Thứ Sáu, 8 tháng 11, 2013

Văn học dân gian Q.Trị...Sưu tầm


VĂN HỌC DÂN GIAN

Quảng Trị là một vùng đất giàu có vốn văn hoá phi vật thể, trong đó văn học dân gian có vị trí hết sức đặc biệt. Văn học dân gian Quảng Trị là sản phẩm chứng tỏ sức sống mãnh liệt của dòng văn học truyền khẩu.

Xét giá trị nội dung và nghệ thuật, văn học dân gian Quảng Trị có những nét riêng, đóng góp cho văn học dân gian Việt Nam thêm phần phong phú. Văn học dân gian bao gồm nhiều thể loại (huyền thoại, huyền tích, tục ngữ, câu đố, truyện cười, tuồng hài…) song phong phú,đa dạng và giàu màu sắc địa phương và có thể phân thành 4 mảng chính là ca dao-dân ca, Tục ngữ-câu đố, Truyền thuyết-cổ tích-truyện trạng, hò vè  
Ca dao - Dân ca

Nói đến dân ca là nói đến phương thức diễn xướng (bao gồm cả hình thức diễn xướng và môi trường diễn xướng) và các làn điệu. Dân ca lấy khung cảnh làng quê, đồng ruộng, mái đình, giếng nước, cây đa… làm môi trường diễn xướng. Ca hát gắn với con người từ khi lọt lòng đến khi nhắm mắt xuôi tay. Ca hát gắn với lao động, với sinh hoạt giải trí vui chơi, với sinh hoạt gia đình, sinh hoạt thôn xóm… Nhưng tuỳ nơi tuỳ lúc, tuỳ đối tượng sử dụng và thưởng thức mà lúc nó được hát bằng hình thức tập thể, lúc thì chỉ một cá nhân biểu diễn.
 
Ca dao- dân ca của bất cứ miền nào trước hết cũng là tiếng ca của nghĩa tình, tiếng nói của yêu thương. Trong sinh hoạt gia đình, làng xã, lúc làm việc cũng như lúc nghỉ ngơi, khi tiếng nói của con tim đã đã ở cung bậc cao nhất, người lao dộng dùng lời ca để bày tỏ tâm tình trước cảnh vật, trước những biến diễn của cuộc đời và trao đổi tâm tình với nhau. Tính trữ tình, bởi vậy thấm đượm trong nội dung lẫn âm điệu của các khúc hát dân gian. Một chút buồn thoáng qua của con người trước cảnh vật:
Chim kêu ghềnh đá gẫm thân thêm buồn
Một tình cảm thành kính dâng lên cha mẹ:
Tôm rằn bóc vỏ bỏ đuôi
Gạo de An Cựu mà nuôi mẹ già
Việc tìm kế sinh nhai nhưng người Quảng Trị luôn nhớ về quá khứ, nào công cha, nghĩa mẹ vô bờ bến, tình nghĩa vợ chồng keo sơn, gán bó dù sông cạn đá mòn:
Mẹ thương con qua cầu Ái Tử
Vợ trông chồng lên núi Vọng Phu
Một mai bóng xế trăng lu
Con ve kêu mùa hạ biết mấy  thu gặp chàng
Tiếp xúc với ca dao – dân ca Bình Trị Thiên, ta thấy có nhiều cách biểu đạt khác nhau về những khía cạnh tinh tế, phức tạp của tình cảm con người. Có bài ca dao hết sức mộc mạc, mộc mạc như là lời ăn tiếng nói hàng ngày, diễn đạt một tiếng long cũng hết sức giản dị, chân thực:
Đôi ta thương chắc mần ri
Bọ mẹ mần rứa, eng thì mần răng?
Có trường hợp là một tiếng nói mạnh mẽ, quyết liệt đấu tranh cho một nguyện vọng, một ước mơ một sự trọn vẹn của nghĩa tình.
Thiếp thương chàng gươm vàng không sợ
Súng bắn chin, mười lần duyên nợ không buông.
Chẳng thà chịu tiếng cho luôn
Gươm trường kề cổ không buông nghĩa chàng.

Ai về Bích La Đông khỏi lòng đau xót ruột
Ai về An Hoà khỏi hậm hực thù Tây
Mồ mả cha ông hắn cho xe xới, xe cày
Bao nhiêu oan hồn nước mắt nghĩ lại trăm đắng nghìn cay căm thù.

- Bánh cả mâm răng gọi là bánh ít
Trầu cả chợ răng nói trầu không
Trai nam nhơn đối đặng sẽ làm chồng nữ nhi
Chuối không qua Tây răng gọi là chuối sứ ?
Cây không biết chữ răng gọi là thông ?
Nam nhơn đà đối đặng quyết làm chồng nữ nhi

Trong lời hò đối đáp, lối ứng xử thật thông minh:
Ngồi buồn nói chuyện trên non
Một trăm thứ cá có con không thằng
Khi chọc ghẹo nhau vẫn giữ lối văn nhã:
Em mở khuôn ra cho anh đúc lấy lượng vàng
Hoạ may may hoạ thiếp với chàng dùng chung
Anh về thưa với hai họ rõ ràng
Mời thân nhân lại, em mở khuôn vàng cho coi
Quảng Trị là vùng đất thành lập sau khi nước ta đã định hình hàng nghìn năm trước. Văn học dân gian vùng này là sản phẩm của những con người có gốc từ Thanh Nghệ truyền vào. Qua cuộc sống chung với dân bản địa ở vùng đất mới, dần dần con người  ở đây mới tạo được một phong cách riêng. Sự giao lưu văn hoá thế tất phải xảy ra. Ca dao là thể loại để lại những dấu vết rõ rệt trong ngôn ngữ văn học

Truyện truyền thuyết - Cổ tích - Truyện trạng


Truyền thuyết ở Quảng Trị phong phú, những truyền thuyết về tên đất, tên làng, và kể lại sự nghiệp của những người có công khai sinh ra làng xã là khá phổ biến trong dân gian. “Nguồn gốc Câu Nhi”, “ Nguồn gốc Như Lệ” là hai truyền thuyết tiêu biểu giải thích làng xã Quảng Trị.
 
