Việc học hành khoa cử dưới thời chúa Nguyễn
Phần nhiều các sách viết về xứ Đàng Trong đều chưa làm sáng tỏ về việc học hành và khoa cử dưới thời 9 chúa ở phía
Nam. Có
nêu chăng là chỉ nhắc đến các khoa thi Chính đồ và Hoa Văn để tuyển chọn
nhân tài, ngoài việc tuyển cử người hiền ra giúp nước.
Hiện
chúng ta chưa thấy có tài liệu nào xác định rõ đất Triều Sơn được chọn
lập Văn Miếu từ năm nào, chỉ nói vào buổi quốc sơ, theo sách Đại Nam
Nhất Thống Chí. Thuở xa xưa, Triều Sơn chưa phải là Xã vì sách Ô Châu
Cận Lục không ghi chép tên làng văn hiến này. Sách Phủ Biên Tạp Lục cho
biết Triều Sơn xã thuộc Mậu Tài (1), huyện Phú Vang. Cần lưu ý là ranh
giới hành chính hoàn toàn khác hẳn với ngày nay. Ngày xưa xã là làng,
làng là xã. Một vinh dự lớn cho làng Triều Sơn, là vào tháng 5 năm Giáp
Tý, niên hiệu Gia Long thứ 3 (năm 1806), triều đình dựng miếu Hội đồng ở
làng văn hiến này và chọn 30 người dân làm miếu phu. Đừng coi thường
làng nổi tiếng về nghề thủ công làm nón này. Trước năm 1692, làng Triều
Sơn đã có Văn miếu, chúa Nguyễn Phúc Chu thường ra đây xem cảnh vật và
có ý định muốn dời miếu này đi nơi khác sao cho có cuộc đất thoáng đãng
hơn. Văn miếu này cũng là của Làng và của triều đình xứ Đàng Trong. Năm
1770, chúa Nguyễn Phúc Thuần, hiệu Khánh Phủ Đạo Nhân, cho dời Văn miếu
về xã Long Hồ, huyện Hương Trà.
Có Văn miếu tức là nhà chúa đã quan tâm đến việc học và đạo đức. Bởi vì các chúa Nguyễn lấy Tam giáo làm chủ thuyết trong đường lối trị quốc an dân với phương châm mới “Cư Nho mộ Thích”.
Trước
khi lập Văn miếu, tại các dinh, trấn Chúa đã cho tổ chức việc học hành
và thi cử. Nhà chùa đã đóng vai trò giáo dục sĩ tử, bên cạnh các trường
tư do dân làng rước mời các danh nho, khoa mục, thầy đồ dạy học. Ruộng
Tam Bảo, học điền của làng xã là nguồn tài trợ chính cho giáo dục.
Năm
Nhâm Thân, 1632 chúa Nguyễn Phúc Nguyên tức Sãi Vương hay chúa Phật đã
kén chọn kẻ hiền tài bằng con đường tiến cử và khoa cử. Tại các dinh,
trấn quan sở tại là Tri phủ, Tri huyện làm quan sơ khảo, Ký lục các dinh
trấn làm quan phúc khảo, lấy những người thi trúng cho làm “Nhiêu hoc”,
được miễn sai dịch 5 năm. Thí sinh phải làm một bài thơ, một đạo văn
sách (văn chính luận), thời hạn trong một ngày phải làm xong. Kỳ thi ấy
được gọi là “Thi Quận Vào Mùa Xuân”.
Để
chọn kẻ có tài làm việc, chính sách khoa cử quy định người nào đã qua
kỳ thi ấy phải thi viết chữ Hoa văn (Hoa văn tự thể). Người nào thi
trúng thì được bổ làm việc ở trong Tam ty: Xá Sai, Lệnh Sử, Tướng Thần
Lại. Từ đó, việc thi cử dần hồi được cải cách và nâng cấp lên sao cho
người đỗ đạt có thực chất cao, có tài năng trong việc kinh bang tế thế.
Tháng
7 năm Bính Tuất, 1646, định phép thi 9 năm một kỳ. Chúa ra lệnh cho các
học trò đã qua khoa thi “Nhiêu học” đều đến công phủ để ứng thí.
