gỡ những người Nguyễn Hoàng - Quảng Trị. Tôi cũng hẹn cô Chanh sẽ cùng về họp mặt Nguyễn Hoàng Quảng Trị  vào năm 2013; hẹn gặp cô Trai vào dịp họp mặt Nguyễn Hoàng tại Bà Rịa ngày 26/6 năm nay… Tôi hẹn sẽ về ở lại nhà Vĩnh Phước, nhà Trung - Hương và các em ở Đông Hà - Quảng Trị.

Cựu giáo sư Trường Trung Học Nguyễn Hoàng Quảng Trị về dự họp mặt tại Đồng Nai
Từ trái: Cô Giáng Hương, thầy Chi, thầy Bảo, thầy Đô, thầy Đính, thầy Quýt, thầy Thanh, thầy Thăng, thầy Nghiên và thầy Điền. (ngày 25/7/2009)

Hy vọng là tôi sẽ không lỗi hẹn với ai cả... Tôi cũng không ngờ tình cảm của mình đối với Nguyễn Hoàng lại sâu nặng đến thế! Tôi cứ thầm nghĩ : Nếu ngày xưa ấy mình không chọn nhiệm sở Nguyễn Hoàng thì ngày nay đã không gặp được một Đại gia đình Nguyễn Hoàng thân thương và tràn đầy nghĩa tình như thế này. 
Pleiku (23/5/2011) - NTGH

Huyền thoại TTKH

Huyền thoại TTKH và Hai sắc hoa ty gôn 

Bấm vào đường link dưới để nghe giọng ngâm Bạch Huệ của bài thơ này:

Hai loại ti gôn hồng và trắng
Hai sắc hoa ty gôn, huyền thoại lãng mạn gắn bó với Thâm Tâm, một trong những nhà thơ tài hoa mệnh yểu thời tiền chiến. TTKh hay Thâm Tâm là người đầu tiên sử dụng hai chữ "người ấy" và đem hình ảnh "hoa ty gôn" vào trong thơ, như một hình tượng nghệ thuật mơ hồ và phiếm định về người tình và cuộc tình tan vỡ.
Trong những bài thơ tác giả ẩn danh hoặc ký tên nhưng không biết rõ người ấy là ai, Hai sắc hoa ty gôn và TTKh là một huyền thoại lãng mạn đã gây mối trắc ẩn cho nhiều thế hệ yêu thơ.
Câu chuyện bắt đầu cách đây 70 năm, ngày 27/9/1937 trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bẩy, số 174 xuất bản tại Hà Nội, có đăng truyện ngắn Hoa ty gôn của Thanh Châu, nội dung kể lại mối tình tan vỡ của đôi trai gái ngày trước đã hò hẹn dưới giàn hoa ty gôn. Ít lâu sau, có người đàn bà trẻ, dáng dấp bé nhỏ, nét mắt u buồn, mang đến tòa soạn Tiểu Thuyết Thứ Bẩy một phong bì dán kín, gửi cho ông chủ bút, trong có bài thơ Hai sắc hoa ty gôn, ký tên TTKh. Bài thơ Hai sắc hoa ty gôn được đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bẩy số 179, ra ngày 30/10/1937, và sau đó còn ba bài nữa cũng ký tên TTKh được gửi bằng đường bưu điện đến tòa soạn
- Bài thơ thứ nhất, Tiểu Thuyết Thứ Bẩy số 182 (20/11/1937),
- Đan áo cho chồng, đăng trên Phụ Nữ Thời Đàm,
- Bài thơ cuối cùng, Tiểu Thuyết Thứ Bẩy, số 217 (23/7/1938).

Bài thơ thứ nhất xuất hiện sau Hai sắc hoa ty gôn gần một tháng, và Bài thơ cuối cùng đăng tám tháng sau.
Hoa ti gôn với hai sắc hồng và trằng
Ngay khi Hai sắc hoa ty gôn ra đời, giới văn nghệ sĩ đã xôn xao, thi sĩ J. Leiba, người cùng tâm sự với TTKh và là tác giả hai câu thơ nổi tiếng "Người đẹp vẫn thường hay chết yểu. Thi nhân đầu bạc sớm hơn ai", chép lại nguyên văn bài Hai sắc hoa ty gôn trên Ngọ Báo với lời mở đầu:

Anh chép bài thơ tự trái tim
Của người thiếu phụ lỡ làng duyên
Lời thơ tuyệt vọng ca đau khổ
Yên ủi anh và để tặng em.

Nguyễn Bính sau khi đọc Bài thơ thứ nhất đã viết bài Dòng dư lệ để tặng TTKh, in lại trong tập Lỡ bước sang ngang và Thâm Tâm có ba bài Màu máu ti gôn, Dang dở và Gửi TTKh, và nhiều thế hệ sau còn có những bài thơ khác sụt sùi thương cảm cho số phận TTKh. Vậy TTKh là ai ?

Giọt lệ tương tư mới

Hai sắc hoa ty gôn mở đường cho một lối lãng mạn khác với lãng mạn Đông Hồ, Tương Phố. Có thể nói Hai sắc hoa ty gôn là giọt lệ tương tư mới, nơi TTKh, không phải là giọt lệ khóc chồng của Tương Phố, khóc vợ của Đông Hồ, mà là giọt lệ khóc cho tình yêu; hơn thế nữa, khóc người tình ngoài hôn nhân, một đối tượng tự do, phóng khoáng, vượt khỏi khuôn khổ lễ giáo thời bấy giờ. Và lần đầu tiên hai chữ người ấy được chính thức đưa vào thi ca, sau này nó sẽ trở thành "cổ điển", trở thành ngôn ngữ gối đầu giường của giới trẻ trong nhiều thế hệ :

Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn,
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc,
Tôi chờ người đến với yêu đương.

Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong,
Và phương trời thẳm mờ sương, cát,
Tay vít dây hoa trắng chạnh lòng.

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài trong lúc thấy tôi vui,
Bảo rằng:"Hoa, dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!"

Thuở ấy, nào tôi đã hiểu gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly,
Cho nên cười đáp:"Màu hoa trắng
Là chút long trong chẳng biến suy."

Đâu biết lần đi một lỡ làng,
Dưới trời đau khổ chết yêu đương.
Người xa xăm quá ! - Tôi buồn lắm,
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường...

Từ đấy, thu rồi, thu lại thu,
Lòng tôi còn giá đến bao giờ
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ...
Người ấy, cho nên vẫn hững hờ.

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết,
Vẫn giấu trong tim bóng "một người".

Buồn quá! hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ.
Và đỏ như màu máu thắm pha !

Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi...
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã,
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi !

Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,
Chiều thu, hoa đỏ rụng chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng,
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò.

Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng,
Trời ơi! Người ấy có buồn không ?
Có thầm nghĩ tới loài hoa... vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng ? (1)

Người ấy

Trong văn xuôi Việt Nam, hai chữ người ấy đã được Nguyễn Trọng Quản dùng để chỉ người tình trong truyện ngắn Thầy Lazaro Phiền từ 1887. Vậy Nguyễn Trọng Quản là người đầu tiên đưa danh từ Người ấy vào trong văn Việt. Và Thanh Châu xướng lên hình ảnh hoa ty gôn trong truyện ngắn đăng trước bài thơ của TTKh một tháng, trên Tiểu Thuyết Thứ Bẩy.

Nhưng TTKh là người đầu tiên sử dụng hai chữ "người ấy" và hình ảnh "hoa ty gôn" vào thơ, như một hình tượng nghệ thuật mơ hồ và phiếm định về người tình và cuộc tình tan vỡ. Về mặt tâm lý xã hội, người đàn bà có chồng những năm 36 - 37, mấy ai dám nói đến người tình một cách công khai ? TTKh đã viết nên những lời tâm sự của bao nhiêu người đàn bà cùng cảnh ngộ ngang trái, sống trong xã hội Khổng Mạnh đầu thế kỷ :

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết,
Vẫn giấu trong tim bóng "một người".

TTKh là ai ?

Trong Bài thơ thứ nhất, in sau Hai sắc hoa ty gôn hai tháng, có những yếu tố xác định rõ hơn về cuộc tình này :

Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
Yêu bóng chim xa nắng lướt mành.

và nhất là hai câu cuối :

Biết đâu tôi một tâm hồn héo
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi.

Vườn Thanh và chồng nghiêm là hai yếu tố gây tranh luận về nơi xẩy ra cuộc tình và tên người chồng. Vườn Thanh ở đâu? Có phải ở Thanh Hóa không? Và người chồng của TTKh tên là gì ? Có phải là Nghiêm không ?

Đến bài thơ thứ ba, bài Đan áo cho chồng, lời thơ xa xót đầy nước mắt :

Ngoài trời mưa gió xôn xao
Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm
Ai đem lễ giáo giam em
Sống hờ trọn kiếp trong duyên trái đời.

Và Bài thơ cuối cùng có những câu gần như khó hiểu:

Trách ai mang cánh “ti gôn” ấy
Mà viết tình em được ích gì ?

Bởi nếu TTKh là người đem chuyện của mình ra viết thành thơ, thì tại sao nàng lại trách ai ? Vậy ai đây là ai ? Nàng trách chính nàng hay nàng trách người yêu? Nhất là đoạn sau, lời hờn giận càng thêm gay gắt:

Là giết đời nhau đấy biết không ?
Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
Giận anh em viết dòng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối cùng.

Tất cả những lời trách móc u uẩn này với nhịp điệu du dương, lời thơ tha thiết, gắn bó, làm cho toàn bộ tác phẩm trở thành huyền thoại.

Nếu so sánh 4 bài thơ ký tên TTKh và 3 bài thơ "trả lời" của Thâm Tâm in trên Tiểu Thuyết Thứ Bẩy sau đó, người ta có thể mở được những nấc cửa đầu tiên vào những bí ẩn này. Bài Gửi TTKH của Thâm Tâm có những câu sau đây:
...
Tiếng xe trong vết bụi hồng
Nàng đi thuở ấy nhưng trong khói mờ
Tiếng xe trong xác pháo xưa,
Nàng đi có bốn bài thơ trở về
Tiếng xe mở lối vu qui
Nay là tiếng khóc nàng chia cuộc đời!
Miệng chồng, Khánh gắn trên môi
Hình anh, mắt Khánh sáng ngời còn mơ.
Từ ngày đàn chia đường tơ
Sao tôi không biết hững hờ nàng đan
Kéo dài một chiếc áo len
Tơ càng đứt mối, nàng càng nối dây.
Nàng còn gỡ mãi trên tay,
Thì tơ duyên mới đã thay hẳn màu.
Góp hai thứ tóc đôi đầu,
Sao còn đan nối những câu tâm tình?
Khánh ơi còn hỏi gì anh?
Lá rơi đã hết mầu xanh màu vàng."
....