Các truyền thuyết về đền- tháp- miếu- chùa  như “Sự tích tháp Dương Lệ và tháp Trung Đan”, “ Đề Tương Hầu”, “ Miếu Tương Nghè”…đã vẽ lại một giai đoạn lịch sử lâu đời lúc thần linh còn ngự trị khá sâu sắc trong tư tưởng của nhân dân.. Qua các truyền thuyết đó, ta thấy được lòng tôn trọng văn hoá, biết ơn những vị có công với đất nước, quê hương
Truyện cổ tích 
 Mang một nội dung khác. Đó là những chuyện phản ánh tâm tư, nguyện vọng của con người, đề cập đến những tình cảm riêng tư trong sinh hoạt cá nhân, gia đình và xã hội. Hệ tư tưởng nho giáo có ảnh hưởng sâu sắc trong các truyện cổ. Nhiều truyện nêu bật các đức tính chung thủy, hiền hậu, đảm đang, cần kiệm. Truyện” Vác mía tìm dâu”, “Tình mẹ con” có mục đích khuyến dụ thanh niên nam nữ giữ gìn và phát triển những đức tính ấy để bảo vệ tình cảm, đạo đức trong cuộc sống gia đình. Truyện” Vợ làm quan cho chồng” đề cao người vợ khôn ngoan cũng là truyện có khuynh hướng đạo lý… Có thể nói các truyện cổ tích dân tộc kinh tại  vùng đất Quảng trị dù phương thức diễn đạt khác nhau, có truyện mang tính thần kỳ, có truyện mang tính khôi hài… nhưng nhìn chung xu hướng trong các truyện cổ là đe cao đạo lý làm người.
So với truyện cổ dân tộc kinh thì truyện cổ miền núi Quảng Trị phong phú hơn. Một số truyện cổ tích có tính suy nguyên luận như “ Sự tích sao hôm sao mai” (Tà ôi), “ Tình nghĩa gà vịt” (Vân kiều)…phản ánh sinh hoạt xã hội, có mục đích khuyến giáo đạo lý làm người, đề cao sự chung thuỷ, phê phán những hạng xảo trá, lừa đảo trong quan hệ gia đình, xã hội. Truyện cổ tích thần kỳ miền núi khá hấp dẫn ở những yếu tố người thần, vật thần. Truyện “Con voi thần” hấp dẫn ở nội dung độc đáo, thể hiện sự chất phác cùng sự dung dị trong nếp sống, nếp nghĩ của dân tộc miền núi.
Tư tưởng bao trùm lên các truyện cổ là điều thiện thắng điều ác, tình yêu chung thuỷ luôn được đề cao, những kẻ thống trị tàn bạo luôn bị lên án, cuối cùng bị trừng phạt. Nghệ thuật xây dựng truyện được cấu trúc trên hai tuyến nhân vật chính diện và phản diện, từ đó chủ đề truyện được bộc lộ.
Trong kho tàng truyện kể Quảng Trị, truyện cười cũng chiếm số lượng lớn và vô cùng phong phú. Đặc biệt vùng đất Như Lệ khô cằn lại tập hợp một khối lượng truyện cười đáng kể. Đáng chú ý hơn cả là truyện Trạng Vĩnh Hoàng. Nghệ thuật kể truyện Trạng Vĩnh Hoàng tuy cũng dùng biện pháp khoa trương, phóng đại, nhưng dựa trên cơ sở  hiện thực như chuyện "Trâu đen trâu bạc" là để phóng đại dưa hấu ở Vĩnh Hoàng, chuyện "Mắc cọp mà cày" là để phóng đại việc người Vĩnh Hoàng ngày trước đi cày rất sớm và vùng này cũng nổi tiếng có nhiều cọp như ở Thuỷ Ba. Về phương thức phóng đại, người Vĩnh Hoàng không dùng lối trực tiếp mà diễn tả bằng lối gián tiếp. Để chỉ quả dưa khổng lồ, họ không so sánh quả dưa đó với vật thể nào mà diễn đạt một cách thông minh hơn: dưa mà đạn bắn vào mắc kẹt không ra được, cả đàn quạ chui vào ruột khoét dưa ăn, rồi mang cả dưa lẫn quạ bay lên cao.
Truyện Trạng Vĩnh Hoàng đã nêu bật được bản sắc độc đáo của con người Việt Nam ở Vĩnh Hoàng. Tuy là truyện Trạng nhưng vẫn có một giá trị hiện thực. Đây không phải là những truyện bông lơn, nói láo một cách hời hợt dễ dãi mà xây  dựng từ những thành quả lao động và chiến đấu. Giá trị ấy cần phải được khẳng định khi xét đến mối tương quan của nó với các loại truyện khác như Trạng Quỳnh, Trạng Lợn...
Ngoài ra, một loại truyện khác mang tính chất vui tươi, hài hước, thú vị và nhẹ nhàng là các giai thoại dân gian. Phần lớn những giai thoại này xuất phát từ những cuộc hò đâm bắt, hò môi miếng. Có những giai thoại tập trung vào một nhân vật như thợ Thiềm. Thợ Thiềm được lưu truyền trong dân gian nhờ tài năng, sự thông minh nhanh nhẹn trong cuộc hò đối đáp, nhưng nhiều lúc, thợ Thiềm cũng phải chịu thua trước nữ nhi.
  Tục ngữ - Câu đố
Tục ngữ và câu đố là hai thể loại suy lý phổ biến ở Quảng Trị . Cũng như ở các nơi khác, tục ngữ Quảng Trị được phân làm hai tiểu loại: Các câu phản ánh kinh nghiệm của nhân dân về thời tiết và sản xuất. Các câu phản ánh kinh nghiệm của nhân dân về đời sống xã hội. Đây là phần quan trọng nhất là mọi người cần quan tâm khi viết về đề tài ca dao- tục ngữ
 
