Thứ Năm, 5 tháng 3, 2015

Thơ ĐƯỜNG Và Niêm Luật... Họa Áo trắng NH (11)


VÀI NÉT TÓM LƯỢC VỀ 
THƠ ĐƯỜNG LUẬT THẤT NGÔN BÁT CÚ

CÙNG CÁC THÀNH VIÊN CỦA TAO ĐÀN :XƯỚNG HỌA ĐƯỜNG THI

Thơ Đường luật nổi tiếng khắt khe với niêm luật chặt chẽ và mức độ khó khi làm một bài thơ hoàn chỉnh.
Trong số các thành viên của TAO ĐÀN , có người đã thuần thục thể loại thơ này, song cũng có người tuy chưa thực sự thông thạo nhưng vì yêu mến mà đang có ý định tiếp cận.
Để giúp các bạn có cái nhìn tổng quát về Thơ Đường luật, Ban Quản trị của XƯỚNG HỌA ĐƯỜNG THI xin dẫn ra một số tư liệu, bài viết do một số tác gia sưu tầm và biên soạn, hy vọng nó sẽ hữu ích đối với những người yêu thích thể loại thơ này.
Trong bài viết, có đôi chỗ Ban Quản trị lược bớt hoặc mở rộng so với nguyên tác, sắp xếp các nội dung trùng lắp vào chung mục nhằm giúp người đọc dễ dàng hình dung hơn.

 

 I-TỔNG QUÁT
(Trích từ quyển Văn học Việt Nam của GS Dương Quảng Hàm, viết tại Hà Nội tháng 6 năm 1939).
 

Thơ Đường luật hay cận thể là thể thơ đặt ra từ đời nhà Đường (618-907) bên Trung Hoa, phải theo luật lệ nhất định.
Rất nhiều người làm thơ đã lầm lẫn gọi thơ Đường luật là thơ Đường. Thật sự thì đây là 2 ý niệm hoàn toàn khác nhau.
- Thơ Đường luật: là thơ làm theo Thi luật đặt ra từ đời nhà Đường bên Trung Hoa. Sang Việt Nam, Thi luật được gọi là thể thơ Đường luật
- Thơ Đường hay Đường thi : là những bài thơ của các thi sĩ Trung Hoa làm dưới thời nhà Đường, nổi tiếng nhất là 300 bài được gọi là Đường thi tam bách thủ. Trong số đó có một số được làm theo thể thơ Đường luật, số còn lại làm theo các thể thơ khác, phần lớn là thơ cổ phong.
TỨ TUYỆT VÀ BÁT CÚ
Theo số câu trong bài, thơ Đường luật chia ra làm hai lối: TỨ TUYỆT VÀ BÁT CÚ
- Tứ tuyệt: 7 chữ, 4 câu
- Bát cú: 7 chữ, 8 câu
Trong hai lối ấy, lối bát cú là lối chính. Mà bát cú vần bằng là phổ biến hơn cả.
1. VẦN (VẬN)
CÁCH GIEO VẦN:
Có 5 vần gieo ở cuối câu đầu và các câu chẵn, nghĩa là cuối các câu 1, 2, 4, 6, 8.
Suốt bài thơ chỉ gieo một vần (một từ) gọi là độc vận.
LẠC VẬN VÀ CƯỠNG ÁP:
Làm thơ phải hiệp vận cho đúng. Nếu gieo sai như CÂY đi với HOA là lạc vận (lạc: rụng). Nếu vần gieo gượng thì gọi là cưỡng áp. Hai cách này đều không được cả.
2. ĐỐI

Những câu phải đối trong một bài thơ bát cú, trừ hai câu đầu, hai câu cuối, còn bốn câu giữa cứ hai câu đối nhau: 3 với 4; 5 với 6 (sẽ đề cập chi tiết hơn ở phần sau)
3. LUẬT
Là cách sắp đặt tiếng bằng và tiếng trắc trong các câu của bài thơ. Luật nhất định buộc người làm thơ phải theo đúng mà đặt. Luật được chia ra LUẬT BẰNG VÀ LUẬT TRẮC
LUẬT BẰNG: Câu đầu tiên của bài thơ bắt đầu bằng hai tiếng bằng
a. Luật bằng vần bằng:
Câu 1: B B T T T B B (v)
Câu 2: T T B B T T B (v)
Câu 3: T T B B B T T
Câu 4: B B T T T B B (v)
Câu 5: B B T T B B T
Câu 6: T T B B T T B (v)
Câu 7: T T B B B T T
Câu 8: B B T T T B B (v)
b. Luật bằng vần trắc
Câu 1: B B T T B B T (v)
Câu 2: T T B B B T T (v)
Câu 3: T T B B T T B
Câu 4: B B T T B B T (v)
Câu 5: B B T T T B B
Câu 6: T T B B B T T (v)
Câu 7: T T B B T T B
Câu 8: B B T T B B T (v)
LUẬT TRẮC: 

Câu đầu tiên của bài thơ bắt đầu bằng hai tiếng hai tiếng trắc
a . Luật trắc vần bằng:
Câu 1: T T B B T T B (v)
Câu 2: B B T T T B B (v)
Câu 3: B B T T B B T
Câu 4: T T B B T T B (v)
Câu 5: T T B B B T T
Câu 6: B B T T T B B (v)
Câu 7: B B T T B B T
Câu 8: T T B B T T B (v)
b. Luật trắc vần trắc
Câu 1: T T B B B T T (v)
Câu 2: B B T T B B T (v)
Câu 3: B B T T T B B
Câu 4: T T B B B T T (v)
Câu 5: T T B B T T B
Câu 6: B B T T B B T (v)
Câu 7: B B T T T B B
Câu 8: T T B B B T T (v)
(v; vần, ngoài việc tuân theo luật bằng - trắc, còn phải tuân theo vần)
4. THẤT LUẬT
Trong một câu thơ, theo "phân minh" chữ nào đáng là bằng mà đặt tiếng trắc, hoặc đáng trắc mà đặt tiếng bằng, thì gọi là thất luật (sai luật thơ), không được.
5. NIÊM
Niêm nghĩa đen là dính với nhau, là sự liên lạc âm luật của hai câu thơ trong một bài thơ Đường luật. Hai câu thơ niêm với nhau khi nào hai chữ đầu câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Trong một bài thơ bát cú, những câu sau đây niêm với nhau.
Ví dụ: Một bài thơ luật bằng vần bằng:
Câu 1 niêm với 8:
B B T T T B B
Câu 2 niêm với 3:
T T B B T T B
T T B B B T T
Câu 4 niêm với 5:
B B T T T B B
B B T T B B T
Câu 6 niêm với 7:
T T B B T T B
T T B B B T T
Câu 8 niêm với 1:
B B TT T B B
6. THẤT NIÊM
Trong một bài thơ, nếu cả hai câu thơ đặt sai luật, như đang bắt đầu bằng bằng đặt làm trắc trắc hoặc trái lại thế, làm cho tất cả câu thơ trong bài không niêm với nhau thì gọi là thất niêm (mất sự dính liền), không được.
7. BẤT LUẬN VÀ PHÂN MINH
Để cho khỏi gò bó, dễ sử dụng từ ngữ, trong bài thơ, chữ thứ 1, 3, 5 không cần theo đúng luật bằng trắc: Nhất tam ngũ bất luận (tuy nhiên để bài thơ có âm điệu hay thì chữ thứ 5 không nên theo lệ bất luận).
Những chữ thứ 2, 4, 6 buộc phải tuân theo đúng luật bằng trắc: Nhị tứ lục phân minh.
8. KHỔ ĐỘC
Nghĩa là khó đọc, đọc lên trúc trắc không được êm tai. Tuy theo lệ "bất luận" có thể thay đổi mấy chữ trong câu thơ, nhưng đáng trắc mà đổi ra bằng thì bao giờ cũng được, chứ đáng bằng mà đổi ra trắc thì trong vài trường hợp, sự thay đổi ấy làm cho bài thơ khổ độc.
Những trường hợp ấy là: Chữ thứ 3 các câu chẵn và chữ thứ 5 các câu lẻ đáng là bằng mà đổi ra trắc là khổ độc .
9. CÁC BỘ PHẬN TRONG BÀI THƠ
Một bài thơ bát cú giống như bức tranh. Trong cái khung nhất định 8 câu 56 chữ, làm sao vẽ thành một bức tranh hoàn toàn, hình dung được ngoại cảnh của tạo vật hay nội cảnh của tâm giới. Bởi vậy phải sắp đặt các bộ phận cho khéo. Có bốn bộ phận là: Đề, Thực, Luận và Kết.
 

1- Đề thì có Phá đề (câu 1) là câu mở bài nói lung động cả ý nghĩa trong bài và Thừa đề (câu 2) là câu nối với câu phá mà nói đến đầu bài.
2- Thực, hay Trạng (câu 3-4): là giải thích đầu bài cho rõ ràng. Nếu là thơ tả cảnh thì chọn các cảnh sắc xinh đẹp đặc biệt mà mô tả ra, nếu là thơ tả tình thì đem các tình tự giãi bày ra; nếu là thơ vịnh sử thì lấy công trạng của người mình muốn vịnh mà kể ra.
3- Luận (câu 5-6): là bàn bạc. Nếu là thơ tả cảnh thì nói cảnh ấy xinh đẹp như thế nào; vịnh sử thì hoặc khen hoặc chê, hoặc so sánh người ấy, việc ấy với người khác việc khác.
4- Kết (câu 7-8) là tóm ý nghĩa cả bài mà thắt lại cho mạnh mẽ rắn rỏi, trong đó câu số 7 là câu Thúc ,hay Chuyển và câu 8 là câu Hợp.

 

 II- PHÉP ĐỐI
Câu đối là các câu văn đi song song với nhau từng cặp.
 

Ví dụ:
Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ
Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh
Trong bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú, bắt buộc phải có đối với nhau giữa các câu 3 và 4, câu 5 và 6.
Muốn câu đối chỉnh và cân, phép đối cần phải hội đủ 3 điều kiện:
- Đối thanh
- Đối ý
- Đối từ loại
1. ĐỐI THANH
-Bảng luật bằng:
B B T T B B T
T T B B T T B
-Bảng luật trắc:
T T B B B T T
B B T T T B B
Chí ít là các chữ 2,4,6,7 phải theo đúng luật bằng trắc.
2. ĐỐI Ý
Ý câu trên và ý câu dưới, hoặc chống nhau, hoặc bổ sung ý nghĩa cho nhau.
Ví dụ:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
3. ĐỐI TỪ LOẠI
Danh từ >< Danh từ
Danh từ riêng >< Danh từ riêng.
Danh từ chung >< Danh từ chung
Động từ >< Động từ.
Trạng từ >< Trạng từ.
Tính từ >< Tính từ.
Tính từ có nhiều loại, nên:
Gợi hình >< Gợi hình
Màu sắc >< Màu sắc
Mùi vị >< Mùi vị
Tượng thanh >< Tượng thanh
Số lượng >< Số lượng
Mùa tiết >< Mùa tiết
Phương hướng >< Phương hướng
Từ kép >< Từ kép
Từ đơn >< Từ đơn
Thành ngữ >< Thành ngữ
Biệt ngữ >< Biệt ngữ
Hán Việt >< Hán Việt
Nôm (thuần Việt) >< Nôm (thuần Việt)...
2 cặp đối trong thơ Đường luật là tinh hoa của bài thơ. Nó là đặc điểm chính để nhận biết một bài thơ Đường luật. Hai cặp đối này còn giúp đo lường trình độ làm thơ Đường luật của tác giả.
Một bài thơ thất ngôn bát cú mà không có 2 cặp đối ở Thực và Luận thì không phải là một bài thơ Đường luật.
 