Thâm Tâm nhắc đến người yêu tên Khánh. Vậy TTKh là gì ? Có phải là những chữ Thâm Tâm - Khánh, viết tắt ? Hay là Tuấn Trình - Khánh (vì Thâm Tâm tên thật là Nguyễn Tuấn Trình). Hay TTKh là Trần Thị Khánh, người yêu của Thâm Tâm ?

Có thể nói hầu hết những nhà biên khảo từ Hoài Thanh, Hoài Chân, trong Thi Nhân Việt Nam (1940), Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên (1965), Nguyễn Hữu Long, Nguyễn Tấn Trọng trong Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến (1968) ... và gần đây trong Tuyển Tập Thơ Mới 1932-1945 Tác Giả và Tác Phẩm do Lại Nguyên Ân và Ý Nhi tập hợp phát hành năm 1992, tất cả đều đánh dấu hỏi về TTKh.

Lập luận của Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng

Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng là hai nhà biên khảo đầu tiên có ý tìm hiểu kỹ nhất về cái mà hai ông gọi là "Nghi án TTKH và Thâm Tâm". Trong bộ Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến, hai ông đưa ra những nhân chứng và những giả thuyết đã xuất hiện trên báo chí, văn đàn từ năm 38 đến 68 của các ông Giang Tử, Thạch Hồ, Y Châu, Nguyễn Bá Thế, Lê Công Tâm, Anh Đào. Người thì cho rằng TTKh chính là Thâm Tâm. Người lại quả quyết TTKh là Trần Thị Khánh, người yêu của Thâm Tâm.

Ông Giang Tử thuật lại cuộc gặp gỡ với nhà thơ Tế Hanh vào tháng 11 năm 1944 trên chuyến xe đi Quảng Ngãi: "Tế Hanh cho biết TTKh chính là Trần Thị Khánh, người em gái đồng tông với mình ở Thanh Hoá và kể rõ thiên tình hận của nàng và thi sĩ Thâm Tâm. Giả thuyết này không đứng vững vì Tế Hanh không phải người Thanh Hoá mà Quảng Ngãi và vườn Thanh trong bài thơ không chắc đã là Thanh Hoá.

Ông Thạch Hồ và ông Y Châu đều cho biết: TTKh là nhân vật có thật, đã đôi ba lần đến thăm thi sĩ Thâm Tâm ở Khâm Thiên, lúc ông này ở chung với Nguyễn Bính và Trần Huyền Trân (giả thuyết này phù hợp với lời tường thuật của Nguyễn Vỹ sau này).
Ông Nguyễn Bá Thế, tức nhà văn Thế Nguyên lại xác định: TTKh chính là nhà văn Thẩm Thệ Hà, có tên thật là Tạ Thành Kỉnh, TT là Tạ Thành còn K và H là chữ Kỉnh viết tắt. Việc này bị Thẩm Thệ Hà phủ định hoàn toàn.
Nhưng có ba giả thuyết đáng chú ý :
- Trên tạp chí Giáo Dục Phổ Thông, số 49, ra ngày 1/11/1959, tại Sài Gòn, ông Lê Công Tâm cho biết: TTKh chính là thi sĩ Thâm Tâm, người đã dàn cảnh một thiếu phụ bị ép duyên, khóc tình dang dở bằng những bài thơ Hai sắc hoa ty gôn và Bài thơ thứ nhất.

- Báo Sống ra ngày 15/4/1967, ông Nguyễn Tố, xác định đã sống chung với Thâm Tâm năm 1936, cùng với Trần Huyền Trân, Vũ Trọng Can. Thâm Tâm có mấy bài thơ ký tên TTKh như bài Hai sắc hoa ty gôn. Lúc đó Khánh là người mà Thâm Tâm yêu say đắm, lúc Khánh đi lấy chồng, Thâm Tâm đau khổ gần như phát điên. Lũ chúng tôi vừa giễu cợt, vừa khuyên lơn. Chính trong thời gian thất tình, Thâm Tâm viết được mấy bài thơ ký tên TTKh.
- Nhưng trong báo Nhân Loại, bộ mới số 108 ra tháng 7 năm 1958 tại Sàigòn, ông Anh Đào lại đưa ra một thoại mới mà thoại này, theo ông, do chính Thâm Tâm kể lại. Ông Anh Đào kể rằng: Năm 1941, trong một đêm thu lạnh lẽo, ông được ngồi giữa hai nhà thơ Nguyễn Bính và Thâm Tâm bên một bàn đèn thuốc phiện và chính ông được nghe Thâm Tâm tâm sự. Thâm Tâm nói rằng: TTKh. là tên một thiếu phụ mà trước kia tôi yêu. Và Thâm Tâm xác định những bài thơ đăng trên báo là của nàng, và ông Anh Đào kết luận rằng Thâm Tâm xứng đáng là "người ấy" của TTKh.
Sau khi đưa ra các luận chứng và giả thuyết trên đây, Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng, tác giả Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến, kết luận :
TTKh. không thể là sản phẩm tưởng tượng của Thâm Tâm vì đó là nỗi lòng tha thiết của một người, với những vần thơ lâm ly như thế thì người khác không thể viết thay được. Vậy Thâm Tâm là Thâm Tâm và TTKh là TTKh. Hai người có thể là đôi tri kỷ nhưng không thể cùng là một người. Các tác giả Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến muốn đóng hồ sơ nghi án trên một huyền thoại.