Nhìn chung, kinh nghiệm của nhân dân ở đau cũng tương tự như nhau. Ở Quảng Trị có những câu tục ngữ phản ánh kinh nghiệm của nhân dân về thời tiết như sau: Chớp ngã Cồn Tiên; Mưa liền một trộ; hoặc : Sấm Đầu mâu không cầu cũng đến.
Lại có những câu đề cập đến sản vật đặc biệt của từng địa phương. Chính qua những câu tục ngữ này, chúng ta lại càng hiểu sâu sắc hơn văn hoá vật chất của vùng đất Quảng Trị:
-Nem chợ Sãi, vải La Vang
-Khoai quán Ngang, dầu tràm Đại Nại
-Gạo Phước Điền, chiêng Sắc Tứ
- Khoai từ Trà Bát, quạt chợ Sông
-Cá bống Bích La, gà Trại Lộc...
Kinh nghiệm về đời sống xã hội có những câu thật xác đáng và thực tế:
-Chạy lóc xóc không bằng góc vườn
-Nhiều nghề cá trê húp nác(nước)
Người miền núi cũng bày tỏ kinh nghiệm của họ:
- Đừng mau phai như hoa Toang-a-rát
- Đừng chóng bạc như vôi
- Xách bầu phải xem quai
- Địu con phải xem vải buộc
- Làm cỏ phải xem cán nắm
Về hình thức nghệ thuật, các câu tục ngữ ở Quảng Trị thường hợp vần theo lối yêu vận chứ không theo lối cước vận.
Câu đố Quảng Trị có thể phân thành những tiểu loại:
-Về những bộ phận cơ thể của con người
-Về những hoạt động của con người
-Về các con vật
-Về các loại cây trái
-Về các sự vật hiện tượng khác.
Qua những câu đố ấy, ta thấy được sự tinh vi trong những nhận xét về sự vật, con vật sống cạnh người, như đố về con gà trống:
Đầu rồng, đuôi phụng cánh tiên
Ngày năm bảy mụ tối ngủ riêng một mình.
Hoặc con chó :
Khen ai nho nhỏ
Mắt tỏ như gương
Tối trời như mực
Biết người thương ra chào
Có nhiều khi sự liên tưởng vô cùng sâu sắc. Đố về cau, trầu, vôi có câu:
Hai cây cao đã nên cao
Một người dưới rào xa đã nên xa
Ba người họp lại một nhà
Kết duyên phu phụ duyên đà mặn duyên
Có thể nói sự thông minh dí dỏm, óc nhận xét tinh vi của người Quảng Trị đều được thể hiện trong câu đố:
Da non mà bọc lấy xương
Lửa cháy trên đầu chúa chẳng thương
Đêm năm canh tiêu hao mình thiếp
Nghĩ đến đoạn trường nước mắt nhỏ sa
( Cây đèn sáp)
Một mẹ sinh đặng ngàn con
Trai có gái có , tài khôn rõ ràng
Mặt trời đã xế vàng vàng
Con xa ngái mẹ lại càng thương thay
Cách nhau đã bốn năm ngày
Con lại gặp mẹ mừng thay là mừng
(Phiên chợ Cam Lộ)
Một số câu đố khác theo lối "đố tục giảng thanh" cũng thường được nhân dân Quảng Trị vận dụng để sáng tác.

Hò vè 

Hò địch vận ở Như Lệ vốn là biến điệu của hò mái nhì nhưng vang xa như tiếng ngân vút cao mạnh mẽ phát ra từ con tim yêu nước nồng nàn. Tiếng hò Như Lệ là nét độc đáo trong dân ca kháng chiến Quảng Trị, nó đã phát huy tác dụng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Vè là một thể loại kể chuyện bằng văn vần phổ biến ở Quảng Trị, phát triển mạnh vào thế kĩ XIX. Vè Quảng Trị cũng như các nơi khác, phần lớn là những bài có dung lượng vừa phải được sáng tác theo thể lục bát, hoặc tứ tự, song thất lục bát. Một số bài nổi bật với nội dung mang tính xã hội sâu sắc. Đó là loại vè thế sự. Vè "Mẹ Hẹ" là một sáng tác độc đáo. Hình thức sáng tác gần như lối thoại kịch với lời đối đáp của hai nhân vật: cô Hẹ và quan huyện. Nội dung bài vè kể lại câu chuyện cô Hẹ vào tuổi xuân tình phơi phới đã bị quan huyện lừa phỉnh. Sau khi để lại một bầu thai cho cô Hẹ, quan huyện ấy đã tàn nhẫn đuổi cô Hẹ ra khỏi nhà. Cô Hẹ nuốt hận trở về nhà mẹ. Sau khi sinh nở, thấy cô vẫn còn xuân sắc, quan huyện lại giở trò tán tỉnh. Cô đã vạch trần thói bạc tình, bạc nghĩa của tên quan này bằng một ngôn ngữ cay chua, mang sắc thái địa phương đậm đà mà không phải bài vè nào cũng thể hiện được.

Xoay quanh thể loại này có những giai thoại mà mỗi khi quây quần bên ấm chè xanh hoặc đôi phút giải lao nơi đồng áng thường được người dân truyền tụng. Chuyện ông Bộ ở làng Gia Độ và O Thơi ở làng Xuân Thành là một trong số đó. Ông Bộ là người nho nhã, có vốn nho học. Tuy đã có gia đình nhưng lại rất say mê hò hát. Còn O Thơi là một gái chưa chồng, tài sắc vào đám nhất vùng thời ấy. Một hôm, gặp O Thơi quang gánh di chợ qua cánh đồng giáp hai làng, ông Bộ nổi hứng cất câu hò:
“ Buôn bán chi chi rày lời mai lỗ, vất quách thúng rỗ theo anh. Một mai công toại danh thành, ta ngồi chung kiệu hành đó đây”
Không hề chần chừ nghĩ ngợi lâu, O Thơi cất giọng hò đối lại ngay lập tức:
“ Chữ thánh hiền dược mấy pho mấy bộ, dám huênh hoang xuất lộ vi hành? Một mai đỗ đạt thành danh, đã có O Tam thể nó đợi anh kết nguyền”
Ông Bộ đỏ mặt vì câu hò cay độc. Ai đời đường là một đấng trượng phu ra rứa lại cho rằng chỉ có con mèo tam thể mới lấy anh!
Vẫn cái máu mê gái lại mê hò, một hôm vợ ông Bộ chuyển bụng sắp sinh, nhà lại hết dầu, vợ ông bảo ông xuống chợ mua dầu. Vừa ra đến đầu ngõ gặp cô Thơi đang đang mò cá. Hai người đối đáp đến nổi quên cả mặt trời đã xuống núi. Bỗng ông Bộ cất lên một câu hò trêu chọc rằng:
“ Cảm thương cho Em sớm thì lăn đồng cạn, chiều lại lặn đồng sâu. Con tôm con tép liệu được mấy đồng xu”.
O Thơi hò đáp lại:
“ Chứ làm ra năm trự mười đồng, trước ngon cơm anh sau lành áo mẹ để tỏ tấm lòng nàng dâu”
Cũng cần đề cập thêm một nội dung khác cũng khá phong phú của vè Quảng Trị, đó là vè kháng chiến. Cuộc kháng chiến chống ngoại xâm kéo dài bao nhiêu năm trên đất Quảng Trị khô cằn là đề tài cho hàng trăm bài vè phản ánh những nỗi khổ cực của người dân trong cuộc chiến tranh xâm lược, nêu bật tinh thần chiến đấu ngoan cường của nhân dân ở một vùng đất có truyền thống đấu tranh.
 Bao năm tháng qua, văn học dân gian Quảng Trị đã sống cùng nhịp sống của dân tộc bằng tiếng nói hồn hậu, trung thực của mình, ngân vang bằng giọng hò thiết tha, trìu mến thân thương cho đến ngày nay.
 Nguồn inter...
TỤC NGỮ- THÀNH NGỮ & CÂU ĐỐI   
- CÂU ĐỐ DÂN GIAN Quảng Trị 