 III- PHÉP HỌA THƠ ĐƯỜNG LUẬT
CÁC THỂ THỨC HỌA THƠ ĐƯỜNG LUẬT

Có 2 thể thức họa thơ Đường luật là: HỌA HẠN VẬN và HỌA PHÓNG VẬN
 

1. HỌA HẠN VẬN
Họa hạn vận là phải theo sự hạn định trước. Người ta ra đề và cho vần nào thì mình phải dùng vần ấy. Thể Họa hạn vận này khác với thể Họa phóng Vận, vì họa hạn vận không có bài xướng để dựa theo mà họa, hơn thế nữa, ta phải:
- Diễn tả ý thơ theo đầu đề đã ra sẵn
- Dùng đúng 5 vần hạn định (trong 8 câu) và phải hạ vần đúng theo thứ tự đã hạn định
 

Ví dụ: Cuộc thi thơ do học giả Phan Kế Bính tổ chức như sau:
Ðầu đề (nội dung) là:
Trống treo ai dám đánh thùng
Bậu không ai dám dở mùng chun vô
5 vần hạn định theo thứ tự là: xô - cô - vô - ô - rô.
Bài thơ sát với đầu đề, hạ đúng 5 vần hạn định, được giải nhất mà tác giả lại là một thiền sư chân tu! Bài thơ như sau:
Nào phải là ai dám giục xô
Thuận tình trước hết tự nơi cô
Có cho mới dám trao dùi đánh
Không hẹn nào ai đẩy cửa vô
Mảng sướng kể gì thân lễ nghĩa
Ham vui quên hết chuyện dâm ô
Thói hư thuần thước xưa còn lạc
Đừng học làm chi gióng nhảy rô
Còn có một lối hoạ hạn vận rất khó. Hoàng Thứ Lang kể lại một câu chuyện như sau:
Mùa Hè năm 1926, trong dịp thi sĩ Đào Sĩ Nhã đến thăm gia đình họ Phan ở Hưng Yên. Ông khách Đào Sĩ Nhã thách lão thi sĩ Phan Mạnh Danh làm một bài thơ Nôm Đường luật với các điều kiện sau:

- Đầu đề: Xuân Khuê.
- Hạn 5 vần: chờ - hờ - thưa - tơ - thơ.
- Phải dùng 19 chữ: một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, trăm, ngàn, vạn, đôi, cặp, nửa, trượng, thước, tấc.
Sau đây là bài thơ Nôm hoạ hạn vận của lão thi sĩ Phan Mạnh Danh:
 

XUÂN KHUÊ
Một mong hai đợi bốn ba chờ
Mười hẹn đêm trăng tám hững hờ
Nửa gối năm canh gà gáy giục
Tấc mây sáu cánh nhạn tin thưa
Trăm lần cặp mắt đôi hàng lệ
Chín khúc bên lòng vạn mối tơ
Ngàn trượng thành sầu đo thước khó
Biếng đem bảy vẻ dệt nên thơ
(Phan Mạnh Danh)
 

2. HỌA PHÓNG VẬN
Họa phóng vận là phỏng theo vần của bài xướng để họa lại mà các vần trong bài họa phải theo y như các vần trong bài xướng, còn ý nghĩa thì hoặc phụ theo cho rộng thêm, hoặc trái hẳn lại (phản đề).
Họa phóng vận còn chia ra 4 hình thức là: Họa nguyên vận, Họa đảo vận, Họa hoán vận và Hoạ tá vận.
a. HỌA NGUYÊN VẬN:
Là họa đúng 5 vần của bài xướng và hạ vần cũng đúng y theo thứ tự như cách hạ vần của bài xướng. Trong cách họa nguyên vận thường thì có bao hàm họa ý (hoặc đối ý) và đối luật với bài xướng. Nếu không đối luật được thì cũng có thể họa luật.
b. HỌA ĐẢO VẬN:
Là họa ngược thứ tự của 5 vần từ dưới lên trên, thay vì họa nguyên vận là họa từ trên xuống còn họa đảo vận là họa từ dưới lên.
c. HỌA HOÁN VẬN:
Là thay đổi thứ tự vị trí các vần của bài xướng tùy theo ý người họa, sắp xếp lại sao cho vần điệu nghe êm tai hơn cách sắp xếp của bài xướng.
d. HỌA TÁ VẬN:
Tá vận là mượn vần. Họa tá vận là bài họa chỉ mượn 5 vần của bài xướng để làm một bài khác mà nội dung hoàn toàn không liên quan gì đến bài xướng cả. Cách họa này ngày nay hầu hết được người ta làm rất nhiều vì dễ làm.
 

NHỮNG CHÚ Ý QUAN TRỌNG
Trong thể thức Họa phóng vận, không được dùng trùng từ thứ 6 trong các câu có vần của bài xướng. Tức là không được dùng lại từ đứng trước của 5 vần trong bài xướng. Nói dễ hiểu là không được dùng lại chữ thứ 6 ở các câu 1, 2, 4, 6, 8 của bài xướng.
Càng tránh dùng trùng từ trong toàn bài của bài xướng càng tốt, ngoại trừ những từ đặc biệt không thể tránh được.
- Hoạ nguyên vận, hoán vận, đảo vận: dùng vần đồng âm đồng nghĩa (và cùng từ loại).
- Hoạ tá vận: dùng vần đồng âm dị nghĩa (và không cùng từ loại).
 

PHẦN QUAN TRỌNG TRONG HỌA THƠ
Họa thơ theo thể thức phóng vận (sau đây gọi tắt là họa thơ) bao gồm 3 phần chính quan trọng sau đây:
Đã có một bài thơ sẵn trước gọi là Bài Xướng.
Bài xướng có thể chọn một bài đã có sẵn từ xưa, hoặc một bài do một người làm trước "thách đố" cho người khác đáp lại. Người đáp lại thì bài đó gọi là Bài Họa. Bài họa phải có ít nhất 3 yếu tố quan trọng sau đây:
1. Họa vần:
5 vần tức là 5 tiếng (chữ) cuối của các câu 1, 2, 4, 6, 8 mà người xướng đã ra như thế nào thì người họa phải theo đúng y chang 5 vần đó, không được vì bí hay kẹt mà sửa đổi.
Chỉ cần sai 1 trong 5 vần kể trên thì bài họa coi như bị hỏng, và như vậy gọi là bị Xuất Vận nghĩa là bị ra khỏi vần đã hạn định cho mình, dĩ nhiên bài họa đó bị lỗi.
2. Bài xướng nói lên ý gì thì bài họa cũng phải nói lên ý đó hoặc tán rộng nghĩa ra thêm.
3. Bài xướng gieo luật gì thì bài họa phải đối lại luật đó (trong xướng họa có hàm nghĩa đ
ối đáp). Ví dụ bài xướng luật trắc thì bài họa phải luật bằng và ngược lại.

Ngoài ra bài họa có thể đối ý lại bài xướng, thí dụ bài xướng khen một vấn đề gì thì bài họa có thể chê vấn đề đó (gọi là phản đề, nhưng không bắt buộc).
Tóm lại, 3 yếu tố trên là cần thiết cho 1 bài họa xuất sắc.
Sau đây là một ví dụ về xướng họa điển hình để làm mẫu. Hai bài này nổi tiếng trong văn học Việt Nam.
 

Bài xướng:
TÔN PHU NHÂN QUY THỤC
Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng
Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông
Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc
Về Hán trau tria mảnh má hồng
Son phấn thà cam dày gió bụi
Đá vàng chi để thẹn non sông
Ai về nhắn với Châu Công Cẩn
Thà mất lòng anh được bụng chồng
(Tôn Thọ Tường)
 

Bài họa:
TÔN PHU NHÂN QUY THỤC
Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng
Mặt ngả trời chiều biệt cõi Đông
Ngút tỏa trời Ngô ùn sắc trắng
Duyên về đất Thục đượm màu hồng
Hai vai tơ tóc bền trời đất
Một gánh cương thường nặng núi sông
Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết
Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng
(Phan Văn Trị)
 

CHÚ Ý KHI HỌA THƠ
Họa phóng vận là sáng tác một bài thơ (gọi là bài họa), dựa trên hệ thống vần của một bài thơ có trước (gọi là bài xướng).
Sau khi có bài xướng, người làm thơ họa sáng tác một bài khác, dùng lại đúng 5 chữ vần của bài thơ xướng
Bài họa phải diễn đạt lại ý chính (nội dung) của bài xướng, không được lạc đề.
Thường là bài họa phải đối luật với bài xướng, nếu bài xướng luật bằng thì bài họa phải luật trắc và ngược lại. Kẹt lắm mới làm bài họa đồng luật với bài xướng.
Không được dùng lại chữ thứ 6 (chữ kế cuối) trong các câu cước vận (câu 1, 2, 4, 6, 8) của bài xướng và tất cả những bài đã hoạ trước. Nếu dùng lại chữ kế cuối là phạm nguyên tắc "khắc lục", là lỗi cấm kỵ trong họa vần thơ Đường luật.
5 chữ vần của bài hoạ không được khác nghĩa với 5 chữ vần của bài xướng.
Coi như bài hoạ là bản copy những nét căn bản về ý và vần của bài xướng, vì vậy bài họa phải cùng một tựa đề với bài xướng.
Hoạ thơ Đường luật không đến nổi quá khó nhưng không phải dễ dàng như nhiều người đã lầm tưởng!
Hoạ sai một vần gọi là xuất vận: không được.
Hoạ sai nghĩa một vần gọi là xuất ý: không được.
Ví dụ:
 

Bài xướng:
VƯỜN RAU CẨM TÚ
 

Thầy cho xới lại mảnh vườn hoang
Cẩm Tú đem phân ủ mấy hàng
Củ cải gieo gần dây mướp đắng
Su hào tỉa cạnh gốc khoai lang
Thì là diếp cá lên muôn lối
Húng đổi cần tây mọc khắp đàng
Tứ phía rau xanh nhìn mát mắt
Tha hồ cải thiện bữa ăn... sang
(Cẩm Tú)
 

Bài hoạ:
VƯỜN RAU CẨM TÚ
Cẩm Tú gieo trồng mảnh đất hoang
Rau xanh thẳng tắp rất ngay hàng
Ngò om óng mượt bên giàn mướp
Húng quế thơm lừng kế luống lang
Bí rợ tần ô lên bít lối
Dưa leo ớt hiểm mọc đầy đàng
Chiều chiều đứng ngắm lòng thanh thản
Cuộc sống quê nghèo ngẫm lại... sang
(Hoàng Thứ Lang)
 

HÀM Ý TRONG XƯỚNG HỌA
Xướng hoạ thơ Đường luật là có hàm ý đối hoạ ở trong đó.
Người ta xướng ra mình phải đối đáp lại, vì vậy nếu chỉ một bài xướng và một bài hoạ thì bài hoạ bắt buộc phải đối luật với bài xướng.

 

Ví dụ bài Tôn Phu Nhân Quy Thục xướng của Tôn Thọ Tường, hoạ của Phan Văn Trị.
Trường hợp bất khả kháng không thể đối luật được thì có thể châm chế hoạ đồng luật, nhưng bài hoạ đồng luật sẽ bị giảm giá trị vì không đáp ứng đúng thể thức xướng hoạ đúng cách.
Bắt đầu những bài hoạ sau đó (nếu có) thì có thể dùng luật gì cũng được.
Hoạ thơ là "vẽ lại" hình ảnh của bài xướng cho nên phải trung thực với bài xướng về ý cũng như vần.
Hoạ sai ý bài xướng là không đạt.
Hoạ sai bất cứ chữ vần nào của bài xướng gọi là xuất vận: không đạt. Xuất vận là đi ra khỏi sự hạn định về vần của bài xướng.
Hoạ sai nghĩa bất cứ chữ vần nào của bài xướng gọi là xuất ý: không đạt. Xuất ý là đi ra khỏi ý nghĩa chữ vần của bài xướng.
Hoạ thơ Đường luật đúng cách rất khó.
Khi bạn bè (thi hữu) chung vui xướng họa với nhau, có thể dùng thể thức Họa tá vận (tức là mượn vần) để hoạ những vần tử vận và tử ý. Cách này không đạt nhưng cốt là để cùng nhau vui vẻ mà thôi. Nhưng cũng không nên đi xa thi đề (nội dung của bài xướng).
Lấy ví dụ tử vận xót xa không thể nào họa nguyên vận theo chính họa được. Chúng ta có thể họa tá vận (mượn vần) theo bàng họa là xa xa, từ xa, đàng xa v.v... chẳng hạn. Dĩ nhiên là sai nghĩa của chữ xót xa rồi (bởi vậy mới bị xuất ý: không đạt), nhưng cốt để cùng nhau vui vẻ mà thôi.
Thông vận, bàng đối và bàng hoạ... không xuất sắc.
Làm thơ, nếu dùng thông vận thì nên dùng cận vận mà không nên dùng viễn vận. Viễn vận và cưỡng vận không hay, hạn chế dùng.
(Hoàng Thứ Lang sưu tầm và biên soạn).
 