Sự xác định của Nguyễn Vỹ

Nguyễn Vỹ là một trong những nhà thơ tiên phong trong phong trào Thơ Mới. Năm 1970, khi Nguyễn Vỹ xuất bản cuốn Văn Thi Sĩ Tiền Chiến tại Sàigòn, thì ông đã đưa sự thực về Thâm Tâm và TTKh ra ánh sáng.


Trang bià quyển Văn Thi Sĩ Tiền Chiến và bài viết về TTKh của nhà thơ Nguyễn Vỹ
(Nguồn : thinhanquangngai.worldpress.com)

Như chúng ta đã biết, sau Phan Khôi, Nguyễn Vỹ cùng với Lưu Trọng Lư, Nguyễn Thị Manh Manh, Thế Lữ là những người đã phát triển phong trào Thơ Mới. Nguyễn Vỹ và Mộng Sơn lập trường phái Bạch Nga, chủ trương cách tân thơ, chú trọng đến khía cạnh âm nhạc và hình thức xếp chữ trong thơ. Trường phái Bạch Nga bị Thế Lữ và Hoài Thanh đả kích kịch liệt, thơ Nguyễn Vỹ không được tiếp nhận đúng mức. Đánh giá thơ Nguyễn Vỹ là một vấn đề khác mà chúng tôi không đề cập đến trong bài này. Nguyễn Vỹ là bạn thân của Lan Khai, Lưu Trọng Lư, Trương Tửu và trong cuốn Văn Thi Sĩ Tiền Chiến ông đã vẽ lại chân dung 35 nhà văn, nhà thơ sinh hoạt trong không khí văn học từ đầu thế kỷ đến 1945. Một tư liệu quý cho những người nghiên cứu văn học.
Sau hơn 30 năm im lặng, 1970, một năm trước khi mất, Nguyễn Vỹ đã công bố những lời tâm sự của Thâm Tâm 22 năm sau khi Thâm Tâm qua đời trong bài viết Thâm Tâm và sự thât về TTKh. mà chúng tôi xin lược trình sau đây :
Năm 1936, 37 có xuất hiện ở phố Chợ Hôm, ngoại ô Hà Nội, một nhóm văn sĩ trẻ với bút hiệu là Trần Huyền Trân, Thâm Tâm và một vài người nữa. Ít ai để ý đến họ. Huyền Trân và Thâm Tâm đều mới 18, 19 tuổi. Họ có một tờ tuần báo nhỏ, tên là Bắc Hà ở phố Chợ Hôm. Chủ động trên tờ báo là Trần Huyền Trân. Báo Bắc Hà bán không chạy lắm, tuy có vài mục hài hước, vui, nhờ mấy bức vẽ của Tuấn Trình. Thâm Tâm là bút hiệu của Tuấn Trình. Tuấn Trình vẽ nhiều hơn viết, thỉnh thoảng đăng một bài thơ, vài mẩu truyện ngắn. Đôi khi thấy xuất hiện trên mặt báo vài ba bài thơ có tính cách ca dao, ái tình của Nguyễn Bính học sinh lớp nhất trường tiểu học Hà Đông. Nguyễn Bính thi rớt, nghỉ học luôn.
Tôi - tức là Nguyễn Vỹ - tuy không chơi thân, nhưng quen biết Trần Huyền Trân khá nhiều vì anh ta ở trọ một căn nhà trong ngõ Khâm Thiên, phía sau chợ. Tôi ở một gác trọ của đường Khâm Thiên, gần Ô Chợ Dừa. Đôi khi Trần Huyền Trân nhờ tôi viết bài cho tuần báo Bắc Hà "cho vui" vì không có tiền nhuận bút. Để tỏ tình thông của văn nghệ, tôi có viết một truyện ngắn khôi hài, và chỉ có một lần.
Trong một số báo đặc biệt Mùa Hè, Tuấn Trình có vẽ một cặp Bạch Nga bơi trên Hồ Hoàn Kiếm và ghi ở dưới "Nguyễn Vỹ và Mộng Sơn".
Tôi quen biết Tuấn Trình là do Trần Huyền Trân giới thiệu. Nhà anh ở Chợ Hôm, cách chợ độ ba, bốn trăm thước. Anh đẹp trai, y phục lúc nào cũng bảnh bao, người có phong độ hào hoa, lịch thiệp. Tôi thấy ở Sàigòn có anh Hoàng Trúc Ly, nhà văn, na ná giống Tuấn Trình về dáng điệu cũng như tính tình, tư cách. Nhiều khi gặp Hoàng Trúc Ly trên đường Bonnard Sàigòn, tôi quên lững, cứ tưởng như gặp Tuấn Trình trên phố Chợ Hôm Hà Nội.
Một buổi chiều gần tối, Tuấn Trình đi lang thang gần chợ Khâm Thiên. Tôi từ Hà Nội về nhà, tôi tưởng anh đến Trần Huyền Trân, nhưng anh bảo: Thằng Huyền Trân nó đi đâu, không có nhà. Tôi rủ anh về gác trọ của tôi ở cuối phố. Hôm ấy, tôi có vài chục bạc trong túi, có thể làm một tiệc bánh giò chả lụa với Tuấn Trình. Tôi bảo anh ở lại ngủ với tôi cho vui. Đêm ấy cao hứng, Tuấn Trình ngà ngà say rượu Văn Điển, kể chuyện tình của anh với cô Khánh cho tôi nghe.
Câu chuyện tình

Trần Thị Khánh là một cô học trò lớp nhất trường tiểu học Sinh Từ. Thi hỏng, cô ở nhà giúp mẹ làm việc nội trợ. Nhà cô cũng ở đường Sinh Từ, ngay cạnh Thanh Giám, nơi đền thờ Khổng Tử.