TỤC NGỮ-  THÀNH NGỮ QUẢNG TRỊ:
- Đất Trung An, gan Mai Xá, Đá Hảo Sơn
- Nem chợ Sãi, vải La Vang
- Khoai quán Ngang, dầu tràm Đại Nại
-Gạo Phước Điền, chiêng Sắc Tứ
- Khoai từ Trà Bát, quạt chợ Sông
- Cá bống Bích La, gà Trại Lộc...
 

- Muốn dòm l...  qua cồn Nhỉ Hạ.

- Chạy lóc xóc không bằng góc vườn

- Nhiều nghề cá trê húp nác (nước)

- Mua heo lựa nái, cưới gái lựa dòng

- Miếng thịt làng bằng sàng thịt chợ

- Lợi thì nuôi heo nái, hại thì nuôi bồ câu

- Mua trâu lại sẹo, mua heo lại rọ

- Khôn cho người ta dái - dại cho người ta dờ

- Nước đổ trốoc vịt

- Xỉa cá mè dè cá chép.
- Đất nặn nên bụt
- Một lần thì kín, chín lần thì hở.

- Đừng mau phai như hoa
- Đừng chóng bạc như vôi
- Xách bầu phải xem quai
- Địu con phải xem vải buộc
- Làm cỏ phải xem cán nắm

- Cò ăn ruộng sâu thì nắng

- Cò ăn ruộng cạn thì mưa

- Công cấy thì bỏ, công làm cỏ thì ăn

- Chớp ngã Cồn Tiên, mưa liền gặp trộ

- Đừng mau phai như hoa Toang-a-rát - Đừng chóng bạc như vôi
- Xách bầu phải xem quai
- Địu con phải xem vải buộc
- Làm cỏ phải xem cán nắm .
- Rậm người hơn rậm của

- Khun ba năm không ai biết

- Dại một giờ bạn hay

- Ăn như phát tấu.

- Chạc đa cổ trối
- Tào lao dịch bọp

- Trầy vi, trốc vảy

- Cha hồ chú dẫn

- Ăn như mỏ koét
- Chửi cha chém chú đ.. chị dâu

- Thiên hồ địa dẫn

- Nắng hui hui thui con nít

- Ngó bằng mắt chớ phắt bằng tay

- Đi cúi tai về cúi trốôc

- Mần quan đi ngày ăn mày đi sáng

- Đày mần kép, hẹp mần đơn

- Ít nghé rệ rèo

- Nhà giàu lôông lau ra lo, Kẻ khó lôông ló ra lau

- Ăn mày không tày chự bị

- Cấy trong làng như vàng trong tráp 

- Tháng chiêng nam tố lại 

- Tháng bởi ngó ra, tháng ba ngó vào

- Trốôc cá chang, gan cá nghéo

- Nhất gan cá nghéo nhì gan cá thiều

- Cá bống kho khô, cá rô kho ngọt

- Cá bớp tháng bơ như thịt ca tháng mười 

- Làm cả năm không bằng trộ xăm tháng tám 

- Lắm cá, bá nhọoc

- Ruốc đỏ, cá đen ngó queng  mới biết

- Chạy buồm coi gió, ngó luồng buông lái 

- Khơi: Thu, ngừ, nục ; Lộng: ve, đục, xòe

- Cà lơ cà lắc  bú c..  ốong  tre 

-  Đã mất lả  lại mất cả tro.

- Thuốc đắng đã tật, nói thật mất lòng

- Khun ngoan tới cựa quan mới biết , giàu có bọ mạ chết mới hay

- Mần rọong theo làng, Bán hàng theo chợ

- Chết lạ mới biết mói ngon

- Cơm với cá, như mạ với con

- Ngon cá, khá cơm

- Vảy cá hơn rá rau

- Đắt cá hơn rẻ thịt

- Ăn cơm không cá như vại má không có trưa

- Cá bống kho tiêu, cái thiều kho ớt     

- Mùa nắng cá sông, mùa đông cá biển

- Ruốc tháng sáu máu rồng

- Cá đối tháng bảy, cá gáy tháng mười



- Đập đất nhỏ, luống đánh to

Xung quanh rắc đậu, trồng ngô xen vào

- Đói thì ăn môn ăn khoai

Đừng thấy ló lỗ giêng hai mà mừng

-Trăng rằm đã to lại tròn

Khoai lang đất cát đã ngon lại bùi

- Xứ Cùa đất đỏ ba dan

Ai ơi trồng mía làm giàn thả tiêu

- Liệu cơm mà gắp mắm ra

  Liệu cựa liệu nhà mà gả con vô

- Đi buôn bữa lỗ bữa lời

Ra câu giữa vời bữa có bữa không

- Ai ơi chớ lấy học trò

Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm

- Khoai lang cổ bở cổ trân

Làm rễ họ Trần cực lắm ai ơi

- Bỏ công múc nước đường xa

Có trong thì múc, ngà ngà thì thôi

- Sui gia là bà con tiên

Ăn ở không hiền là bà con quỷ

-Tháng bảy nước tới ngợp bờ

Sắm đáy, sắm rớ đợi chờ mần ăn

- Nguyên chất nước mắm nục mồng

Một thìa giá trị bằng mâm cỗ đầy…

- Cá thiều mà nấu măng chua
Một chút canh thừa cũng chẳng bỏ mô

- Muối mà rang với ruốc khô
Có chết duối mồ cũng dậy mà ăn

- Cá dở thì hấp hành tươi

Cá ngứa thêm nấm, cá buôi thêm ngò

- Ba đồng một khúc cá buôi
Cũng mua cho được để nuôi mẹ già

CÂU ĐỐI - CÂU ĐỐ DÂN GIAN 
Câu đối :