Chính
đô thi 3 ngày. Ngày thứ nhất thi Tứ Lục, ngày thứ 2 thi Thơ phú, ngày
thứ 3 thi Văn sách. Lấy Văn sách (sau đổi thành Hàn Lâm) Tri phủ làm
quan sơ khảo; Cai bạ, Ký lục (đứng đầu dinh trấn), Nha Úy (sau đổi thành
bộ Lễ) làm giám khảo. Giám thí lấy từ các chức Tứ trụ triều đình (có
từ năm1638) gồm: Nội tả, Nội hữu, Ngoại tả, Ngoại hữu thay mặt Chúa điều
hành và giám sát tại trường thi.
Khoa
thi như thế gọi là Thu Vi Hội Thí (thi Hội mùa thu). Người trúng tuyển
thì làm danh sách tiến lên, xếp thành 3 hạng: Giáp, Ất và Bính. Hạng
Giáp được gọi là Giám sinh (khác với giám sinh học ở Quốc Tử Giám dưới
triều Nguyễn) và được bổ dụng làm Tri phủ, Tri huyện. Thiền sư Hương
Hải (2) được bổ dụng làm tri phủ Triệu Phong là một điển hình. Phủ Triệu
Phong vào thời điểm ấy gồm có 8 huyện (từ bờ nam sông Hiếu ở Đông Hà
cho đến bờ bắc sông Thu Bồn, trấn Quảng
Nam).
Hạng Ất được gọi là Sinh Đồ được bổ làm Huấn Đạo (coi việc học ở cấp
huyện). Hạng Bính cũng được gọi là Sinh đồ được bổ làm Lễ sinh (coi việc
tế lễ) hoặc Nhiêu học trọn đời.
Cũng
thuộc Hội thí, có thi Hoa Văn trong 3 ngày. Mỗi ngày đều viết một bài
thơ. Người trúng tuyển được chia làm 3 hạng, bổ làm việc ở 3 ty: Xá sai,
Lệnh sử, Tướng thần lại và cho làm Nhiêu học trọn đời.
Thi
Hương cũng được nâng cấp sao cho có chất lượng hơn. Chẳng hạn như vào
tháng 8 năm Mậu Tý, 176 chúa Nguyễn Phúc Chu cho mở khoa thi Hương tại
công phủ. Chúa sai Chưởng cơ lãnh Hình bộ sứ Tôn Thất Dục làm Giám thí.
Khoa ấy Lê Chính Việt, Bạch Doãn Triều đỗ đầu, người đương thời cho là
xứng danh. Tuy đỗ đầu nhưng không gọi là Thủ khoa hay Hương nguyên. Vì
sao? Dưới triều Nguyễn, người đô đầu thi Hương như Nguyễn Hữu Huân ở Nam
bộ mới gọi là Thủ khoa Huân, Phan Bội Châu đỗ đầu thi Hương trường Nghệ
An năm Canh Tý 1900 được gọi là Thủ khoa. Danh xưng Thủ khoa rất lớn,
uy nghi và thiêng liêng lắm. Đỗ đầu kỳ hạch tại tỉnh như cụ Phan trước
khi thi Hương gọi là Đầu xứ đã là vinh hạnh lớn. Huỳnh Thúc Kháng lúc
còn sĩ tử của xứ Quảng còn có tên là Huỳnh Hanh đã đỗ đầu xứ trong kỳ
hạch tại tỉnh. Vậy thì có nên làm cho biến tướng, biến nghĩa hai từ Thủ
khoa như ngày nay không? Đó là điều mà chúng ta cần suy nghĩ.
Vậy
thì, dưới thời chúa Nguyễn có thi Đình không? Có. Thi Đình còn gọi là
Điện thí. Vào năm nào? Năm Ất Hợi, 1695, thời điểm Hòa Thượng Thạch Liêm
- Thích Đại Sán được chuas Nguyễn Phúc Chu mời đến Thuận Hóa. Thi vào
tháng 3, lấy 5 người trúng cách về Chính Đồ làm Giám sinh, 8 người làm
Sinh đồ, 15 người làm Nhiêu học, 22 người trúng cách về Hoa văn, 10
người trúng cách về Thám phỏng. Tổng cộng 60 tân khoa.