 IV- LUẬT VỀ ĐIỆU THƠ
Điệu thơ là cách xếp đặt các tiếng trong câu thơ sao cho êm tai, dễ đọc, để bài thơ có âm hưởng du dương trầm bổng như nhạc điệu.
Điệu thơ gồm có 3 phần chính:

1. Nhịp điệu:
Thơ Đường luật nhịp chẵn, ngắt nhịp 2 hoặc 4 tiếng trọn nghĩa (2-2-3 hoặc 4-3), nhưng đôi khi cũng có thể làm nhịp 3-4 theo dụng ý tác giả
2. Âm điệu:
Nên làm theo chính luật để bài thơ có âm điệu êm tai trầm bổng.
3. Vần điệu:
Nên gieo vần ở cuối các câu 1-2-4-6-8 xen kẽ tiếng không có dấu với tiếng có dấu huyền để bài thơ khi đọc lên nghe du dương trầm bổng như điệu nhạc.
(Hoàng Thứ Lang sưu tầm và biên soạn).
 

 V- ĐỐI NGẪU TRONG THƠ ĐƯỜNG
ĐỐI NGẪU - VẺ ĐẸP ĐẶC SẮC, MỘT TRONG NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN VÀ ĐỦ CỦA THƠ ĐƯỜNG LUẬT

Người sáng tác thơ luật Đường khi bắt gặp một cảnh huống thơ, hồn thơ đang dào dạt, bao nhiêu ý tứ cứ trào ra, vội phô diễn nó lên giấy mực. Chưa xong. người sáng tác thơ còn phải cô đúc, dồn nén, sao cho số câu, số chữ phải đúng theo luật; số chữ trong bài có thanh trắc phải xấp xỉ số thanh bằng. Nếu ta gọi chữ có thanh bằng là số (+), chữ có thanh trắc là số (-), thì luật âm dương này thăng giáng bù trừ sát sao đến từng liên thơ, đến cả bài thơ. Đó chính là điều hé mở khái niệm về sự cân bằng, có ý nghĩa triết học cổ phương Đông nằm trong hình thức thơ Đường luật.
- Ý nghĩa triết học nêu trên còn thể hiện rõ ở phép đối ngẫu.
Trong một liên thơ (hai câu) được gọi là có đối, thì câu trước, nó như tung, câu sau nó như hứng, nó nương vào nhau làm cho ý thơ thêm mạch lạc.
Vậy nên, người xưa đã đưa đối ngẫu vào thể thơ này như một điều bắt buộc.
Từ đầu thế kỷ trước, đối mặt với sự thắng thế của phong trào thơ mới, Vũ Hoàng Chương, một nhà thơ thành danh, không nỡ bỏ hẳn thơ Đường luật, ông đã sáng tác nhiều bài thơ không đối, chỉ giữ lại có luật hạn câu, hạn chữ, hạn vận, hạn bằng trắc. Vũ Hoàng Chương xem những bài thơ đó chỉ là một thực nghiệm. Sau đó, song song với việc sáng tác thơ mới, ông còn sáng tác nhiều bài thơ luật nghiêm chỉnh khác (như bài đa thủ “Giấc mơ tái tạo”).
Chúng ta nay một khi đã gửi hồn cho thể thơ Đường luật thì đừng có bao giờ bực bội giữa khi đang có hồn thơ lai láng, lại bị nghẽn bởi hai cặp đối ở hai cặp câu thực, luận và nóng vội cho rằng: làm gì mà phải đối chặt chẽ vậy.
- Đối ngẫu trong thơ đường luật bát cú, thất ngôn, ngũ ngôn nói tổng quát là có 2 phép: phép chỉnh đối và phép khoan đối.
Dưới đây chúng tôi xin được trao đổi về 2 phép đối này. Các ví dụ được nêu ra để phân tích, chúng tôi lấy từ một số bài thơ đã in trong “Thơ Đường quê lụa” tập 5, NXB Văn hóa Dân tộc, 2008.
 

PHÉP CHỈNH ĐỐI
Nguyễn Thu Hà, người trẻ tuổi nhất của CLB, trong bài “Duyên quê”, cặp thực, đối như sau:

 
Anh nắm bàn tay thon ấm áp,
Em cười đôi mắt sáng long lanh.
 

Thật là chỉnh, thật là chính danh: anh với em, bàn tay với đôi mắt (Danh từ đối với Danh từ), Thon với sáng (Tính từ đối với nhau), ấm áp với long lanh (Trạng từ láy đối nhau). Hai câu thơ tình đằm thắm đến thế mà lại không thấy lả lơi. Thu Hà đã huy động phép đối rất nghiêm để đạt hiệu quả.
Hạnh Anh (Đỗ Biện), trong bài “Đêm thu” cặp luận đối như sau:
Hoa cúc bâng khuâng ly rượu ngát
Hoa nhài thao thức chút hương phôi.
Cặp đối chính danh này rất nghiêm về thể thức, nhưng lại rất hào hoa.
Cụ Tạ Đăng Viên, ngoại 80, có bài “Tự thọ” rất hóm hỉnh, cụ có cặp luận:
Kính mắt gà đeo tròng chấp chới
Gậy càng cua chống bước lon ton.
Bằng hai câu đối chặt chẽ, như vẽ nên, như trông thấy một cụ đại thọ nhanh nhảu hồn nhiên trước mắt ta.
 

PHÉP KHOAN ĐỐI
Để cho một chùm thơ, một tập thơ không bị đơn điệu về hình thức đối ngẫu, người xưa đã đưa ra nhiều phép đối ngẫu linh hoạt hơn.
 

1. Phép Lưu thủy đối:
Ví dụ:
Còn chăng lời hẹn bên trang sách,
Hay đã tàn theo ánh lửa đèn.
Theo quy tắc chiếu chữ thì hai câu này là bất đối. Nhưng lại xét: Hai câu thơ có cấu trúc ngữ pháp giống nhau; mạch ý câu trên trôi chảy như nước, được tràn sang câu dưới làm lọn nghĩa cho câu trên. Đó là phép Lưu thủy đối.
Tất cả các liên thơ mà câu trên bắt đầu bằng mấy chữ tương tự như: còn chăng…, đã sinh…, bỗng dưng…, ứng với đầu câu dưới là các chữ tương tự như: hay đã…, phải có…, để mà…, v.v. thì liên thơ đó đã theo phép đối nói trên.
 

2. Phép Tá tự đối:  
Ví dụ:
Nghèo sạch, thanh danh nên gắng giữ
Giầu sang, khó tính chớ nên chơi.
Câu trên, “thanh danh” là danh từ, câu dưới “khó tính” là tính từ, xét thế thì quả là bất đối. Nhưng nếu theo tiếng (không theo nghĩa thật), thì chữ “khó”, chữ “thanh” lại là tính từ; Chữ “danh” và chữ “tính” lại là danh từ. Xét theo cách này thì chúng lại đối chặt chẽ với nhau. Phép đối này người ta lợi dụng sự đồng âm dị nghĩa để Tá tự đối (như: hai mái trống tung đành chịu dột/ tám giờ chuông điểm phải nằm co – của Tú xương).
 

3. Phép Số tự đối gắn với Tá tự đối.
Ví dụ:
Học bẩy nghề còn lo thất nghiệp
Làm ba vụ vẫn đói tư mùa.


Hơi tiếc, ở câu dưới viết: ba vụ đối với tư mùa, tuy là đúng có nội đối ở trong câu, nhưng không hay bằng câu trên: bẩy cái nghề và thất (mất) cái nghiệp. Câu dưới, nếu không vì luật bằng trắc, mà viết là: “Làm tư vụ vẫn đói tứ mùa”, thì câu đối này được xếp vào hạng tuyệt diệu. Phép đối này được xem như là phép số tự đối có kèm theo lối chơi chữ (có thể liên hệ đến: nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc - của bà Huyện Thanh Quan).
 

4. Phép cú trung đối:
Ví dụ:
Màn trời chiếu đất con người khổ
Nước vật thuyền xơ cá biển nghèo
Nếu câu trên, câu dưới cứ chiếu từng chữ lên nhau, thì hai câu này cũng bất đối. Nhưng xét nội bộ từng câu, thì lại thấy: màn trời đối với chiếu đất; nước vật đối với thuyền xơ; đuôi câu trên (con người khổ) đối rất chặt với đuôi câu dưới (cá biển nghèo). Lấy câu có nội đối để đối nhau thì lại rất cân bằng. Đây là cú trung đối.
Tuy nhiên còn một số phép đối khác chúng ta ít vận dụng, xin được dẫn ra đây để cùng tham khảo.
Lấy của đánh người, quân tệ nhỉ?
Xương gà da cóc, có đau không?
(Nguyễn Khuyến)
 

Càng nóng bao nhiêu thời càng mát
Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày
(Hồ Xuân Hương)
Công đức tu hành, sư có lọng
Xu hào rủng rỉnh, mán ngồi xe.
(Tú Xương)
Chúng ta để ý: Cụ Nguyễn Khuyến cũng như nữ sỹ Xuân Hương đã tổ chức từ ngữ ở từng câu, để câu nào cũng có tiểu đối, nhưng ta không xếp hai liên đối nêu trên vào phép Cú trung đối, vì ngoài phần có tiểu đối, trong từng câu còn có phần bất đối. Do đó hai liên thơ trên chúng ta quy vào phép Tựu cú đối.
Trong câu của Tú Xương, ông Tú đã đem cả hai cụm từ như hai thành ngữ để chọi nhau: công đức tu hành chọi với xu hào rủng rỉnh. Mặt khác đuôi của từng câu lại đối rất chặt với nhau: sư có lọng đối với mán ngồi xe. Phân tích đặc điểm này để kết luận: đây cũng là phép Tựu cú đối như a và b. Cú trung đối và Tựu cú đối, có dạng thức ngữ pháp của câu văn na ná như nhau, nên còn có tên chung là Đương đối.

 

5. Phép giao cổ đối:
Cụ Trần Tuấn Ngọc, trong bài “Tự nhủ” có câu luận:
Chân bước vững, đường chiều khấp khểnh
Rừng cây rậm rạp, trúc vươn cao.
Đây chính là phép Giao cổ đối: chân bước vững đối chéo xuống với trúc vươn cao, và rừng cây rậm rạp đối chéo lên với đường chiều khấp khểnh.
 

6. Phép bất đối chi đối:
Trong buổi lễ tế “Trận vong tướng sỹ” thế kỷ 19, quan tổng trấn Nguyễn Văn Thành có sai trưng câu đối chữ Hán (nay dịch nghĩa) như sau:


Bóng chiều đã ngả đâu quê cũ
Xưa nay chinh chiến mấy ai về.
Câu trên lấy từ thơ Thôi Hiệu, bài Hoàng Hạc Lâu. Câu dưới lấy từ thơ Vương Hàn, bài Lương Châu Từ.
 

Cái hay của đôi câu đối này là: 
Ghép hai câu thơ khác nhau của hai tác giả mà câu đối vẫn hiệp chung một tình ý. 
- Câu 1 có đại ý là cảm thán tình cảnh, câu hai có đại ý là an ủi vong linh. Thật là quá hợp với nội dung Tế Trận Vong Tướng Sỹ. Đây là phép bất đối chi đối, lấy cái không đối để đối, không lệ thuộc vào mặt chữ mà chỉ chú trọng đến ý. Ý phải đối nhau, cấu trúc ngữ pháp phải song song đồng dạng với nhau.
Những bậc cao niên khuyên rằng, nếu một khi ta chưa thật thạo về các phép đối, thì chỉ nên sử dụng các phép chỉnh đối, lưu thủy đối, cú trung đối. Còn các phép đối khác, chúng ta hãy chỉ làm quen, giúp chúng ta nhận biết được các dạng thức đối khác nhau.