Văn vận tuột quần Văn vận vận
Bích La đau bụng Bích La la   

Cam Lộ buôn cam, Cam Lộ Lộ
Bích giang không nón, Bích giang giang

Tân Trúc trồng tre, thở hoi hóp
Đông Hà xúc hến hát ngêu ngao

Câu đố:

Hai người ở hai buồng
Ngó đi nhìn lại như tuồng cấm cung
Đêm về sập cửa thả chông
Ngày thì vòi vọi đứng trông nhau hoài
(Hai con mắt)

Gặp nhau đây bất luận đêm ngày
Lật ra xem thử lỗ này ở đâu
Đâm vô thì rút ra mau
Đừng để trung nớ mà đau lòng nàng
Rút ra máu chảy tràn lan
Khi nớ duyên thiếp, nợ chàng ngái xa
(Đạp gai)

Họ hàng chỉ sống trên non
Tìm cây hút nhụy nuôi con tháng ngày
Không may lửa dậy khói bay
Thảm thương ấu tử sống rày thác mai
(Tổ ong bị đốt)

Cây xanh mà lá cũng xanh
Dầm mưa dãi nắng theo anh võ vàng
Một mai lửa đỏ thành than
Mây bay khói lượn truớc mặt chàng, chàng ơi

Mình rồng đuôi phụng le te
 Mùa xuân ấp trứng mùa hè sả con

Đầu rồng, đuôi phụng cánh tiên
Ngày năm bảy mụ tối ngủ riêng một mình.
Khen ai nho nhỏ
Mắt tỏ như gương
Tối trời như mực
Biết người thương ra chào
Hai cây cao đã nên cao
Một người dưới rào xa đã nên xa
Ba người họp lại một nhà
Kết duyên phu phụ duyên đà mặn duyên
Da non mà bọc lấy xương
Lửa cháy trên đầu chúa chẳng thương
Đêm năm canh tiêu hao mình thiếp
Nghĩ đến đoạn trường nước mắt nhỏ sa
( Cây đèn sáp)

Một mẹ sinh đặng ngàn con
Trai có gái có , tài khôn rõ ràng
Mặt trời đã xế vàng vàng
Con xa ngái mẹ lại càng thương thay
Cách nhau đã bốn năm ngày
Con lại gặp mẹ mừng thay là mừng
(Phiên chợ Cam Lộ)

Cây xanh mà lá cũng xanh
Dầm mưa dãi nắng theo anh võ vàng
Một mai lửa đỏ thành than
Mây bay khói lượn truớc mặt chàng, chàng ơi
Đầu ni e trốong, đầu tê e trốong.

CA DAO- DÂN CA .
GIỌNG HÒ NHƯ LỆ. 

Thơ ca dân gian Quảng Trị nội dung phong phú và đậm sắc thái bản  địa trong biểu hiện tâm tình và phản ánh đòi sống , con người , thiên nhiên đặc trưng ở Quảng Trị , đồng thời đa dạng trong thể loại và hình thức thể hiện (phương thức hát xướng ). Ngoài nhiều điệu lý, điệu hò là di sản chung của Quảng Trị - Thừa Thiên , Quảng Trị có những điệu dân ca riêng biệt của mình : hò đập bắp, hò dô hậy (hô giang hậy), hò Hải Thanh (hò Như Lệ), hò mái nhì Triệu Hải (một điệu hò trên cạn), hò giả gạo Gio Linh , hò đâm bắt ... , đặc biệt vè là một hình thức sinh hoạt văn hóa phổ biến rộng khắp các thôn xóm với  đặt vè , kể vè , nói vè ... Bước đầu một  số bài CA DAO- DÂN CA Quảng Trị , tạp chí mong nhận được thêm nhiều câu ca, bài vè dân gian Quảng Trị từ những độc giả sinh thành nơi đây. 
Bà Ngô Thị Huế ở thôn Như Lệ, xã Hải Lệ (Hải Lăng, Quảng Trị), người giữ lửa cho  điệu hò Như Lệ( ảnh  trên)

CA DAO- DÂN CA

Mẹ thương con qua cầu Ái Tử
Vợ trông chồng lên núi Vọng Phu
Một mai bóng xế trăng lu
Con ve kêu mùa hạ biết mấy  thu gặp chàng
*
Thiếp thương chàng gươm vàng không sợ
Súng bắn chin, mười lần duyên nợ không buông.
Chẳng thà chịu tiếng cho luôn
Gươm trường kề cổ không buông nghĩa chàng.


Đôi ta thương chắc mần ri
Bọ mẹ mần rứa, eng thì mần răng?

Thiếp thương chàng gươm vàng không sợ
Súng bắn chin, mười lần duyên nợ không buông.
Chẳng thà chịu tiếng cho luôn
Gươm trường kề cổ không buông nghĩa chàng.

Về Bích La Đông khỏi lòng đau xót ruột
Ai về An Hoà khỏi hậm hực thù Tây
Mồ mả cha ông hắn cho xe xới, xe cày
Bao nhiêu oan hồn nước mắt nghĩ lại trăm đắng nghìn cay căm thù.

Chập choạng bóng trăng em xem chưa rõ
Chập choạng bóng đèn em ngó chưa tường
Dáng ai như dáng người thương
Không vô đây phân giải một đôi đường cho em hay

Thốt ra tới đâu dạ thiếp sầu tới đó
Cuộc chung tình chàng chưa rõ bấy lâu
Vì ai xê vô lật ván tháo cầu
Trai say dọi gái, gái thảm sầu dọi duyên.