Cũng
theo quy chế tuyển dụng thì Giám sinh bổ văn chức (Hàn lâm viện) và Tri
huyện, Sinh đồ bổ Huấn đạo, Nhiêu học bổ lễ sinh, Hoa văn bổ vào Tướng
thần lại ty và Lệnh sử ty, Thám phỏng bổ vào Xá sai ty.
Đòi
hỏi của Hoa văn tự thể là phải viết chữ đẹp. Viết đúng quy cách, net
trước net sau, kể cả quy cách “ đài chữ” lên cao. Có thể nói rằng văn
hay đòi hỏi chữ phải tốt. Hoa văn là suối nguồn của thư pháp. Nhưng thời
ấy có ai dám tung bút đâu?
Tổ
tiên ta khiêm nhường lắm. Viết đúng, viết nghệ thuật, viết đẹp theo
thần thức. Xuất thần là đằng khác. Chỉ cho chữ khi trọng người. Cao Bá
Quát là một điển hình. Nhà văn Nguyễn Tuân khẩu phục, tâm phục tính cách
tài tử của Cao Chu Thần bằng lối “kính nhi viễn chi”. Người đời nay nên
học gương xưa. Tăng sinh trẻ lại càng phải khiêm nhường mà cầu thị văn
chương chữ nghĩa của chư Tổ. Hòa thượng Thích Bích Không (1901-1968)
đích thị là người viết chữ Hán trên học hiệu lớn của Hoa kiều ở Chợ Lớn.
Trường Thọ Nhơn của người Hoa “sợ luôn” tài viết chữ Hán đầy tính nghệ
sĩ cao cường của Hoà Thượng. Gần đây nhất, Thượng toạ Thích Hoằng Thơ,
Tọa chủ chùa Từ Ân, năm 1945 -1955, viết chữ Hán sành điệu cả 4 thể:
Chân, Thảo, Triện, Lệ trên các bài Minh, bia đá, trụ biểu, tháp Tổ ở
Huế. Lắm tài nhưng quý ngài sống rất bình dị. Các nhà thư pháp đời nay
nên khiêm nhường để người Hoa qua giao lưu văn hóa tỏ lòng cảm mến người
Việt, nễ phục người Việt hơn.
Thi
Đình ở thời 9 chúa không đạt trình độ cao như thi Đình dưới thời Hậu Lê
hoặc vào thời các vua nhà Nguyễn. Chỉ có thi Đình thời nhà Lê, thời nhà
Nguyễn (từ Minh Mạng trở về sau) mới có các danh xưng Trạng nguyên,
Bảng nhãn, Thám hoa ở Đệ nhất giáp Tiến sĩ xuất thân, hoặc Hoàng giáp ở
bảng Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân. Ở bảng Đệ tam giáp Tiến sĩ xuất thân
đều là tiến sĩ mà thế gian quen gọi là Ông Nghè có từ thời chúa Trịnh
Giang. Nhà Nguyễn không lấy Trạng nguyên theo lệ “tứ bất”.
Đỗ
Giám sinh không thể chép là Hương Cống hay Cử nhân được như một số
người viết về danh nhân đã sai lầm về danh xưng thi cử thời kỳ này sang
thời kỳ khác.
Thành
tựu lớn nhất của khoa cử dưới thời 9 chúa là đã tạo ra những vị quan
tài giỏi hết lòng vì nước vì dân, như Trần Đình Ân, Nguyễn Khoa Chiêm,
Nguyễn Đăng Thịnh, Nguyễn Cửu Tiền, Nguyễn Cư Trinh, Nguyễn Hữu Hào,
Hoàng Quang. Các vị quan lớn đều là những bậc có nhân cách tỏa sáng tinh
thần “chính đại quang minh” hoặc “cư dân do nghĩa”. Vì vậy mà văn học
nghệ thuật, tôn giáo, ngoại giao của thế kỷ 17 đạt được thành quả rực rỡ
ở hai xứ Đàng Ngoài lẫn Đàng Trong. Đây cũng chính là điều giúp chúng
ta lý giải vì sao đất nước Đại Việt ở thế kỷ 17 gặp phải nhiều khó khăn
do chiến tranh Trịnh - Nguyễn, cảnh đất nước qua phân, đời sống nhân dân
còn chưa cao, mà văn hóa lại phát triển, và phát huy đến chừng như vượt
trội xa các thế kỷ đi trước.