Thanh Giám là một thắng cảnh Hà Nội, đã liệt vào cổ tích Việt Nam, xây cất từ đời nhà Lý, tu bổ cho tới đời nhà Lê, hình chữ nhật, xung quanh xây tường đá ong, cao độ hai thước Đền thì ở trong cùng, trước đền có Hồ Tròn, hai bên hồ có những tấm bia ghi tên các tiến sĩ đời nhà Lê. Vào Thanh Giám có cổng tam quan lớn, trước cổng có tấm bia đề hai chữ Hán "Hạ mã" và hai trụ cao. Trong vườn trồng rất nhiều cây cổ thụ và các cây kiểng, nơi đây rất yên tĩnh và mát mẻ, cũng là nơi các cặp trai gái hẹn hò tâm sự. Trước kia có một bầy quạ chiều tối bay về đây ngủ, cho nên người Pháp cũng gọi là Pagode des corbeaux. Chùa Quạ, ngoài danh từ lịch sử Temple de Confucius, Đền Khổng Tử.
Cô nữ sinh Trần Thị Khánh là một thiếu nữ đẹp. Tuấn Trình có một người cô, nhà ở phố Chợ Cửa Nam, gần Sinh Từ. Anh thường đến đây thăm cô và trông thấy cô Khánh đi chợ mỗi buổi sáng. Lúc ấy vào khoảng tháng 2 năm 1936, họa sĩ Tuấn Trình -tên gọi hồi đó- mới 19 tuổi, và cô Khánh 17 tuổi. Tuấn Trình mới bắt đầu vẽ và viết chút ít trong tờ tuần báo Bắc Hà của Trần Huyền Trân vừa xuất hiện.
Sau một vài tháng theo dõi, Tuấn Trình làm quen được với cô Khánh và gởi báo Bắc Hà tặng cô. Cô gái 17 tuổi, cảm mến người nghệ sĩ tài hoa, tình yêu chớm nở như cành hoa antigone trắng cũng vừa chớm nở trong tháng đầu hè trước sân nhà cô.


Hoa ti gôn hồng (antigonon leptopus)
(Nguồn : Wikipedia/JM Garg)
Antigone là loại hoa của người Pháp đem qua hồi đầu thế kỷ, không thơm nhưng đẹp. Nó là loại hoa dây, lá giống như lá nho, cho nên ở miền Nam nhiều người gọi là hoa nho. Có hai loại : hoa trắng và hoa hồng. Hoa nở vào đầu mùa hè thành những chùm rất dễ thương, nụ hoa giống hình trái tim nho nhỏ. Ở Hà Nội người ta trồng rất nhiều và bán cũng rất nhiều ở chợ Đồng Xuân, cũng như ở Chợ Hoa, bờ hồ Hoàn Kiếm. Cắm nó vào lọ để phòng khách, nó buông ra một vẻ lãng mạn, khả ái lắm. Người Bắc gọi tắt là hoa ty gôn. Ở phố Sinh Từ, antigone mọc rất nhiều, như trước sân nhà ông Nguyễn Văn Vĩnh và Nguyễn Nhược Pháp. Nhà trọ của Lưu Trọng Lư và Lê Tràng Kiều ở phố Hàm Long có cả một giàn hoa trắng và hồng. Nhưng mùa đông lá rụng, hoa tàn thì không cảnh nào tiêu sơ quạnh quẽ bằng.

Tình yêu của Tuấn Trình và Trần Thị Khánh chớm nở ngay lúc những chùm hoa antigone vừa hé nụ, và chết giữa mùa đông năm đó, trong lúc giàn hoa ty gôn úa tàn, rụng ngập đầy sân. Thời kỳ mơ mộng ngắn ngủi trong mấy tháng hè, sang hết mùa thu, không đem lại chút thỏa mãn nào cho tâm hồn khao khát của Tuấn Trình.

Chính lúc này Tuấn Trình lấy bút hiệu là Thâm Tâm. Một vài bài thơ tình thức đêm làm tặng cô Khánh. Những bài thơ đầu tiên đăng trên tuần báo Bắc Hà đều ký là Thâm Tâm, nhưng các tranh vẽ trong báo vẫn ký Tuấn Trình. Nhưng cô gái 17 tuổi, dè dặt, theo lễ giáo của gia đình, chưa thật bao giờ đáp ứng đúng với tình yêu tha thiết của Tuấn Trình Thâm Tâm.

Trong lúc những cặp tình nhân trẻ trung dắt nhau đi du ngoạn khắp nơi thơ mộng ở Hà Nội và ngoại ô, thì Trần Thị Khánh cứ phải từ chối những lời mời của Thâm Tâm. Cô thường nói: "Thầy mẹ em nghiêm lắm, gia đình em nghiêm lắm." Lần nào cô Khánh cũng lặp lại chữ nghiêm gia giáo ấy để trả lời kỳ vọng khát khao của người yêu.

Chỉ được hai lần Khánh đến nơi hẹn, nhưng không được lâu. Lần thứ nhất, một đêm trăng, Khánh lẻn băng qua đường vào vườn Thanh Giám. Tuấn Trình đã chờ người yêu nơi đây, dưới bóng cổ thụ. Nhưng cả hai cũng không nói được gì, Khánh run sợ. Tuấn Trình bối rối, tất cả những lời lẽ bay bướm đã sắp sẵn, bây giờ quên hết. Cuối cùng lại trách móc nhau vì những chữ "Thầy mẹ em nghiêm lắm" và rồi Khánh cũng vội vã chạy về nhà.

Lần thứ hai, vườn Thanh Giám đêm ấy cũng ngập ánh trăng thu. Nhiều người nói Thanh là Thanh Hóa, là hoàn toàn sai sự thật. Nhưng thái độ của Khánh lạ lùng, khó hiểu. Hình như Khánh muốn nói với Tuấn Trình một điều gì, nhưng ngại ngùng không nói. Rồi nàng buồn bã hỏi: "Anh định bao giờ đến xin thầy mẹ cho chúng mình ?" Chàng họa sĩ bối rối trước câu hỏi bất ngờ. Chàng lơ đễnh bảo: "Anh chưa nghĩ đến việc ấy, vì..." Câu chuyện bị bỏ dở nơi đây cho đến khi từ giã.

Hai người vẫn thư từ với nhau cho đến một hôm... Tuấn Trình nhận được bức thư của người yêu, không, của người đã hết yêu, báo tin nàng sắp lấy chồng. Thư viết bằng mực tím, trên bốn trang giấy học trò, xé trong một quyển vở Nam Phương Hoàng hậu (loại vở học trò rất thông dụng lúc bấy giờ).

Đại khái trong thư Khánh nhắc lại tình yêu "thơ mộng" của cô với "người nghệ sĩ tài hoa son trẻ", đó là những chữ cô dùng trong thư. Tình yêu rất đẹp, nhưng vì thầy mẹ của cô rất "nghiêm" theo lễ giáo, nên dù vị hôn phu của cô là một người chỉ mới biết sơ thôi nhưng cô vẫn có "bổn phận phải giữ tròn chữ hiếu", cô than thở đời cô khổ nên tình duyên ngang trái, cô khóc suốt đêm, v.v... Cuối thư ký tắt Kh.

Tuy Khánh không viết gì về vị hôn phu và ngày cưới, nhưng sau dọ hỏi, Tuấn Trình được biết chồng Khánh là một nhà buôn giàu có ở phố Hàng Ngang, 39 tuổi, đẹp trai, góa vợ và không có con. (Trong câu thơ bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi là chỉ sự cách biệt tương đối giữa tuổi 39 của người chồng và tuổi vị thành niên của Khánh). Tiệc cưới rất linh đình, rước dâu bằng 10 chiếc Citroën mới. Cô dâu đeo nữ trang rực rỡ, mặc chiếc áo màu đỏ tươi, lộng lẫy ngồi cạnh người chồng mặc áo gấm xanh.

Đêm trước hôm cô Khánh lên xe hoa, Thâm Tâm tổ chức tại tòa báo Bắc Hà một tiệc thịt chó, uống Mai quế lộ, mời Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính và Vũ Trọng Can tham dự. Họ say sưa ngâm thơ, làm thơ, cười đùa cho đến khuya rồi lăn ra ngủ trên đất.

Trái với mọi dự đoán, Khánh rất hạnh phúc với chồng. Người đau khổ là Tuấn Trình Thâm Tâm. Vừa nhớ thương đơn phận, vừa bị mặc cảm của người nghệ sĩ nghèo bị người yêu bỏ rơi, lại còn bị mấy thằng bạn chế nhạo, đùa bỡn, nhất là Vũ Trọng Can.

Vì một chút tự ái văn nghệ, Tuấn Trình đã thức suốt đêm, theo lời anh thuật lại, để làm bài thơ Hai sắc hoa ty gôn, ký tên TTKh, với thâm ý cho Trần Huyền Trân và Vũ Trọng Can tin là của Khánh làm ra để thương tiếc mối tình tan vỡ. Muốn giữ tính cách bí mật, Tuấn Trình nhờ cô em họ chép lại bài thơ trên, dán kín bao thơ và nhờ cô này mang thư đến tòa báo.

Tất nhiên là giọng thơ lãng mạn của Tuấn Trình hoàn toàn khác với lời tâm sự trong bức thư cuối cùng của Khánh báo tin sắp lấy chồng. Cô Khánh không biết làm thơ. Và theo lời Tuấn Trình, cô ghét những bài thơ của Thâm Tâm. Sau khi nhận được bức thư cuối cùng của Khánh, trong thư Khánh tỏ ý không bằng lòng Tuấn Trình đã mượn tên cô để làm thơ kể chuyện tình duyên cũ trên báo, có thể làm hại đến cuộc đời của cô. Trong lá thư phản đối đó, Khánh xưng tôi chứ không xưng em nữa.
Thâm Tâm lấy lại những lời, những chữ trách móc giận dữ của Khánh trong thư để làm Bài thơ cuối cùng ký tên TTKh, với những câu :
Trách ai mang cánh “ti gôn” ấy
Mà viết tình em được ích gì ?
Bài thơ đan áo nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách xem.
Là giết đời nhau đấy biết không ?
Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
Giận anh em viết dòng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối cùng.
Từ nay anh hãy bán thơ anh
Còn để yên tôi với một mình
Rồi để đáp lại Bài thơ cuối cùng, Thâm Tâm làm bài Dang dở tặng TTKh, cũng là bài thơ kết thúc niềm đau của mối tình dang dở :
Nhưng anh biết cái gì xưa đã chết,
Anh càng buồn càng muốn kết thành thơ,
Mộng đang xanh, mộng hóa bơ phờ,
Đây bài thơ chót kính dâng tặng bạn.
Huyền thoại Hai sắc hoa ti gôn, sở dĩ được những tên tuổi nổi tiếng của thi ca đương thời phụ hoạ và đứng vững lâu dài trong lòng người đọc, bởi nó chở những đớn đau chân thực của một người tình, dù viết dưới bàn tay trá hình Thâm Tâm. Và cũng nhờ tài năng của Thâm Tâm mà chúng ta có được hai hình tượng mới: người ấy và hoa ty gôn. Tính mơ hồ bóng gió của người ấy và cái chết thảm khốc của Antigone ẩn trong một chùm hoa nhỏ, xinh như mộng, càng làm tăng thêm chất bi đát thầm lặng của tình yêu, liệm thêm sự bí mật của những chữ TTKH.