Ai về Đông Hà, ai qua Cam Lộ
Ai về Gia Độ, ai đến Gio Linh
Ai về Triệu Phong Quảng Trị quê mình
Cho em nhắn gởi chút tình nhớ thương

Ai về Bích La Đông khỏi lòng đau xót ruột
Ai về An Hoà khỏi hậm hực thù Tây
Mồ mả cha ông hắn cho xe xới, xe cày
Bao nhiêu oan hồn nước mắt nghĩ lại trăm đắng nghìn cay căm thù.

Em trao cho anh một nắm bắp rang
Anh trỉa làm sao cho mọc, thiếp với chàng trao duyên
Đồn bên em có miếng đất hoang
Mưa ba năm không ướt, hạn chín tháng nỏ khô
Đến đây anh trỉa, trỉa vô mọc liền
Thiếp trao cho chàng một nắm ngô rang
Chàng đúc nơi mô cho mọc thiếp thắp nhang mời về
Chỗ nào mà nắng không khô
Mà mưa không ướt đúc vô mọc liền

O tê o đứng bên cồn
Tui dôi hột mít trít l... o đi .
* Đưa anh tới chốn nhà Hồ,Anh mua trái mít, anh bù trái thơm. 

Trái thơm là trái thơm non,
Bổ ra làm tám ăn chon như dừa.
(chon: dòn)



Chẳng thơm cũng thể hương đàn, 
Không trong cũng nước nguồn Hàn chảy ra

Thương em, anh cũng muốn vô.
Sợ truông nhà Hồ, ngại phá Tam Giang,
Phá Tam Giang ngày rày đã cạn,
Truông nhà Hồ, nội tán phá tan.

Chẳng thơm cũng thể bạch đàn,
Nước Đá Hàn hòa trong hòa mát,

Ru em, em théc* cho muồi,
Để mẹ đi chợ, mua vôi ăn trầu,
Mua vôi chợ Quán chợ Cầu,
Mua cau Nam Phổ, mua trầu chợ Dinh.

*théc: ngủ

Trăm năm dù lỗi hẹn hò
Cây đa bến cộ con đò khác đưa.
Cây đa thưở trước còn lưa,
Con đò đã thác năm xưa tê rồi.

Hết gạo thì có Đồng Nai
Hết củi thì có Tân Sài(*) chở vô
(Tân Sài(*)

:* Tân Sở, Quảng Trị )
                     *
Ví dù đèn tắt thì đã có trăng
Cực em em chịu biết mần răng đặng chừ

Muốn ăn bánh ít lá gai
Lấy chồng Quảng Trị sợ dài đường đi.

Ba đồng một khúc cá buôi
Cũng mua cho được để nuôi mẹ già

Liệu cơm mà gắp mắm ra
Liệu cựa liệu nhà mà gả con vô

Khun ba năm không ai biết
Dại một giờ bạn hay

Đi buôn bữa lỗ bữa lời
Ra câu giữa vời bữa có bữa không

Ai ơi chớ lấy học trò
Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm

Khoai lang cổ bở cổ trân
Làm rễ họ Trần cực lắm ai ơi

Bỏ công múc nước đường xa
Có trong thì múc, ngà ngà thì thôi

Sui gia là bà con tiên
Ăn ở không hiền là bà con quỷ

Đập đất nhỏ, luống đánh to
Xung quanh rắc đậu, trồng ngô xen vào

Đói thì ăn môn ăn khoai
Đừng thấy ló lỗ giêng hai mà mừng

Trăng rằm đã to lại tròn
Khoai lang đất cát đã ngon lại bùi

Xứ Cùa đất đỏ ba dan
Ai ơi trồng mía làm giàn thả tiêu

Khi con thức Mẹ cho con bú
Khi con lú Mẹ lại ru hời

Nuôi con cực lắm con ơi
Chỉ mong cho con lưng dài vai rộng
Để lấp biển vá trời như ai !

Em nghe anh đau đầu chưa khá
Em đây băng đồng chỉ sá bẻ nạm lá qua xông
Ước làm sao cho nên đạo vợ chồng
Đổ mồ hôi ra em chặm
Lại ngọn gió lồng em che

Ru hời ru hỡi là ru
Bên cạn thời chống bên su thời chèo

Xây thành đắp lũy trên non
Cắm hoa dưỡng nước nuôi con tháng ngày
Một mai lửa dậy khói bay
Con ơi ! Mẹ không biết sống rày thác mai

Ơn cha ba năm báo bổ
Nghĩa mẹ chín tháng cưu mang

Bên ướt Mẹ nằm bên ráo con lăn
Lấy chi trả nghĩa sinh thành
Lên non tạc đá xây lăng phụng thờ
Tháng bảy nước tới ngợp bờ
Sắm đáy, sắm rớ đợi chờ mần ăn

Cá thiều mà nấu măng chua
Một chút canh thừa cũng chẳng bỏ mô

Muối mà rang với ruốc khô
Có chết duối mồ cũng dậy mà ăn

Cá dở thì hấp hành tươi
Cá ngứa thêm nấm, cá buôi thêm ngò

Nguyên chất nước mắm nục mồng
Một thìa giá trị bằng mâm cỗ đầy…

Khoai to vồồng thì tốt cổ (vồồng=luống; cổ=củ)
Đậu ba lá thì vừa un (un=vun=đắp)
Gà mất mẹ thì lâu khun(khun=khôn)
Gái thiếu trai thì thậm khổ
Trai thiếu gái cũng thậm khổ !
Trời sinh voi thì sinh cỏ
Trời sinh giếng thì sinh mo (mo cau múc nước)
Trời sinh sông thì sinh đò
Trời sinh O thì sinh tui (o=cô)
O một mình cũng khôn đặng(khôn=không)
Tui một mình cũng khôn đặng
Gió ngoài biển hắn dồn vô
Mây trên trời hắn cuốn lại
O với tui cùng cuốn lại
Hai đứa mình cùng cuốn lại…

Dị bản :
Khoai to vôồng thì tốt củ
Độ ba lát thì vừa khuôn
Gà mất mẹ lâu khun
Gái không chồng thì lận đận
Trai không vợ cũng lận đận
Con người ta nho nhỏ bằng hột độ
Mà đã có lứa có đôi
Còn tuii nì to như ông Thiên Lôi
Mà ôông tơ hồng chưa có chỗ
Mà mụ tơ hồng chưa có chỗ

O ơi O đừng lo
Trời sanh voi thì sanh cỏ
Trời sinh giếng thì sinh mo
Trời sinh sông thì sinh đò
Trời sanh O thì sanh tui
Như tui nì không biết O ở mô
Mà O cũng không biết tui ở nơi mô
Sóng ngoài biển mà dồn vô
Mây trên trời mà cuộn lại
Cuộn lại thì sao nữa O hè . . .