Dưới
thời 9 chúa, nhà chùa ở xứ Đàng Trong còn là nơi đào tạo thế hệ trẻ có
vốn kiến thức và một nhân cách kẻ sĩ đích thực là sĩ phu vì có sĩ khí,
tiết tháo, không buôn bán danh lợi và chuộng phẩm hàm hư vị.
Ảnh
hưởng của khoa cử thời kỳ này còn đọng lại của nền giáo dục Phật Giáo.
Ở Nam trung bộ, Nam bộ các trường Gia giáo được gọi là Trường Hương,
Trường Trung Cao Cấp được gọi là trường Kỳ. Phật trường là nơi các Tăng
Ni trẻ thọ giới để lãnh thọ sứ mạng của Như Lai trao phó. Thọ giới của
Tăng Ni ở cấp thấp còn gọi là trúng “Trường thi Hương” ở cấp cao hơn bên
trên (thọ Tỳ kheo, Tỳ kheo ni) được gọi là trúng “Trường thi Hội” (3).
Đặc
điểm của giáo dục Phật giáo là việc dùng chữ Nho, chữ Nôm để làm chuyển
ngữ chính, trường Phật học các cấp không hề ngại gì đến việc bãi bỏ
khoa cử chữ Hán ở ngoài thế tục. Việc của ai cứ nấy làm. Phật Giáo đã
có phương châm vừa là nguyên lý giáo dục bất di bất dịch muôn đời đó là
“Duy Tuệ Thị Nghiệp” và “Giới, Định, Tuệ”.
Ngày
nay, các trường Phật học từ Gia giáo cho đến Đại học đều ưu tiên quan
tâm vào chương trình Nội điển. Cả cổ văn lẫn kim văn (Trung văn bạch
thoại) đều được giảng dạy. Còn chữ Nôm thì dạy ít, Tăng Ni tự hoc là
chính yếu. Cái nạn dạy nhiều cổ ngữ đã được cân nhắc. Tăng Ni chuộng học
Anh văn và rất ít người chịu học Pháp văn. Đó là hạn chế của thời đại.
Phải chăng cần suy tính lại trong việc phân ban ngoại ngữ. Đã là Tăng
sinh, tu sĩ trẻ Phật Giáo không thể nào xa rời việc học chữ Hán, dù tân,
dù cựu. Nói một cách nghiêm túc là “nhờ vậy” mà làm gương cho cư sĩ,
Phật tử biết đường thế nào để thâm nhập kinh tạng để mong cầu có nhân
duyên được góp phần tích cực trong việc phụng đạo giúp đời, trong việc
sáng tác dịch thuật, diễn giải kinh điển, phát huy tinh thần phê và tự
phê của Phật Giáo để càng ngày càng lân mẫn giới tu sĩ trẻ góp phần
hoằng hóa lợi sinh có được đời sống hạnh phúc và an lạc.
Chú thích:
1. Tổng Mậu Tài: Làng Mậu Tài, thuộc tổng Mậu Tài xưa có tên là Hoài Tài. Tổng là đơn vị hành chính gồm nhiều làng.
2.
Hương Hải thiền sư (1628-1715) còn gọi Tổ Cầu, năm 18 tuổi được bổ làm
Văn Chức, năm 1652 được Chúa Nguyễn Phúc Tần bổ làm Tri phủ Triệu Phong,
về sau cáo quan xuất gia đầu Phật.
3. Xem Danh Tăng Việt Nam thế kỷ XX, Thích Đồng Bổn chủ biên, Thành hội PG TP. HCM, 1995, tr 117.
- Năm Kỷ Dậu (1909) chùa Long Quang ở Vĩnh Long khai trường Hương.
- Năm Nhâm Tý (1912) Tổ đình Giác Lâm khai trương trường Hương.
- Năm Kỷ Mùi (1919) Hoà Thượng Chánh Hậu ở chùa Vĩnh Tràng (Mỹ Tho) khai trương trường Hương Gia giáo.
- Năm Nhâm Tý (1912) Tổ đình Giác Lâm khai trương trường Hương.
- Năm Kỷ Mùi (1919) Hoà Thượng Chánh Hậu ở chùa Vĩnh Tràng (Mỹ Tho) khai trương trường Hương Gia giáo.