Vẫn phải thưa thêm: 

các phép đối thơ, dù ở dạng thức nào đều phải hội đủ 3 đặc điểm:
- Đối ý. ý câu trên và câu dưới, hoặc chống nhau, hoặc bổ sung ý nghĩa cho nhau.
- Đối thanh âm, chí ít là các chữ nằm ở vị trí 2, 4, 6, 7 (Thơ thất ngôn) và 2, 4, 5 ( Thơ ngũ ngôn) nhất thiết phải tuân theo luật bằng trắc.
- Đối từ loại,phải nắm được các phép biến đổi từ loại ở các ngữ cảnh khác nhau. Tuy nhiên, cũng có phép đối không yêu cầu đối từ loại như theo phép chiếu chữ, mà ở đó lại có sự xoay chiều để đối chéo cho nhau.
Trong một bài thơ, những cặp đối ở các câu thực, luận chính là vẻ đẹp đặc sắc, và là một trong những điều kiện cần và đủ để nhận ra đó là một bài thơ Luật đường. Đọc thơ Đường luật mà không có đối thì chẳng khác gì “Ăn bánh nướng trung thu mà không có nhân thập cẩm” thật là nhạt nhẽo và vô vị.
Trong bài này, việc đặt vấn đề của tôi là chắc chắn đúng nhưng việc lấy ví dụ để phân tích thì có thể có chỗ còn nông cạn, thậm trí có chỗ còn thiếu sót. Để góp một chút lửa thắp sáng cho thơ Đường đất Việt, rất mong bạn đọc rộng lượng và cùng đồng hành.

(Nguyễn Văn Thụ - Chủ nhiệm CLB Thơ Đường Hà Nội).
 


VI- CÁC THI BỆNH TRONG THƠ ĐƯỜNG LUẬT
 

1. Thất luật:
Những từ đáng bằng mà làm ra trắc hoặc đáng trắc mà làm ra bằng thì gọi là thất luật
2. Thất niêm:
Muốn xét một bài thơ có thất niêm hay không thì nhìn chữ thứ 2:
- Chữ thứ 2 câu 2 cùng nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 3
- Chữ thứ 2 câu 4 cùng nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 5
- Chữ thứ 2 câu 6 cùng nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 7
- Chữ thứ 2 câu 8 cùng nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 1
Nếu không tuân thủ đúng như trên thì gọi là thất niêm.
3. Lạc vận/Cưỡng vận:
- Trong 5 vần mà có một vần khác xen vào.
- Vần là yếu tố quan trọng để tạo nhạc cho thơ, do đó cần phải tránh gieo vần cưỡng ép hay lạc vận.
4. Thất đối:
Đối chiếm địa vị quan trọng trong thơ Đường luật. Bỏ đối đi thì không còn được gọi là thơ Đường luật nữa.
5. Khổ độc:
- Trong một bài thất ngôn, chữ thứ 3 các câu vần, và chữ thứ 5 các câu không vần đáng là từ bằng mà đổi ra trắc thì gọi là khổ độc.
- Trong một bài ngũ ngôn, chữ thứ nhất các câu vần và chữ thứ ba các câu không vần đáng là bằng mà đổi ra trắc thì gọi là khổ độc.
6. Trùng vận:
Thơ Đường luật chỉ dùng đơn vận (mỗi chữ vần chỉ sử dụng 1 lần), nếu cùng một chữ vần được dùng lặp lại ở hai câu khác nhau thì gọi là trùng vận, bài thơ sẽ hỏng.
Theo thi luật chính thức, nếu chỉ là tiếng đồng âm mà khác nghĩa thì được coi là 2 chữ vần khác nhau và không phạm lỗi. Tuy nhiên, để tránh nghe đọc trùng lặp âm vận không hay, trong bài thơ không nên để hai vần đồng âm gần nhau.
7. Trùng từ:
Cùng một chữ được dùng nhiều lần ở trong bài thơ, ngoại trừ trường hợp cố ý, thì gọi là lỗi trùng từ hay điệp từ.
8. Trùng ý (Hiệp chưởng):
Trong bài thơ Đường luật nếu có câu chữ nào lặp lại ý của các câu chữ đã dùng mặc dù dùng từ khác đi thì cũng bị lỗi trùng ý. Nếu lỗi trùng ý nằm trong hai câu thực, hoặc hai câu luận thì gọi là hiệp chưởng (câu trên câu dưới đối nhau mà ý nghĩa giống nhau như hai bàn tay úp lại).
9. Phạm đề/Mạ đề:
Trong hai cặp thực và luận không được dùng chữ của đầu bài, nếu có chữ nào của đề lọt vào thì bị lỗi phạm đề hay mạ đề.
10. Điệp điệu:
Điệp điệu là khi nhiều câu liên tiếp ngắt nhịp cùng một cách. Lỗi này thường hay xảy ra ở các câu giữa của bài thơ.
11. Bình đầu:
Bài thơ mà có nhiều câu liên tiếp bắt đầu bằng những tiếng cùng một từ loại, cùng một cấu trúc câu thì phạm lỗi bình đầu, ngoại trừ trường hợp cố tình làm có mục đích rõ rệt.
12. Thượng vỹ:
Trong bài thơ Đường luật nếu chữ thứ 5, 6, 7 của nhiều câu liên tiếp (nhiều hơn 3) cùng từ loại và cấu trúc thì bài thơ phạm lỗi thượng vỹ.
13. Điệp thanh:
Trong thơ thất ngôn, một câu có 4 tiếng bằng và 3 tiếng trắc hoặc bốn tiếng trắc và ba tiếng bằng. Những tiếng bằng hay trắc đó phải có thanh độ khác nhau thì câu thơ mới giàu âm điệu.
14. Điệp âm:
Điệp âm là những chữ có cùng âm đứng gần nhau trong một câu hoặc cùng vị trí trong hai câu.
15. Đại vận:
Bài thơ Đường luật chỉ gieo vần ở các chữ cuối câu. Nếu chữ thứ 4 trong câu cũng vần với chữ cuối câu thì phạm lỗi đại vận.
16. Tiểu vận:
Nếu chữ thứ 2 trong câu vần với chữ thứ 6 hoặc thứ 7 thì phạm lỗi tiểu vận.
17. Phong yêu:
Nếu chữ cuối câu trùng thanh dấu với chữ thứ 2 trong cùng câu thì gọi là lỗi phong yêu.
18. Hạc tất:
Nếu chữ cuối câu trùng thanh dấu với chữ thứ 4 trong cùng câu thì gọi là lỗi hạc tất.
19. Chánh nữu:
Khi câu có từ 3 chữ trở lên có cùng phụ âm đầu phạm lỗi chánh nữu. (Ngoại trừ từ láy, từ ghép, từ phiên âm quốc tế… thì được tính giảm đi 1 lần)
20. Bàng nữu:
Trong một liên có từ 4 chữ trở lên có cùng phụ âm đầu thì phạm lỗi bàng nữu. (Ngoại trừ từ láy, từ ghép, từ phiên âm quốc tế… thì được tính giảm đi 1 lần).
 
NHỮNG DẠNG THƠ ĐẶC BIỆT
 

1. Họa vận:
Một người làm một bài xướng lên,một người nữa làm bài khác họa lại mà các vần trong bài họa phải theo y như các vần trong bài xướng,còn ý nghĩa hoặc phụ theo cho rộng,hoặc trái hẳn lại (phản đề) , ví dụ:
 

HỎI Ả BÁN CHIẾU
 

Xướng:
Ả ở đâu nay bán chiếu gon
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn
Xuân thu nay độ bao nhiêu tuổi
Ðã có chồng chưa được mấy con
(Nguyễn Trãi)
 

Họa:
Tôi ở Tây hồ bán chiế u gon
Nỗi chi ông hỏi hết hay còn
Xuân thu tuổi mới trăng còn lẻ
Chồng còn chưa có, có chi con
(Nguyễn Thị Lộ)
 

2.Thủ nhất thanh (nhất đồng):
Từ đứng đầu 8 câu đều giống nhau, ví dụ:

T

ÁM MỪNG
 

Mừng đón xuân về, muôn sắc hoa
Mừng xuân,xuân mới, mới thêm ra
Mừng nghe nhựa sống, như còn trẻ
Mừng thấy đời tươi, chửa muốn già
Mừng khỏe đôi chân, đi đứng vững
Mừng tinh cặp mắt ngắm nhìn xa.
Mừng nhau tuổi thọ tăng tăng mãi
Mừng được trường xuân hưởng thái hòa
(Lạc Nam)
 

3.Song điệp:
Tất cả 8 câu đều có 2 điệp từ: , ví dụ:

 

CHUYỆN ĐỜI
 

Vất vất vơ vơ cũng nực cười
Căm căm cúi cúi có hơn ai
Nay còn chị chị anh anh đó
Mai đã ông ông mụ mụ rồi
Có có không không,l o hết kiếp
Khôn khôn dại dại, chết xong đời
Chi bằng láo láo lơ lơ vậy
Ngủ ngủ ăn ăn nói chuyện chơi
(Nguyễn Thượng Hiền)
 

4.Song điệp độc vận:
Tất cả 8 câu đều có 1 từ và chỉ có 1 vần, ví dụ:
 

XUÂN VÀ THƠ
 

Xuân tự ngàn xưa, bạn với Thơ
Tình Xuân là cả vạn lời Thơ
Ðẹp duyên hoa bút, Xuân ngời sắc
Rộn khúc Xuân thiều, nhạc ánh Thơ
Xuân vắng, oanh hờn, dầu dáng liễu
Xuân về hương tỏa ngát lời Thơ
Xuân nương, thi sĩ, đôi người ngọc
Dệt mộng ngày Xuân, lộng ý Thơ
(Lạc Nam)
 

5. Dĩ đề vi thủ:
Lấy 8 từ đầu để mở đầu cho 8 câu thơ, ví dụ:

 

GỬI BẠN
 

Nhất sinh tôi bác biết nhau rồi
Ðịnh đoạt hơn thua phó mặc trời
Chúng mải công danh, ky cóp chạy
Ta nhìn mây nước nhẹ nhàng trôi
Theo quan, ngán bấy câu chè lá
Về xã, buồn thay cảnh thịt xôi
Lê gậy theo trăng vào quán trọ
Ninh trà,nạp thuốc, chuốc nhau chơi
6. Dĩ đề vi vận:
Lấy đầu đề làm vần, ví dụ: Không - Chồng - Trông - Bông - Lông

 

Xướng:
Bực gì bằng gái chực phòng không
Tơ tưởng vì chưng một tấm chồng
Trên gác rồng mây ngao ngán nhẽ
Bên trời cá nước ngẩn ngơ trông
Mua vui lắm lúc cười cười gượng
Giả dại nhiều khi nói nói bông
Mới biết có chồng như có cánh
Giang sơn gánh vác nhẹ bằng lông
(Nguyễn Khuyến)
 

Họa Vận:
Phật rằng sắc sắc không không
Sắc sắc không không khó chất chồng
Ân oán, nhiều người còn có ngóng
Trải oan, lắm kẻ vẫn chờ trông
Thế gian, nhân quả nhanh như bóng
Cõi Phật, nhân duyên nhẹ tựa bông
Xuân đến hoa xuân tươi đẹp mãi
Luân hồi ra khỏi, hết bông lông
(Cổ Lai Hy)
 

7. Toán thi:
Cả bài câu nào cũng có từ chỉ con số, ví dụ:
 

BÓI SỐ
 

Ruột rối bòng bong, một lá thuyền
Ngổn ngang trăm mối vẫn y nguyên
Người đi nghìn dặm còn thêm nhớ
Kẻ ở muôn năm vẫn lẻ duyên
Mớ hoảng, có kêu thời cũng hão
Ức thầm, dẫu khóc chỉ thêm huyền
Vạn người, ai kẻ chung tâm sự
Hãy triệu giùm tôi chú đỗ quyên
(Bùi Tiến)
 

8. Liên hoàn:
Thể thơ có nhiều đoạn, câu cuối của đoạn trên được chuyển thành câu đầu của đoạn dưới, ví dụ:

 

THI LẤY ĐƯỢC
 

Anh Phán nhà ta biết cóc gì
Kỳ thi Tham biện cũng ra thi
Nhất thì anh đỗ,nhì anh trượt
Chẳng đậu khoa này, khoa khác đi
Chẳng đậu khoa này, khoa khác đi
Nam nhi chi chí, há lo gì
Một, hai, ba, bốn, năm năm trượt
Nhẵn mặt quan trường, chẳng thẹn chi
Nhẵn mặt quan trường,chẳng thẹn chi
Trượt thi, thi trượt,vẫn gan lì
. . . .
(Tú Mỡ)
 