Hò đối đáp:

Ai đứng ngoài đường cho muỗi cắn ho kêu
Vô đây phân giải đôi điều cho vui

Chào lê chào lựu chào đào
Ai xa chào trước ai gần chào sau
Chào bên nam mất lòng bên nữ
Chào người quân tử sợ dạ thuyền quyên
Cho anh chào chung một tiếng kẻo chào riêng khó chào

Ai có chồng thì khuyên chồng đừng sợ
Ai có vợ thì xin vợ đừng ghen
Ra đây ta hò hát cho quen
Rạng ngày ai về nhà nấy…
Khá thể ngọn đèn hai tim

Nữ: Đố anh chi sắc hơn dao
Chi sâu hơn biển, chi cao hơn trời

Nam: Con mắt em sắc hơn dao
Lòng sâu hơn biển, trán cao hơn trời

Nữ: Bánh cả mâm răng kêu bánh ít
Trầu cả chợ răng gọi trầu không
Ai mà đối đặng làm chồng nữ nhi

Nam: Chuối không đi tây răng kêu chuối sứ
Cây không đi học răng kêu cây thông
Anh đã đối đặng em theo chồng về mau

Nữ: Nghe anh thuộc sách Kinh Thi
Hỏi anh con cá nằm dưới cỏ gọi là con cá chi rứa anh hè

Nam: Anh đây thuộc sách Kinh Thi
Con cá nằm dưới cỏ anh nghĩ là con cá tràu

Nữ: Em như bông sen trong hồ
Các anh như bèo như bọt nhìn chi được cơ đồ nơi em

Nam: Nước lên cho sóng cuộn theo
Cho sen chìm xuống bèo trèo lên trên

Nữ: Em đây như con rồng vàng
Chín tầng mây phủ nằm ngang giữa trời

Nam: Anh đây có phép thần thông
Vén mây cỡi gió bắt con rồng coi chơi

Nữ: Em đây như chiếc chuông vàng
Treo trong thành nội có hàng ngàn quân canh

Nam: Quân canh dù mấy chục ngàn
Dùi chiêng anh mang sẵn, anh nện chuông vàng đứt đôi

Kiến bò cột sắt sao mòn
Con vò vò xây tổ sao tròn mà xây
Kiến bò cột sắt thành đàn
Con vò vò xây tổ khám vàng cũng xây

Thương thay các cậu chự bò
Cái lưng môốc thếc thếc
Bộ giò đen thùi thui
Em về dở sách ra dò
Cha em lúc trước cũng chự bò như anh

Trai không vợ như chợ không đình
Mưa dông một trộ ghé mình vào đâu

Trai chưa vợ lo phò vua vệ quốc
Chợ không đình tại thợ mộc suy vi
Sao không lo phận thiếp lại đi hỏi chàng

Anh ra chi mỗi tháng mỗi ra
Cực lòng em lắm mẹ cha hỏi hoài

Anh ra ba em cũng ra
Anh còn sống, ông cụ thác xuống ngã ba mất rồi

Tiếng đồn em học hết sách quốc ngữ, hết chữ Kinh Thi
Con bò cái đi trước, con bò đực đi sau, 

nó cười chi rứa eng hè
 

Anh học hết sách quốc ngữ, hết chữ Kinh Thi,
con bò cái đi trước, con bò đực đi sau 
nó cười nó cọ, nó đo-u 
sao thiếp không biết lại đi hỏi chàng

Liệu bề đát được thì đan
Chớ đừng đan rồi để đó mà thế gian chê cười
Anh đây đan cũng giỏi, đát cũng tài
Lận thì đè côi đè xuống, còn nức thì xỏ ngoài xỏ vô
Ra đường lại gặp anh Ba
Anh ở “trung nớ” anh ra răng chừ ? !!!
Anh ở trung nớ mới ra bựa qua
Cùng ra có cậu bên nhà kết nghĩa thầy trò
Anh nhanh chân anh tới trước còn cậu lò dò theo sau !!!
Anh làm thợ mộc khéo đã ra chi khéo
Đóng bức đố xéo đã ra chi tài
Răng không giơ cái lại chàng ra chắn mộng 

để thòi lòi mộng ra

Anh đã đưa cái lại chàng ra chắn mộng
Mà thầy mẹ bên nhà khoát khoát khoan khoan
Để khi đi về móc áo, lỡ chừng treo khăn

Em mua cho anh cái dù tám cóng
Dưới có mốc đồng
Răng anh không đội
Để đầu không rứa hè

Cái dù tám cóng dưới có cái móc đồng
Em đem về cho cha em đội cho nội em che
Phận anh là rễ đội nón tre quen rồi

Tiếng đồn em lấy chồng già
Đêm nằm em thấy ớt cà ra răng
Tre già còn dẻo hơn măng
Ớt cà tra có hột, chớ hơn thằng ớt tơ



Ngồi buồn nói chuyện trên non

Một trăm thứ cá có con không thằng



Em mở khuôn ra cho anh đúc lấy lượng vàng

Hoạ may may hoạ thiếp với chàng dùng chung



 Anh về thưa với hai họ rõ ràng

Mời thân nhân lại, em mở khuôn vàng cho coi

Nạn chiến tranh gây nên tang tóc
Cảnh điêu tàn chết chóc đau thương
Sơ tán ra đi mẹ một ngả con một đường
Chồng thời xa vợ những đau thương đêm ngày
 

Đứng bên ni Bình An, nhìn sang bãi Cát Sơn, Thuỷ Bạn
Ruột thắt từng chặng, muối xát vào lòng
Nào ai vui vợ vui chồng
Còn em nghĩ tới miền nam ruột thịt đang nhuộm vết máu hồng uất căm.