* Phụ lục
Bài thơ thứ nhất – TTKh (2)
Thuở trước hồn tôi phơi phới quá
Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương
Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại
Êm ái trao tôi một vết thương.
Tai ác ngờ đâu gió lại qua
Làm kinh giấc mộng những ngày hoa
Thổi tan tâm điệu du dương trước
Và tiễn người đi bến cát xa.
Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
Yêu bóng chim xa nắng lướt mành.
Và một ngày kia tôi phải yêu
Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
Những cô áo đỏ sang nhà khác
Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều.
Từ đấy không mong không dám hẹn
Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm
Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ
Người ấy ghi lòng vẫn nhớ em.
Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên
Bỗng ai mang lại cánh hoa tim
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên.
Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ
Tóc úa giết dần đời thiếu phụ
Thì ai trông ngóng chả nên chờ.
Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá
Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa:
“Cố quên đi nhé câm mà nín
Đừng thở than bằng những giọng thơ”.
Tôi run sợ viết lặng im nghe
Tiếng lá thu khô xiết mặt hè
Như tiếng chân người len lén đến
Song đời nào dám gặp ai về.
Tuy thế tôi tin vẫn có người
Thiết tha theo đuổi nữa than ôi
Biết đâu tôi một tâm hồn héo
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi.

Đan áo cho chồng – TTKh (3)

Chị ơi, nếu chị đã yêu
Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương
Đã xa hẳn quãng đời hương
Đã đem lòng gửi gió sương mịt mùng
Hay chăng chị mỗi chiều đông
Đáng thương những kẻ có chồng như em
Vẫn còn giá lạnh trong tim
Đan đi đan lại áo len cho chồng
Con chim ai nhốt trong lồng
Hạt mưa nó rụng bên sông bơ thờ
Lưng trời nổi tiếng tiêu sơ
Hay đâu gió đã sang bờ ly tan
Tháng ngày miễn cưỡng em đan
Kéo dài một chiếc áo lam cho chồng
Như con chim nhốt trong lồng
Tháng ngày than tiếc ánh hồng nơi nao
Ngoài trời hoa nắng xôn xao
Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm
Ai đem lễ giáo giam em
Sống hờ hết kiếp trong duyên trái đời
Lòng em khổ lắm chị ơi
Trong bao ngờ vực với lời mỉa mai
Quang cảnh lạ, tháng năm dài
Đêm đêm nằm tưởng ngày mai giật mình.

Bài thơ cuối cùng – TTKh (4)

Anh hỡi, tháng ngày xa quá nhỉ ?
Một mùa thu cũ một lòng đau...
Ba năm ví biết anh còn nhớ,
Em đã câm lời có nói đâu!
Đã lỡ thôi rồi chuyện biệt ly,
Càng khơi càng thấy lụy từng khi
Trách ai mang cánh “ti gôn” ấy
Mà viết tình em được ích gì?
Chỉ có ba người đã đọc riêng
Bài thơ "đan áo" của chồng em
Bài thơ "đan áo" nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách xem...
Là giết đời nhau đấy biết không ?
...Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
Giận anh, em viết dòng dư lệ,
Là chút dư hương điệu cuối cùng!
Từ nay anh hãy bán thơ anh
Còn để yên tôi với một mình
Những cánh hoa lòng, hừ! đã ghét
Thì đem mà đổi lấy hư vinh.
Ngang trái đời hoa đã úa rồi,
Từng mùa gió lạnh sắc hương rơi...
Buồng nghiêm thờ thẩn hồn eo hẹp
Đi nhớ người không muốn nhớ lời!
Tôi oán hờn anh mỗi phút giây,
Tôi run sợ viết, bởi rồi đây,
Nếu không yên được thì tôi ... chết
Đêm hỡi, làm sao tối thế này ?
Năm lại năm qua cứ muốn yên
Mà phương ngoài gió chẳng làm quên;
Và người vỡ lỡ duyên thầm kín
Lại chính là anh? anh của em!
Tôi biết làm sao được hỡi trời?
Giận anh không nỡ nhớ không thôi!
Mưa buồn mưa hắt trong lòng ướt...
Sợ quá đi, anh... "có một người"!…


Gửi T.T. Kh. – Thâm Tâm (5)
Hai sắc hoa ti gôn - TTKH

Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn,
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc,
Tôi chờ người đến với yêu đương.
Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong,
Và phương trời thẳm mờ sương cát,
Tay vít dây hoa trắng cạnh lòng.

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài trong lúc thấy tôi vui,
Bảo rằng : "Hoa, dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi !"

Thuở đó nào tôi đã hiểu gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly,
Cho nên cười đáp :"Màu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biến suy".

Đâu biết lần đi một lỡ làng,
Dưới trời đau khổ chết yêu đương.
Người xa xăm quá ! - Tôi buồn lắm,
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường...

Từ đấy, thu rồi, thu lại thu,
Lòng tôi còn giá đến bao giờ ?
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ...
Người ấy, cho nên vẫn hững hờ.

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời,
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chêt, từng thu chết,
Vẫn giấu trong tim bóng "một người".


Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Như hồng tựa trái tim tan vỡ.
Và đỏ như màu máu thắm pha !


Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi..
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã,
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi !


Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,
Chiều thu, hoa đỏ rụng chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng,
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò.  
Bài Thơ Thứ Nhất

Thuở trước hồn tôi phơi phới quá,
Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương...
Nhưng mà nghệ sĩ từ đâu lại,
Êm ái trao tôi một vết thương.
Tai ác ngờ đâu gió lạ qua,
Làm kinh giấc mộng những ngày hoa,
Thổi tan tâm điệu du dương trước
Và tiễn Người đi bến cát xạ

Ở lại vườn Thanh có một mình,
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh;
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo,
Yêu bóng chim xa, nắng lướt mành.

Và một ngày kia tôi phải yêu
Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
Những cô áo đỏ sang nhà khác,
- Gió hỡi! làm sao lạnh rất nhiều ?

Từ đấy không mong, không dám hẹn
Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm,
Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ,
Người ấy ghi lòng :"vẫn nhớ em !"

Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên,
Bỗng ai mang lại cánh hoa tim
Cho tôi ép nốt lòng dư lệ
Rỏ xuống thành thi khóc chút duyên ?

Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ!

Tóc úa giết dần đời thiếu phụ...
Thì ai trông ngóng, chả nên chờ !

Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá
Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa :
- "Cố quên đi nhé, câm mà nín
Đừng thở than bằng những giọng thơ !"

Tôi run sợ viết; lặng im nghe
Tiếng lá thu khô siết mặt hè
Như tiếng chân người len lén đến.
- Song đời nào dám găp ai về!

Tuy thế, tôi tin vẫn có người
Thiết tha theo đuổi nữa, than ôi
Biết đâụ..tôi : một tâm hồn héo,
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi!  
Bài Thơ Cuối Cùng

Anh hỡi tháng ngày xa quá nhỉ ?
Một mùa thu cũ, một lòng đaụ..
Ba năm ví biết anh còn nhớ,
Em dã câm lời, có nói đâu !

Đã lỡ, thôi rồi ! chuyện biệt ly,
Càng khơi càng thấy lụy từng khị
Trách ai mang cánh "ty-gôn" ấy,
Mà viết tình em, được ích gì ?

Chỉ có ba người đã đọc riêng,
Bài thơ "đan áo" của chồng em.
Bài thơ "đan áo" nay rao bán,
Cho khắp người đời thóc mách xem...

Là giết đời nhau đấy, biết không ?
....Dưới dàn hoa máu tiếng mưa rung,
Giận anh, em viết dòng dư lệ,
Là chút dư hương : điệu cuối cùng !

Từ đây, anh hãy bán thơ anh,
Còn để yên tôi với một mình,
Những cánh hoa lòng, hừ ! đã ghét,
Thì đem mà đổi lấy hư vinh.

Ngang trái đời hoa đã úa rồi,
Từng mùa gió lạnh sắc hương rơị..
Buồng nghiêm thờ thẫn hồn eo hẹp,
Đi nhớ người không muốn nhớ lời !

Tôi oán hờn anh, mỗi phút giây,
Tôi run sợ viết, bởi rồi đây
Nếu không yên được thì tôị..chết
Đêm hỡi ! làm sao tối thế nầy ?

Năm lại năm qua cứ muốn yên
Mà phương ngoài gió chẳng làm quên;
Và người vỡ lỡ duyên thầm kín,
Lại chính là anh ? anh của em !

Tôi biết làm sao được hỡi trời ?
Giận anh, không nỡ ! Nhớ không thôi !
Mưa buồn, mưa hắt, trong lòng ướt...
Sợ quá đi, anh..."có một người" !...  
Đan Áo Cho Chồng

"Chị ơi! Nếu chị đã yêu.
Đã từng lỡ hát ít nhiều đau thương,
Đã xa hẳn quãng đường hương,
Đã đem lòng gởi gió sương mịt mùng.

Biết chăng chị? Mỗi mùa đông,
Đáng thương những kẻ có chồng như em,
Vẫn còn thấy lạnh trong tim,
Đan đi đan lại áo len cho chồng.

Như con chim hót trong lồng,
Hạt mưa nó rụng bên song bơ thờ.
Tháng ngày nổi tiếng tiêu sơ,
Than ôi! Gió đã sang bờ ly tan...

Tháng ngày miễn cưỡng em đan,
Kéo dài một chiếc áo len cho chồng.
Như con chim nhốt trong lồng,
Tháng ngày mong đợi ánh hồng năm nao !

Ngoài trời mưa gió xôn xao,
Ai đem khóa chết chim vào lông nghiêm ?
Ai đem lễ giáo giam em?
Sống hờ trọn kiếp trong duyên trái đời...

Lòng em khổ lắm chị ơi !
Trong bao tủi cực với lời mỉa mai.
Quang cảnh lạ, tháng năm dài,
Đêm đêm nghĩ tới ngày mai giật mình!
 ↓   ↓

Blog HTG Tải lên trang 22.9.2009