LÍNH TẬP VINH QUY
 

Chú đội qua Tây thắng trận về
Cả nhà đón rước thật mừng ghê
Ông già,bà lão gồm hai cụ
Vợ giảnh,con ngoan đủ mọi bề (1)
Nảy ngực mề đay tiền bạc chói
Rạng mình khố đỏ áo vàng xuê.
Giang sơn mày mặt càng tươi tốt
Bộ cất tay lên, ngó cũng nghề (2)
Bộ cất tay lên ngó cũng nghề
Miệng cười tróm trém, húi râu dê (3)
Xông pha trăm trận từng hăm hở
Gánh vác hai vai ghẹo nặng nề (4)
Mở mặt Tiên Rồng dòng Ðại Việt
Nổi danh hùng hổ cõi Âu tê (5)
Trong tình cảnh nọ dầu không vẻ,
Văng vẳng dường nghe tiếng ắc-đê (6)
( N.V.H)
Chú thích
1- Vợ đẹp (tiếng Nghệ)
2- Có vẻ tay nghề
3- Bộ râu xén như râu dê
4- Dù công việc có nặng đến đâu cũng không sợ (tiếng Nghệ)
5- Âu Tây.chữ tây, âm Hán có khi đọc là tê
6- Phiên âm chữ Pháp: un,deux.Tiếng hô đi đều của lính tập
9. Liên hoàn thuận nghịch vận:
Thể thơ như trên, nhưng bài thứ 2 sắp xếp ngược vần lại với bài thứ nhất, ví dụ:
 

XEM NÚI NON BỘ
 

Non nhân,nước trí, điểu muông hiền
Núi giả mà in dáng tự nhiên
Một vũng xinh xinh ,vươn một ngọn
Hai cầu nho nhỏ, vắt hai triền
Thuyền ngư lướt suối dong miền tục
Cánh hạc trườn mây bổng cõi tiên
Ðối cảnh tâm tư dường nhẹ nhõm
Lâng lâng chẳng bợn chút ưu phiền
Lâng lâng chẳng bợn chút ưu phiền
Bàn đá say cờ đôi lão tiên
Lã vọng buông câu vờn sóng nước
Phật đài mở lối lượn ven triền
Sỏn thanh thủy tú, hồn u nhã
Sắc lộng hương nùng, khí hạo nhiên
Phong cảnh tạo hình như giới thiệu
Chủ nhân đây cũng bậc nhân hiền
(Lạc Nam)
 

10. Ô thước kiều:
Thể thơ liên hoàn như trên,nhưng lấy 2 từ cuối,hoặc nhắc lại 2,3 từ nào đó ở câu cuối của bài trên để mở đầu cho câu 1 của bài dưới, ví dụ:

 

CHỐNG TÔN THỌ TƯỜNG
 

Lung lay lòng sắt đã mang nhơ
Chẳng xét phận mình khéo nói vơ
Người trí mang lo danh chẳng chói
Ðứa ngu luống sợ tuổi không chờ
Bài hòa đã sẵn in tay thợ
Cuộc đánh hơn thua giống nước cờ
Chưa trả thù nhà,đền nợ nước
Dám đâu mắt lấp với tai ngơ
Tai ngơ sao đặng lúc tan tành
Luống biết trách người, chẳng trách mình
Ðến thế còn khoe đàng đạo nghĩa
Như vầy cũng gọi kẻ trâm anh
Biển khơi vụng tính dung thuyền nhỏ
Chuông nặng to gan buộc chỉ mành
Thân có,ắt danh tua phải có
Khuyên người ái trọng cái thân danh
Thân danh chẳng kể, thật thằng hoang
Ðốt sáp nên tro lụy chẳng màng
Hai cửa trâm anh xô sấp ngửa
Một nhà danh giá xóa tan hoang
Con buôn khấp khởi chưa từng ngọc
Người khó xăng xăng mới gặp vàng
Thương kẻ đòng văn nên phải nhắc
Dễ đâu ta dám tiếng khoe khoang
(Phan Văn Trị)
 

11. Tập danh
a. Mỗi câu có danh từ gắn với đề tài, ví dụ:
 

MỪNG ÔNG LÃO HÀNG THỊT THƯỢNG THỌ
 

Nay tiết mừng ông mới Bảy mươi,
Cổ hy (1) chưa dễ mấy lăm người.
Răng long nhưng hãy còn tinh mắt
Ðầu bạc nhưng mà chửa tắc tai
Bè bạn bày vai kèo (2) chén Lý (3)
Cháu con dưới gối múa sân Lai (4)
Xưa nay vẫn giữ lòng chân thực
chữ đức giả xương máu để đời
(Nguyễn Khuyến)
 

Chú thích
1- Do câu " nhân sinh thất thập cổ lai hy " ,ngưòi ta sinh ra sống được 70 tuổi, xưa nay rất hiếm có
2- Rót rượu mời người khác uống
3- Chén rượu của Lý Bạch ,nhà thơ uống rượu nổi tiếng
4- Lão Lai,người nước Sở đời Xuân Thu, tuổi đã ngoài 70 còn
cha mẹ, giả cách khóc như trẻ con để làm cho cha mẹ vui
b. Mỗi câu thơ có 1 từ chỉ bộ phận trong thân thể con người, ví dụ:

 

HỌC TRÒ
 

Dài lưng tốn vải lại ăn no
Nghĩ ngán cho thân phận học trò
Thù nước,thù vua, ngay mặt chịu
Công sưu, công ích, cắm đầu lo
Vẫn giương mắt ếch mà ra quáng
Còn ngậm lông mèo (1) chả sợ ho
Nói đến chuyện đời tai điếc đặc
Rung đùi, chỉ nghĩ "tám đùi" (2) to
(Nhì Mỹ)
Chú thích
1- Ngậm lông mèo: ngậm bút chữ nho
2- Tám đùi: văn xưa gọi là "bát cổ" dịch là tám vế, vế đồng nghĩa với đùi.
12.Tính danh:
Câu nào cũng có từ chỉ nhân danh hay địa danh Giống như Ðiển Thi, câu nào cũng dẫn 1 điển ở bên Tàu. Xưa kia các cụ đồ nho chuộng lắm vì như thế các cụ mới chịu cho là có học, rộng kiến thức, ví dụ:

 

LỖI THỀ
 

Vùi oan bạc mệnh sóng Tiền Ðường (1)
Ngọn đuốc Chiêm Thành (2) rở nhớ thương.
Chắp cánh đẹp gì câu Thất Tịch (3)
Ôm cầm say mãi gái Tầm Dương (4)
Lỗi thề Chung Tử (5) sầu tri kỷ
Hoen mái Tây hiên (6) lệ đoạn trường
Hồ Hán (7) ngậm ngùi mây cách biệt
Ngân Hà (8) mưa gió nẻo cầu sương.
(Toại Khang)
Chú thích
1- Kiều trầm mình ở sông Tiền Ðường
2- Công chúa Huyền Trân phải sang lấy vua Chiêm Thành
3- Ðường Minh Hoàng -Dương Quý Phi đêm 7 tháng 7 âm lịch thề cùng nhau "sống làm vợ chồng chết là chim liền cánh cây liền cành"
4- Bạch Cư Dị, văn hào đời Ðường, đêm đậu thuyền ở sông Tầm
làm bài Tỳ Bà Hành cho ca nữ hát
5- Chung Tử Kỳ - Bá Nha là 2 bạn tri âm.Bá Nha gảy đàn, Tử Kỳ biết Bá Nha nghĩ gì.Tử Kỳ chết, Bá Nha đập đàn đi, không gảy nữa.
6- Trương Quân Thụy-Thôi Oanh Oanh tình tự dưới mái Tây hiên
7- Chiêu Quân nhà Hán sang cống Hồ
8- Ngưu Lang - Chức nữ đứng 2 bên sông Ngân Hà nhớ nhau khóc
thành mưa ngâu trong tháng 7 Âm lịch

 

13. Sắc thái:
Câu nào cũng có từ chỉ màu sắc, ví dụ:
 

CHIỀU NỔI MÀU THU
 

Trời thu bóng ác rực mầu vang
Trườn trượt vào lưng dặng núi vàng
Cánh nhạn chiều tà sương lót trắng
Chòm mây mưa nhạt khói mờ lam
Lầu thu thoát nắng nâng rèm tía
Vườn vắng còn đây nở đóa vàng
Nếu chẳng vương tìm hoa súng tím
Thì đâu được ngắm nguyệt da cam
(Toại Khang)
 

14. Thủ vĩ ngâm
Câu đầu và câu cuối giống nhau, ví dụ:
 

KHOE LƯỜI
 

Anh em chớ bảo ta lười
Làm việc cho hay phải thức thời
Xuân hãy còn chơi cho phỉ chí
Hạ mà cất nhắc tất nhoài hơi
Thu sang cảm nguyệt còn ngâm vịnh
Ðông lại hầm chăn tạm nghỉ ngơi
Chờ đến xuân sang ta sẽ liệu
Anh em chớ bảo ta lười
(Tú Mỡ)
 

15. Triệt hạ
Từ cuối của mỗi câu thơ để bỏ lửng làm cho câu thơ chưa trọn nghĩa,khiến người đọc phải nghĩ ra, ví dụ:
 

GÁI HỒNG NHAN
 

Thấy gái hồng nhan bỗng chốc mà . . .
Hõi thăm cô ấy chửa hay đà . . .
Hình dung yểu điệu in như thể . . .
Diện mạo phương phi ngó tưởng là . . .
Ăn mặc ra tuồng người ở chốn . . .
Nói năng phải lẽ giống con nhà . . .
Ước gì ta được mà ta để . . .
Ta để đem về để nữa ta . . .
( Nguyễn Quý Tân)
 

16-Yết hậu
Các câu trên đủ từ cả, riêng câu cuối cùng chỉ có 1 từ, ví dụ:
 

CHA CON ĐÁNH CỜ
 

Ánh nắng vừa nghiêng ngọn trúc già
Cha con vui vẻ bày cờ ra
Đồng xanh gió mát trà thơm ngát
Ha!
Không - Một! Xưa nay ai chả lầm
Ván này...Thôi! Hết! Chốt xuyên tâm
Lâng lâng quý tử ngâm thơ luật
R...ầ...m!
Trước ngõ chỏng chơ tướng sĩ bồ
Ngoài sân cao thủ khóc nhi nhô
- Nín ngay! sắp lại cho tao gỡ!
- Dzô!
Nắng đã khuất dần phía núi xa
Cơm canh lên khói đợi trong nhà
Dưới thềm xe ngựa còn rầm rộ
- Chà!
(Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
 

17. Áp cú
Từ cuối của câu trước trở thành từ đầu của câu sau, ví dụ:
 

CHỪA RƯỢU
Những lúc say sưa, cũng muốn chừa
Muốn chừa, nhưng tỉnh lại hay ưa
Hay ưa nên nỗi không chừa được
Chừa được, nhưng mà cũng chẳng chừa
(Nguyễn Khuyến)
Trên đây là một số kiến thức cơ bản về Thơ Đường luật, Ban Quản trị sưu tầm và chia sẻ cùng các bạn.
Chúc các bạn sáng tác được nhiều bài thơ hay!


Pham Hong Thai

 TÓM TẮT :
      I.  NIÊM :  Niêm , từ Hán Việt có nghĩa là dính ( niêm phong ,  con niêm ) , trong phép làm thơ Đường luật thì các câu niêm với nhau phải có cùng loại thanh ( cùng mang thanh trắc hết , hoặc cùng mang thanh bằng hết  )   .Ta có :
       Câu 1 niêm với câu 8 .  Câu  2 niêm với câu 3 .  Câu  4 niêm với câu 5 .  Câu  6 niêm với câu 7  .Để  bớt sự gò bó khắt khe ,  có quy định : “ Nhất , tam , ngũ   bất  luận  . Nhị  , tứ  , lục  phân minh ” có nghĩa là : các tiếng lẽ trong câu như các tiếng thứ 1 , 3 ,  5   không  nhất thiết  phải răm rắp  thật đúng thanh bằng trắc ; nhưng các tiếng chẵn như các tiếng thứ  2, 4 , 6  dứt khoát phải triệt để đúng loại thanh ( bằng , trắc )
      II.  LUẬT :  Nếu  tiếng thứ 2  của câu thứ 1 (và câu thứ 8) có thanh bằng thì bài thơ theo luật bằng . Nếu tiếng thứ 2 của câu thứ 1 có thanh trắc thì bài thơ theo luật trắc .                   
Bài thơ theo luật bằng có quy định như sau :
-Tiếng thứ 2 và tiếng thứ 6 của câu thứ 1 và câu thứ 8  đều có thanh bằng , tiếng thứ 4 có thanh trắc (B-T-B )
-Tiếng thứ 2 và tiếng thứ 6 của câu  thứ 2 và câu thứ 3 ngựơc lại có thanh trắc, tiếng thứ 4 có thanh bằng (T-B-T )
-Tiếng thứ 2 và tiếng thứ 6  của câu  thứ 4 và câu thứ 5 trở lại như câu thứ 1 và câu thứ 8 ( có thanh bằng  ) , tiếng thứ 4 cũng vậy  ( có thanh trắc )(B-T-B )
-Tiếng thứ 2 và tiếng thứ 6 của câu  thứ 6 và câu thứ 7  cùng có thanh  trắc , tiếng thứ 4 có thanh bằng  ( như các câu  thứ 2 và câu thứ 3 )( T-B-T )
Bài thơ theo luật trắc :  
 Thực hiện trái ngược với thơ làm theo luật bằng
-Các tiếng thứ 2 và thứ 6 của câu thứ nhất  và câu thứ 8 có thanh trắc , tiếng thứ 4 có thanh bằng (T-B-T )
-Câu thứ 2 và câu thứ 3 thực hiện ngược lại ( B-T-B )
-Câu thứ 4 và câu thứ 5 thực hiện như câu thứ 1 và câu thứ 8 (T-B-T )
-Câu thứ 6 và câu thứ 7 thực hiện như câu thứ 2 và câu thứ 3 ( B-T –B )
      Nói tóm lại :
-Các câu thứ 1 , 4 , 5 , 8 có thanh trong các tiếng chẵn giống nhau
-Các câu thứ  2 , 3, 6 , 7 có thanh trong các tiếng chẵn giống nhau
-Các tiếng thứ 2 và thứ 6 có thanh giống nhau , tiếng thứ 4 nằm ở giữa có thanh ngược lại (   theo quy định :   B-T-B    hoặc    T-B-T  )
III. VẦN :
       Thơ Đường luật THẤT NGÔN BÁT CÚ có 8 câu 5 vần . Vần vào tiếng cuối  ( tiếng thứ 7 ) của các câu thứ 1 ,2, 4 ,6 ,8 . Có chính vận và thông vận .  Chính vận là các tiếng bắt vần với nhau phải cùng vần  .Thông vận là các tiêng bắt vần với nhau có thể có vần gần gống nhau  như : an , ăn , ân , ang ….;  oi ,ôi, ơi ..; ui , ưi…vv..
              IV. ĐỐI
          Khó nhất trong thể thơ Đường luật là phải đối cho thật chỉnh .Đối theo từng cặp từ chan chát  ,trái nghĩa với nhau và phải cùng từ loại (danh từ đối với danh từ , động từ đối với động từ ,….) từ thuần Việt đối với từ thuần Việt , từ Hán Việt đối với từ Hán Việt…..
Sau này thoáng hơn người ta chấp nhận đối theo cụm từ hoặc có thể đối ý ; có thể  tá đối  không nhất thiết phải chỉnh đối. Do phạm vi bài viết  là chỉ tóm lược những nét cơ bản  của thơ Đường luật nên tôi  chỉ nói lướt qua thôi .  Khi đối   thì 2 câu thực ( câu thứ 3 thứ 4 ) đối với nhau  ; 2 câu luận  ( câu thứ 5 , thứ 6 ) đối với nhau .
   V. PHÂN ĐOẠN
         Trong thơ Đường luật  , chia ra 4 cặp câu  : đề , thực , luận , kết :
          Đề  (Câu thứ 1 và câu thứ 2) :   Mở bài  , giới thiệu sự việc ….
          Thực ( Câu thứ 3 và câu thứ 4 ) : Tả thực sư việc , nêu cảnh thực …..
          Luận ( Câu thứ 5 và thứ 6 ) : Bàn luận , lý giải , trần tình ,  phân bua ….
          Kết ( Câu thứ 7 và câu thứ 8 ) : Kết luận , nêu cảm xúc ….
        Thơ Đường luật là thể thơ bác học, cầu kỳ và rất gò bó .Để hiểu và vận dụng làm thơ Đường luật không dễ dàng ,đòi hỏi ngườ làm thơ phải tốn hao khá nhiều thời giờ để lập ý ,cấu tứ  vắt óc tìm từ và  đúng luật hài thanh để có tính nhạc trong thơ. Tuy nhiên nếu đã quen thuộc thì làm thơ Đường là  một thú chơi tao nhã , quyến rũ như chơi cây kiểng , non bộ….vv , có thể di dưỡng tinh thần và rèn tính kiên nhẫn  , thận trọng và nhiều đức tính khác .Theo đề nghị của anh Văn Thiên Tùng , tôi viết vội bài này , giới thiệu đến  quý bạn  một thể thơ cũ đang được phục hồi. Bài viết chắc còn nhiều thiếu sót mong quý bạn bỏ qua cho.
LA THUỴ( 24/10/2009 )

 Các lỗi thông thường trong bài thơ Đường luật


Quý anh chị có thể xem thêm  các lỗi khác . Click chuột vào dòng chữ màu xanh CLICK TO VIEW

Các lỗi thông thường trong bài thơ Đường luật
1. Thất luật (Click to View)
2. Thất niêm (Click to View)
3. Lạc vận/Cưỡng vận (Click to View)
4. Thất đối (Click to View)
5. Khổ độc (Click to View)
6. Trùng vận (Click to View)
7. Trùng từ (Click to View)
8. Trùng ý (Click to View)
9. Phạm đề/Mạ đề (Click to View)
11. Bình đầu (Click to View)
12. Thượng vỹ (Click to View)
13. Điệp thanh (Click to View)
14. Điệp âm (Click to View)
15. Đại vận (Click to View)
16. Tiểu vận (Click to View)
17. Phong yêu (Click to View)
18. Hạc tất (Click to View)
19. Chánh nữu (Click to View)
20. Bàng nữu (Click to View)
Ái Hoa
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Dương Quảng hàm - Văn Học Việt Nam
Quách Tấn - Thi Pháp Thơ Đường

Mạ đề và điệp  từ 
 là  hai lỗi thường gặp nhất trong Sáng Tác Thơ Đường luật hiện nay: .

Luật lệ Đường thi rất nghiêm nhặt. Ngoài những qui định cơ bản về số lượng  câu trong bài thơ và âm tiết (chữ, tiếng) trong câu, thanh (luật bằng trắc), niêm, vần, kết cấu (bố cục), tiết tầu (nhịp),đối ngẫu..., luật lệ Đường thi còn chỉ rõ  20 bệnh, lỗi thường gặp mà người sáng tác thơ Đường cần phải tránh mắc phải:
       Tám bệnh  của Đường thi ( thể thất ngôn) là:
1. Bệnh Bình Đầu
2. Bệnh Thượng Vỹ
3. Bệnh Phong Yêu
4. Bệnh Hạc Tất
5. Bệnh Bàng Nữu
6. Bệnh Chánh Nữu
7. Bệnh Đại Vận
8. Bệnh Tiểu Vận
Và 12 lỗi  của Đường thi là:
1. Lạc vận
2. Lạc đề
3. Thất niêm, thất luật
4. Thất đối
5. Khổ độc
6. Điệp thanh
7. Điệp điệu
8. Điệp âm
9. Trùng vận
10. Trùng từ/điệp từ
11. Trùng ý /Hiệp Chưởng
12. Phạm đề/Mạ đề
   
    
    Trong 20 lỗi, bệnh trên, có những lỗi như lạc vận, thất niêm, thất luật,.. người làm thể thơ Đường luật ít phạm phải, vì đã có qui định về niêm, luật, vần... trong luật lệ cơ bản,  có những lỗi như  điệp thanh, điệp điệu, điệp âm, thất đối..., người viết vẫn biết mà phải phạm do hạn chế về năng lực sử dụng ngôn ngữ. Điều đáng nói là trong sáng tác, giao lưu và trên các diễn đàn thơ Đường luật hiện nay, có 2 lỗi thường thấy nhất mà người làm thơ Đường luật và ban biên tập các trang thơ Đường luật  thường bỏ qua (nhất là trên các diễn đàn ở phía Bắc và của người Việt ở nước ngoài) là mạ đề và điệp  từ. Hiện trạng nầy xảy ra do 3 nguyên nhân: Thứ nhất là do cả người sáng tác lẫn người  phụ trách, biên tập các trang thơ Đường luật đó "không hề biết trên đời nầy" có 2 lỗi nầy; thứ hai là do tưởng rằng phạm vào 2 lỗi này cũng không hoặc ít ảnh hưởng đến nội dung bài thơ; thứ ba là do quan niệm của những người sáng tác và biên tập. Đây là điều đáng bàn. Nhiều thi hữu  khi thơ được biên tập để sửa lại 2 lỗi nầy đã rất thực lòng khi nói: "Tôi chỉ mượn luật Đường thi để viết thơ thuần Việt(!), bất chấp và không cần biết những qui định khác!". Họ quên rằng những bệnh, lỗi phải tránh khi viết thơ Đường luật cũng không nằm ngoài luật lệ Đường thi! Người tiếp thụ (độc giả) thơ Đường luật thì được, chỉ cần biết luật lệ cơ bản như đã nói ở trên là đủ để cảm hiểu , nhưng giới sáng tạo ( nhà thơ, người viết ...)
thơ Đường luật phải biết rành rẽ về phép tắc  Đường thi thì mới  sáng tác được bài thơ gọi là thơ luật Đường được (chưa nói đến chuyện thơ hay)!  Có người cũng rất thực lòng khi thơ được biên tập để sửa lại 2 lỗi nầy (cùng những lỗi, bệnh khác): "Tôi muốn vượt ra ngoài khuôn khổ gò bó, luật lệ nghiêm khắc!". Thế thì cứ làm thơ tự do, như phong trào thơ mới đã  làm cách mạng trong thơ ca và ngày nay thơ hiện đại VN đang thừa kế, phát triển. Còn muốn nói đến ý muốn cách tân, đổi mới thơ luật thì trước hết phải  am hiểu sâu sắc về luật thi đă thì mới  nói  đến chuyện cách tân được! Không biết đối tượng là ai, là thế nào, ở đâu, mặt mủi ra làm sao, nguồn gốc, con cái nhà ai ..., thì  làm sao sửa đổi đối tượng được! Hơn nữa, chủ nghĩa cổ điển trong văn học dù ràng buộc sáng tạo với những luật lệ nghiêm nhặt , nhưng lại có cái hay là xác định những chuẩn mực để bình ổn văn hóa và tạo điều kiện  cho sự sáng tạo trong khuôn khổ.  Chẳng hạn,  qui định về kết cấu của thơ Đường luật, nhất là thể  bát cú, với  bố cục chặt chẽ: đề, thực, luận, kết đã là cấu tứ  của bài thơ, cái TỨ có sẵn tặng người làm thơ. Người viết, ngoài TÌNH thật , TỪ hay , nếu Ý thơ  tuân thủ được kết cấu trên thì tứ thơ đã tự nhiên hình thành và bài bát cú đó là thơ, vì  đã có sẵn TỨ THƠ ( cái phải có để phân biệt thơ với vè, văn vần, khẩu hiệu...) do kết cấu chặt chẽ  tạo nên, không phải vè, văn vần, khẩu hiệu... rồi (dĩ nhiên giá trị của bài thơ còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác). Ngay trong 2 lỗi đang bàn đến: mạ đề và điệp từ, hai qui định nầy tạo điễu kiện cho người viết nâng cao  giá trị bài thơ. Qui định  về lỗi điệp từ ( vì nghèo từ vựng, vì không nghiêm túc trong sáng tạo nghệ thuật...)  giúp tác giả có sự chọn lọc những từ ngữ "đắt" nhấi,làm đẹp câu chữ, làm tăng giá trị nghệ thuật của bài thơ và  qui định về lỗi mạ đề  giúp cho tựa đề bài thơ thực hiện được trạng thái "phi giao tiếp" (Lời kị thẳng, Mạch kị lộ(*)_ Lê Quí Đôn),  làm tăng  giá trị thẩm mỹ của bài thơ. Trong luật thơ Đường và thi pháp thơ Đường, có những yếu tố mà thơ Đường luật VN đương đại cách tân thành công. Chẳng hạn về tiết tấu, thay vì nhịp 4/3 như qui định, thơ Đường VN đương đại dùng các nhịp phá cách như:  3/4, 2/5, 5/2, 2/3/2... trong nhiều bài thơ giá trị, hoặc về ngôn ngữ, thay cho từ ngữ ước lệ, tượng trưng, điển cố... trong thơ Đường luật truyền thống bằng ngôn  ngữ đời thường cụ thể, sinh động, hình ảnh, gợi cảm... trong nhiều bài thơ Đường luật được yêu thích. Nhưng có những yếu tố cơ bản của Đường luật không thể thay đổi được, vì nếu thay đổi sẽ biến dạng thành quái dị hoặc thành một loại thơ khác, chứ không còn là thơ Đường luật nữa!     
      Xin nói kỹ hơn về  2 lỗi thường gặp  nhất mà người làm thơ Đường luật và ban biên tập các trang thơ Đường luật hiện nay thường bỏ qua là mạ đề và điệp  từ.

1. Phạm đề/Mạ đề:
     Trong hai cặp thực và luận không được dùng chữ của đầu bài, nếu có chữ nào của đề lọt vào thì bị lỗi phạm đề hay mạ đề. Nói ngược lại và ngắn gọn, là đề không được dùng chữ trong 4 câu giữa  của bài thơ.    
     Người viết  ngày nay thường "lách luật", tránh lỗi mạ đề bằng cách đưa tựa đề mà mình thích nhưng phạm mạ đề thành tựa phụ đặt sau tựa đề chính và  trong dấu ngặc đơn
2.Trùng từ/ điệp từ:

      Cùng một  chữ được dùng nhiều lần ở trong bài thơ, thì gọi là lỗi trùng từ hay điệp từ, ngoại trừ trường hợp cố ý.
      Đó là cách giải thích thống nhất xưa nay như là một định nghĩa trong các sách vở, tài liệu, trên mạng...  viết về phép tắc, luật lệ Đường thi  đối với lỗi nầy. Theo nhận thức của chúng tôi,  trong 3 trường hợp cụ thể sau thì cùng một âm tiết được dùng nhiều lần ở trong bài thơ  vẫn  không bị qui vào  phạm lỗi điệp từ:
    1) Dùng hai từ, ngữ, âm tiết hay  từ tố (viết ra gọi là chữ, đọc lên gọi là tiếng) đồng âm nhưng nghĩa gốc khác nhau (từ đồng âm dị nghĩa) như "cánh" trong "cánh chim" và 'cánh" trong "canh cánh" thì không phạm điệp từ. Cần phân biệt với  trường hợp dùng nhiều lần các từ tố của một từ đa nghĩa (cùng nghĩa gốc) thì phạm lỗi điệp từ, chẳng hạn: dùng nhiều lần từ tố  "cánh" trong các từ: cánh chim, cánh quân, cánh quạt, cánh đồng,  cánh quạt, phe cánh, sát cánh, cánh gà (sân khấu), cánh cửa là phạm lỗi điệp từ, vì chúng dùng một hay nhiều nét nghĩa của một nghĩa  gốc ( có một trục, điểm tựa; dựa vào, di động, mở ra...  quanh trục,
điểm tựa đó)  của một từ đa nghĩa.
    2) Dùng nhiều lần một từ, ngữ, từ tố, câu, kiểu câu với dụng ý nghệ thuật thì là sử dụng biện pháp tu từ (xưa gọi là mỹ từ pháp) điệp ngữ thì  không phạm lỗi điệp từ
    3) "Lách luật" bằng cách dùng từ biến âm, phương ngữ... đồng nghĩa hoàn toàn của từ đã dùng trong bài thơ, để không phạm điệp từ, chẵng hạn  2 từ  tố " nghĩa" và "ngãi "  trong các từ ghép sau: "nhân ngãi" và "tình nghĩa".
Minh Thu
(*) Nguyên văn:
 Lời kị thẳng
Ý kị nông
Mạch kị lộ
Thi vị kị ngắn
(Lê Quí Đôn)
 Mời quí thi hữu nhắp chuột đọc thêm về luật lệ, thể thức, thi pháp Đường thi và thực trạng thơ Đường hiện nay:
VỀ THỂ THỨC HỌA THƠ LUẬT ĐƯỜNG .

XUÂN ĐẠO LÝ


Chẳng rượu chẳng cờ, cũng chẳng hoa
Xuân về ta có thú riêng ta.
Dăm ba pho sách, dăm ba bạn
Một ít vần vần thơ, một ít trà.
Người kiếm mai vàng mừng tết đến
Ta trồng cỏ biếc dưỡng tâm già(1)
Gió xuân có biết mà thăm hỏi,
Đã có chim vườn cất tiếng ca.
                      Tâm Hướng ( Cố GS Lê Đình Ngân)

(1) Chu Đôn Di ( 1017-1013) Hiệu Liêm Khê, nhà đạo học đời tống
để cỏ mọc xanh tốt trước cửa sổ chỗ nhà học.  có người hỏi ông nói” Dự tử gia ý tứ nhất ban”

        TÂN NIÊN KHAI BÚT

Một trời hương sắc xoắn quanh ta
Nhắp chén xuân nồng vẩy bút hoa
Chấm phá dăm câu, khai huệ trí
Dọc ngang đôi nét , tỏa hồn xa
Nghinh xuân, một nhánh lộc non dại
Đón tết vài chung, phúc tuổi già
Dẫu biết thêm xuân đời vắn lại 
Mà lòng vẫn tấu khúc hoan ca.
                             Trần Quang Thắng

MỪNG XUÂN
Nâng chén hoà vui ấm giọng ca
Ý tình thao thiết bút thêu hoa
Mai e ấp nụ ươm vàng nắng
Sen khẽ khàng hương ủ đượm trà
Bấc lạnh nỗi niềm , Đông tận nhỉ!
Rượu nồng hương sắc , Xuân khai a!
Lâng lâng thi tứ tươm trào giọt
Cánh mộng dường bay vào thẳm xa
LA THUỴ
 
CHÚC TẾT

Chuyển tiết ngàn chim riú rít ca
Hòa nên tuyệt cảnh, với muôn hoa
Chào Xuân mời Bạn nâng chung rượu
Đón Tết cùng Ông nhấp ngụm trà
Khai bút đầu năm gìa xướng họa
Mừng vui tiền mới trẻ ê a
Tân niên Hạnh phúc- An bình đến
Như ý mọi điều cũng chẳng xa.
Thanh-Huyền
Tải Blog 23.5.2009 



THỂ THỨC HỌA THƠ ĐƯỜNG LUẬT
  
Có 2 thể thức họa thơ Đường luật là: Họa Hạn Vận và Họa Phóng Vận

1. HỌA HẠN VẬN:
Họa hạn vận là phải theo sự hạn định trước. Người ta ra đề và cho vần nào thì mình phải dùng vần ấy. Thể Họa Hạn Vận nầy khác với thể Họa Phóng Vận, vì họa hạn vận không có bài xướng để dựa theo mà họa, hơn thế nữa, ta phải:
- Diễn tả ý thơ theo đầu đề đã ra sẵn.
- Dùng đúng 5 vần hạn định (trong 8 câu) và phải hạ vần đúng theo thứ tự đã hạn định.
Thí dụ: Cuộc thi thơ do học giả Phan Kế Bính tổ chức như sau:
a. Ðầu đề (nội dung) là:
Trống treo ai dám đánh thùng
Bậu không ai dám dở mùng chun vô
b. Năm vần hạn định theo thứ tự là:  xô - cô - vô - ô - rô.
Bài thơ sát với đầu đề, hạ đúng 5 vần hạn định, được giải nhất mà tác giả lại là một thiền sư chân tu !!! ... như sau đây:
Nào phải là ai dám giục xô
Thuận tình trước hết tự nơi cô
Có cho mới dám trao dùi đánh
Không hẹn nào ai đẩy cửa vô
Mảng sướng kể gì thân lễ nghĩa
Ham vui quên hết chuyện dâm ô
Thói hư thuần thước xưa còn lạc
Đừng học làm chi gióng nhảy rô
        Còn có một lối hoạ hạn vận rất khó., xin kể lại một câu chuyện như sau: Mùa Hè năm 1926, trong dịp thi sĩ Đão Sĩ Nhã đến thăm gia đình họ Phan ở Hưng Yên. Ông khách Đào Sĩ Nhã thách lão thi sĩ Phan Mạnh Danh làm một bài thơ Nôm Đường luật với các điều kiện sau:
- Đầu đề: Xuân Khuê
- Hạn 5 vần: chờ - hờ - thưa - tơ - thơ
- Phải dùng 19 chữ: một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, trăm, ngàn, vạn, đôi, cặp, nửa, trượng, thước, tấc.
           Sau đây là bài thơ Nôm hoạ hạn vận của lão thi sĩ Phan Mạnh Danh:
Xuân Khuê
Một mong hai đợi bốn ba chờ
Mười hẹn đêm trăng tám hững hờ
Nửa gối năm canh gà gáy giục
Tấc mây sáu cánh nhạn tin thưa
Trăm lần cặp mắt đôi hàng lệ
Chín khúc bên lòng vạn mối tơ
Ngàn trượng thành sầu đo thước khó
Biếng đem bảy vẻ dệt nên thơ .
                               Phan Mạnh Danh
2. HỌA PHÓNG VẬN
       Họa Phóng Vận là phỏng theo vần của bài xướng để họa lại mà các vần trong bài họa phải theo y như các vần trong bài xướng, còn ý nghĩa thì hoặc phụ theo cho rộng thêm, hoặc trái hẳn lại (phản đề).
         Họa phóng vận còn chia ra 4 hình thức là: Họa Nguyên Vận, Họa Đảo Vận, Họa Hoán Vận và Hoạ Tá Vận.
  a. Họa Nguyên Vận: là họa đúng 5 vần của bài xướng và hạ vần cũng đúng y theo thứ tự như cách hạ vần của bài xướng. Trong cách họa nguyên vận thường thì có bao hàm họa ý (hoặc đối ý) và đối luật với bài xướng. Nếu không đối luật được thì cũng có thể họa luật.
   b. Họa Đảo Vận: là họa ngược thứ tự của 5 vần từ dưới lên trên, thay vì họa nguyên vận là họa từ trên xuống còn họa đảo vận là họa từ dưới lên.
    c. Họa Hoán Vận: là thay đổi thứ tự vị trí các vần của bài xướng tùy theo ý người họa, sắp xếp lại sao cho vần điệu nghe êm tai hơn cách sắp xếp của bài xướng.
  d. Họa Tá Vận: Tá vận là mượn vần. Họa tá vận là bài họa chỉ mượn 5 vần của bài xướng để làm một bài khác mà nội dung hoàn toàn không liên quan gì đến bài xướng cả. Cách họa này ngày nay hầu hết được  người ta làm rất nhiều vì dễ làm .

CHÚ Ý QUAN TRỌNG:   Trong thể thức Họa Vận, không được dùng trùng từ thứ 6 trong các câu có vần của bài xướng. Tức là không được dùng lại từ đứng trước của 5 vần bài xướng. Nói dễ hiểu là không được dùng lại chữ thứ 6 ở các câu 1-2-4-6-8 của bài xướng. Càng tránh dùng trùng từ trong toàn bài của bài xướng càng tốt, ngoại trừ những từ đặc biệt không thể tránh được ( Chắc phải xữ dụng câu mở đường này)

             Hoạ Thơ bao gồm 2 phần chính quan trọng sau đây:

      Đã có một bài thơ sẵn trước gọi là Bài Xướng. Bài xướng có thể chọn 1 bài đã có sẵn từ xưa, từ trước, hoặc 1 bài do 1 người khác làm trước "thách đố" cho người khác đáp lại. Người đáp lại thì bài reply đó gọi là Bài Họa. Bài họa phải có ít nhất 3 yếu tố quan trọng sau đây:
      1. Họa vần: 5 vần tức là 5 tiếng (từ) cuối của các câu 1-2-4-6-8 mà người xướng đã ra như thế nào thì người họa phải theo đúng y chang 5 vần đó, không được vì bí hay kẹt mà sửa đổi. Chỉ cần sai 1 trong vần kể trên thì bài họa coi như bị hỏng, và như vậy gọi là bị Xuất Vận nghĩa là bị ra khỏi vần đã hạn định cho mình, dĩ nhiên bài họa đó bị Fail.
     2. Bài xướng nói lên ý (main idea) gì thì bài họa cũng phải nói lên ý đó hoặc tán rộng nghĩa ra thêm.
     3. Bài xướng gieo luật gì thì bài họa phải đối lại luật đó (trong xướng họa có hàm nghĩa đối đáp). Thí dụ bài xướng luật trắc thì bài họa phải luật bằng và ngược lại.
     4. Ngoài ra bài họa có thể đối ý lại bài xướng, thí dụ bài xướng khen 1 vấn đề gì thì bài họa có thể chê vấn đề đó (gọi là phản đề, nhưng không bắt buộc).
          Tóm lại 3 yếu tố 1-2-3 là cần thiết cho 1 bài họa xuất sắc.
Sau đây là một thí dụ về xướng họa điển hình để làm mẫu. Hai bài này nổi tiếng trong văn học Việt Nam

                 Bài Xướng:
TÔN PHU NHÂN QUI THỤC
               (của Tôn Thọ Tường)
Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng
Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông
Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc
Về Hán trau tria mảnh má hồng
Son phấn thà cam dày gió bụi
Đá vàng chi để thẹn non sông
Ai về nhắn với Châu Công Cẩn
Thà mất lòng anh được bụng chồng
          Bài Họa:
TÔN PHU NHÂN QUI THỤC
        (của Phan Văn Trị)

Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng
Mặt ngả trời chiều biệt cõi Đông
Ngút tỏa trời Ngô ùn sắc trắng
Duyên về đất Thục đượm màu hồng
Hai vai tơ tóc bền trời đất
Một gánh cương thường nặng núi sông
Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết
Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng .

   

Một số thí dụ  HỌA PHÓNG VẬN:
Thí dụ 1:
a. Họa nguyên vận:
Bài xướng:
       TƯƠNG TƯ
Tương giang hai đứa ở hai nơi
Uống cạn dòng sông nhớ trọn đời
Chỉ thắm xe lơi người mộng hỡi
Tơ hồng buộc lỏng bạn lòng ơi
Vần thơ nức nở mi nhòa lệ
Nét chữ run run ý cạn lời
Định số an bài mang khổ hận
Đêm trường thổn thức máu tim rơi .

                                     H. T.L
 Bài họa nguyên đề  

TƯƠNG TƯ
Mỏi gót phiêu bồng khắp mọi nơi
Về đâu trên vạn nẻo đường đời
Mưa buồn đổ mãi mưa buồn hỡi
Tuyết trắng rơi hoài tuyết trắng ơi
Muốn nhắn đôi câu mà nghẹn ý
Mong trao mấy tiếng lại ngăn lời
Dòng sông ly biệt nào chia lối
Ngắm dải Ngân Hà đếm lệ rơi .
                                      H T L

b. Họa đảo vận:
Bài xướng:
           TƯƠNG TƯ
Tương giang hai đứa ở hai nơi
Uống cạn dòng sông nhớ trọn đời
Chỉ thắm xe lơi người mộng hỡi
Tơ hồng buộc lỏng bạn lòng ơi
Vần thơ nức nở mi nhòa lệ
Nét chữ run run ý cạn lời
Định số an bài mang khổ hận
Đêm trường thổn thức máu tim rơi
                                         HTL
Bài họa nguyên đề
TƯƠNG TƯ
Lất phất bên thềm tuyết trắng rơi
Niềm riêng ấp úng chẳng nên lời
Hai hàng lệ tủi than trời hỡi
Một áng thơ sầu khóc bạn ơi
Rẽ yến chia oanh hờn số kiếp
Lìa loan rã phụng lỡ duyên đời
Sông Tương uống cạn dòng thương nhớ
Giang vĩ giang đầu đứa mỗi nơi .
                              H T L

c .Họa hoán vận:
Bài xướng:
       TƯƠNG TƯ 
Tương giang hai đứa ở hai nơi
Uống cạn dòng sông nhớ trọn đời
Chỉ thắm xe lơi người mộng hỡi
Tơ hồng buộc lỏng bạn lòng ơi
Vần thơ nức nở mi nhòa lệ
Nét chữ run run ý cạn lời
Định số an bài mang khổ hận
Đêm trường thổn thức máu tim rơi
                                        H T L
Bài họa nguyên đề
            TƯƠNG TƯ
Gởi gió nhờ mây nhắn mấy lời
Trao người yêu dấu của tôi ơi
Đường mơ vạn nẻo đành riêng lối
Bến mộng đôi bờ phải khác nơi
Bóng chiếc phòng đơn sầu lệ đổ
Đèn khuya gác vắng tủi châu rơi
Ai xui hai đứa mình dang dở
Chẳng trọn cùng nhau suốt cuộc đời .
                                H T L

d. Họa tá vận (mượn vần):
Bài xướng:
             TRUNG THU
Trăng thu toả sáng nhớ xa xăm
Tháng tám chờ trông đến bữa rằm
Mẹ dán lồng đèn chơi suốt sáng
Cha làm trống ếch đánh quanh năm
Xa rồi cảnh cũ lòng se lạnh
Tiếc mãi ngày xưa lệ ướt dầm
Chiếc lá chao mình trong gió sớm
Nghe chừng vọng lại thoáng dư âm
                                          H T L
Bài họa nguyên đề
              XIN XĂM
Mẹ dẫn lên chùa để thỉnh xăm
Hôm nay trăng sáng đúng đêm rằm
Cầu xin phúc lộc vào nguyên tháng
Khấn nguyện bình an đến trọn năm
Giữa Hạ oi nồng đừng nắng gắt
Trung Thu mát mẻ chớ mưa dầm
Đưa tay vói rút ồ hên quá
Thượng thượng ngon lành chẳng bị âm .
                                       Trâm Anh
 Đôi điều chú ý Hoạ thơ Đường luật
Họa vần là sáng tác một bài thơ thường gọi là bài họa dựa trên hệ thống vần của một bài thơ có trước thường gọi là bài xướng.
Thơ Đường luật có nhiều thể như thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, ngũ ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn bát cú.
Nếu thể thơ thất ngôn bát cú thì toàn bài có năm vần là chữ cuối cùng của các câu 1, 2, 4, 6, 8.
Những chữ vần thường là thanh bằng (có một số bài làm theo vần trắc, thì các chữ ở vị trí này là thanh trắc).
Sau khi có bài xướng, người làm thơ họa sáng tác một bài khác, dùng lại đúng năm chữ vần của bài thơ xướng, với điều kiện chỉ dùng chữ cuối, không được dùng chữ kế cuối.
Nếu dùng lại chữ kế cuối là phạm nguyên tắc "khắc lục", là lỗi cấm kỵ trong họa vần thơ Đường luật.
        Bài họa phải diễn đạt lại ý chính (nội dung) của bài xướng, không được lạc đề.
Thường là bài họa phải đối luật với bài xướng, nếu bài xướng luật bằng thì bài họa phải luật trắc và ngược lại. Kẹt lắm mới làm bài họa đồng luật với bài xướng.
Thí dụ:
Bài xướng
       Vườn rau Cẩm Tú
Thầy cho xới lại mảnh vườn hoang
Cẩm Tú đem phân ủ mấy hàng
Củ cải gieo gần dây mướp đắng
Su hào tỉa cạnh gốc khoai lang
Thì là diếp cá lên muôn lối
Húng đổi cần tây mọc khắp đàng
Tứ phía rau xanh nhìn mát mắt
Tha hồ cải thiện bữa ăn...sang
                                Cẩm Tú

Bài hoạ nguyễn đề
Vườn rau Cẩm Tú
Cẩm Tú gieo trồng mảnh đất hoang
Rau xanh thẳng tắp rất ngay hàng
Ngò om óng mượt bên giàn mướp
Húng quế thơm lừng kế luống lang
Bí rợ tần ô lên bít lối
Dưa leo ớt hiểm mọc đầy đàng
Chiều chiều đứng ngắm lòng thanh thản
Cuộc sống quê nghèo ngẫm lại...sang
                                     H. T. L
        Không được dùng lại chữ thứ 6 (chữ kế cuối) trong các câu cước vận (câu 1-2-4-6-8) của bài xướng và tất cả những bài đã hoạ trước.
5 chữ vần của bài hoạ không được khác nghĩa với 5 chữ vần của bài xướng.
Coi như bài hoạ là bản copy những nét căn bản về ý và vần của bài xướng, vì vậy bài hoạ phải cùng một tựa đề với bài xướng.
Hoạ thơ Đường luật không đến nổi quá khó nhưng không phải dễ dàng như nhiều người đã lầm tưởng !
Hoạ sai một vần gọi là xuất vận: không được.
Hoạ sai nghĩa một vần gọi là xuất ý: không được.

Bài đọc thêm
Xướng hoạ thơ Đường luật là có hàm ý đối hoạ ở trong đó.
Người ta xướng ra mình phải đối đáp lại, vì vậy nếu chỉ một bài xướng và một bài hoạ thì bài hoạ bắt buộc phải đối luật với bài xướng. Thí dụ bài Tôn Phu Nhân Qui Thục xướng của Tôn Thọ Tường, hoạ của Phan Văn Trị.
Trường hợp bất khả kháng không thể đối luật được thì có thể châm chế hoạ đồng luật, nhưng bài hoạ đồng luật sẽ bị giảm giá trị vì không đáp ứng đúng thể thức xướng hoạ đúng cách.
Bắt đầu những bài hoạ sau đó (nếu có) thì có thể dùng luật gì cũng được.
Hoạ thơ là "vẽ lại" hình ảnh của bài xướng cho nên phải trung thực với bài xướng về ý cũng như vần.
Hoạ sai ý bài xướng là không đạt.
Hoạ sai bất cứ chữ vần nào của bài xướng gọi là xuất vận: không đạt. Xuất vận là đi ra khỏi sự hạn định về vần của bài xướng.
Hoạ sai nghĩa bất cứ chữ vần nào của bài xướng gọi là xuất ý: không đạt. Xuất ý là đi ra khỏi ý nghĩa chữ vần của bài xướng.
            Hoạ thơ Đường luật đúng cách rất khó.
Khi bạn bè (thi hữu) chung vui xướng hoạ với nhau, có thể dùng thể thức Hoạ Tá Vận (tức là mượn vần) để hoạ những vần tử vận và tử ý. Cách nầy không đạt nhưng cốt là để cùng nhau vui vẻ mà thôi. Nhưng cũng không nên đi xa thi đề (nội dung của bài xướng). Thí dụ bài Cảm Vịnh Cây Mai xướng của Tôn Thọ Tường, hoạ của Đông Hồ.
          Lấy thí dụ tử vận xót xa không thể nào hoạ nguyên vận theo chính hoạ được. Chúng ta có thể hoạ tá vận (mượn vần) theo bàng hoạ là xa xa, từ xa, đàng xa v.v... chẳng hạn. Dĩ nhiên là sai nghĩa của chữ xót xa rồi (bởi vậy mới bị xuất ý: không đạt), nhưng cốt để cùng nhau vui vẻ mà thôi.
Chúng ta học thơ Đường luật chính thể, cho nên phải học kỹ về chính luật, chính vận, chính đối, chính hoạ.
Thông vận, bàng đối và bàng hoạ... không xuất sắc.
Làm thơ, nếu dùng thông vận thì nên dùng cận vận mà không nên dùng viễn vận. Viễn vận và cưỡng vận không hay, hạn chế dùng.
 
H. T.L