Bánh cả mâm răng gọi là bánh ít
Trầu cả chợ răng nói trầu không
Trai nam nhơn đối đặng sẽ làm chồng nữ nhi 



Chuối không qua Tây răng gọi là chuối sứ ?
Cây không biết chữ răng gọi là thông ?
Nam nhơn đà đối đặng quyết làm chồng nữ nhi

Ngồi buồn nói chuyện trên non
Một trăm thứ cá có con không thằng *
Thầy ơi chớ nói bao đồng
Một trăm thứ cọp có ông không bà
Khi chọc ghẹo nhau vẫn giữ lối văn nhã:
Em mở khuôn ra cho anh đúc lấy lượng vàng
Hoạ may may hoạ thiếp với chàng dùng chung



Buôn bán chi chi rày lời mai lỗ,

vất quách thúng rỗ theo anh.

Một mai công toại danh thành,

ta ngồi chung kiệu hành đó đây



Chữ thánh hiền dược mấy pho mấy bộ,

dám huênh hoang xuất lộ vi hành?

Một mai đỗ đạt thành danh,

đã có O Tam thể nó đợi anh kết nguyền



Cảm thương cho Em sớm thì lăn đồng cạn, chiều lại lặn đồng sâu.

Con tôm con tép liệu được mấy đồng xu .



 Chứ làm ra năm trự mười đồng,

trước ngon cơm anh

sau lành áo mẹ để tỏ tấm lòng nàng dâu
 Blog HTG  sưu tầm  10.2011


NHỮNG CÂU CA DAO VỀ MẸ  

Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau

Mẹ như một trận mưa rào
Tưới lên thửa đất xanh màu cỏ cây

Khi còn Mẹ bế trên tay
Con như cái trứng, lăn quay lăn tròn

Mẹ như bầu sữa thơm ngon
Cho con vang tiếng cười dòn trẻ thơ

Tuổi nào Mẹ hát ầu ơ
Ru con ngủ giấc ngọt lời ca dao

Mẹ như một bát canh rau
Cho con lớn dậy, hồng hào thịt da

Mẹ như trái bí trái cà
Như ơ cá bống mặn mà kho tiêu

Cho con như một cánh diều
Tung tăng bay lượng muôn chiều ấu thơ

Rồi con đi học i tờ
Mẹ như dòng mực nhỏ lời yêu thương

Chợ đời một nắng hai sương
Tóc xanh Mẹ đã trăm đường đắng cay

Mưa bay giọt vắn giọt dài
Mẹ như cái bóng tan ngoài sông xa

Mẹ như chiếc áo bà ba
Nắng mưa ròng rã nhạt nhòa Mẹ tôi

Sông sâu bên lở bên bồi
Mẹ như luống mạ xanh ngời đất đai

Mẹ như vồng sắn vồng khoai
Như con nước bạc chở đầy cá tôm

Bao giờ cây lúa trổ bông
Mẹ như con én bay vòng mùa xuân

Rồi như cây mắm cây bần
Theo con sông lớn mọc gần mọc xa

Mẹ như một dải phù sa
Mai sau sẽ mọc trái hoa dẫy đầy

Mẹ như cái hạc trong mây
Bay vào tịch mịch một ngày chớm thu

Ngoài đồng gió thổi vi vu
Con ra đứng ngóng, mù mù sương rơi

Chắp tay lạy khắp phương trời
Trời mênh mông quá, Mẹ tôi phương nào

CA DAO - TỤC NGỮ

Nhất thời Phú Ngạn làng ta
Thứ nhì Trà Bát,thứ ba Nhan Biều

Làm quan Hà Trung
Thầy cúng Nhĩ Thượng

Khun ăn mun với trú
Dại ăm cá mại với cơm

Văn chương Xuân Mỵ
Lý sự Thủy khê
Làm thuê Cẩm phổ
Đan rổ Phước Thị
Làm đị Lại An
Hò khoan Mai Xá
Mò cá Phường Hà

Ốc  gạo Thạch Hãn
Mật rú Bát Phường
Chén rượu Hà Trung
Mắm ruốc Cửa Tùng
Mắm nêm Chợ Sãi

Nem chợ Sãi
Vải La Vang
Khoai Quán Ngang
Nghệ Vàng An Lộng

Dầu tràm Đại Nại
Lụa Làng Diếu
Chiếu Lâm Buôn
Nón Cổ Thành
Chiêng Sắc Tứ

Gạo Phước Điền
Khoai Trà Bát
Quạt chợ Sòng

Cá bống Bích la
Gà Trà Lộc

Tôm đồng Mai Lĩnh
Gạch ngói Trí Bưu

Chợ Ngô Xá
Nón là Văn Quỹ ( Kẻ Văn)
Can cò bay lả bay la
Bay vô Cửa Việt, bay ra Cửa Tùng

Hết gạo thì có Đồng Nai
Hết củi đã có Tân Sài chở vô(1)

Ra Thanh bổ quế
Vào Nghệ tìm Sâm
Lên non ngậm ngãi tìm trầm
Đến ơn phụ mẫu đã lao tâm sinh thành  

Sông cửa Tùng vừa trong vừa mát
Đường Cát Sơn nhỏ cát dễ đi
Anh ơi xin nhớ điều ni
Dù xa ngàn dặm em ghi lấy lòng


Đi mô đi mấy thì về
Mồng 5 tháng 9 kỵ lề ông âm

Mã cha con bướm nó khôn
Hoa thơm nó đậu, hoa tàn nó bay

Bấy lâu xa ngái bạn vàng
Không tiền mua thuốc lượm  tàn hút chơi

Dù cho chín đợi mười trông
Đắng cay cũng chịu, mặn nồng cũng cam

Tham lam ăn trái thơm Cùa
Chạy về xóm mộ, bỏ bà bỏ con
Tham chi ba trái mít non
Lấy chồng Hà Thượng bỏ con tồi tàn

Chàng ràng bắt cá hai tay
Con trong cũng mất con ngoài cũng không

Giả đò buôn hẹ bán hành
Ghé vô chợ huyện thăm anh kẻo buồn

Giã đò thăm ló ngó đồng
Hỏi thăm em bậu má hồng răng thưa

Trai mô trai không vợ
Chợ mô chợ không đình
Trời mưa dông một trộ
Biết dựa mình nơi mô
 HTG-Sưu tầm 9-2009

1 nhận xét: