Thứ Năm, 7 tháng 2, 2013

Phép đối trong câu đối

 PHÉP ĐỐI TRONG CÂU ĐỐI

Câu đối thuộc thể loại văn biền ngẫu, gồm hai vế đối nhau nhằm biểu thị một ý chí, quan điểm, tình cảm của tác giả trước một hiện tượng, một sự việc nào đó trong đời sống xã hội. Nên lưu ý là từ đối (對) ở đây có nghĩa là ngang nhau, hợp nhau thành một đôi. Câu đối là một trong những thể loại của Văn học Trung Quốc và Việt Nam .


[sửa] Nguồn gốc

Câu đối có nguồn gốc từ người Trung Quốc. Người Trung Quốc gọi câu đối là đối liên (對聯) nhưng tên gọi xưa của nó là đào phù (桃符).

Câu đối được xem là tinh hoa của văn hóa chữ Hán, người Trung Quốc quan niệm: "nếu thơ văn là tinh hoa của chữ nghĩa thì câu đối là tinh hoa của tinh hoa"[1].

Ðối liên có lịch sử ra đời cách đây khoảng 3000 năm, nhưng theo Tống sử Thục thế gia (宋史蜀世家), câu đối đầu tiên được ghi lại do chính chúa nhà Hậu Thục (934-965) là Mạnh Sưởng viết trên tấm gỗ đào vào năm 959[2].

Nguyên bản:

新年納餘慶

嘉節號長春


Phiên âm:

Tân niên nạp dư khánh

Gia tiết hiệu trường xuân


Dịch thơ:

Năm mới thừa chuyện vui

Tiết đẹp xuân còn mãi
[sửa] Những nguyên tắc của câu đối


Khi viết câu đối, nếu chọn được câu chữ tuân theo nguyên tắc sau thì đôi câu đối được gọi là chỉnh đối hay đối cân.

[sửa] Ðối ý và đối chữ

* Ðối ý: hai ý đối phải cân nhau mà đặt thành 2 câu sóng nhau.
* Ðối chữ: phải xét 2 phương diện thanh và loại.

- Về thanh: thanh bằng đối với thanh trắc và ngược lại.

- Về loại: thực tự (hay chữ nặng như: trời, đất, cây...) phải đối với thực tự; hư tự (chữ nhẹ như: thì, mà, vậy, ru...) phải đối với hư tự; danh từ phải đối với danh từ, động từ phải đối với động từ; nếu vế đối này có đặt chữ Nho thì vế kia cũng phải đặt chữ Nho...

[sửa] Vế câu đối

Một đôi câu đối gồm hai câu đi song nhau, mỗi câu là một vế. Nếu câu ấy từ một người sáng tác gọi là vế trên và vế dưới. Nếu một người nghĩ ra một vế để người khác làm vế kia thì gọi là vế ra và vế đối.

Khi một câu đối do một người làm ra cả hai vế, thì chữ cuối, vế trên, câu bên phải (khi treo) là thanh trắc; còn chữ cuối, vế dưới, câu bên trái là thanh bằng.
[sửa] Số chữ và các thể câu đối

Số chữ trong câu đối không nhất định, theo số chữ và cách đặt câu có thể chia câu đối ra làm các thể sau:

* Câu tiểu đối: là những câu 4 chữ trở xuống.
* Câu đối thơ: là những câu làm theo lối đặt câu của thể thơ ngũ ngôn hoặc thất ngôn.
* Câu đối phú: là những câu làm theo các lối đặt câu của thể phú, gồm có:

- Lối câu song quan: là những câu 6 đến 9 chữ, đặt thành một đoạn liền

- Lối câu cách cú: là những câu mà mỗi vế chia làm 2 đoạn, một đoạn ngắn, một đoạn dài

- Lối câu gối hạc hay hạc tất: là những câu mỗi vế có 3 đoạn trở lên.

[sửa] Luật bằng trắc

* Câu tiểu đối:

- Vế phải: trắc-trắc-trắc

- Vế trái: bằng-bằng-bằng

* Câu đối thơ: phải theo đúng luật bằng trắc của hai câu thực và câu luận trong lối thơ ngũ ngôn hoặc thất ngôn.
* Câu đối phú: Chữ cuối mỗi vế và chữ cuối mỗi đoạn phải bằng đối với trắc hoặc trắc đối với bằng. Khi mỗi vế đối có từ 2 đoạn trở lên thì nếu chữ cuối vế là trắc, các chữ cuối các đoạn trên phải là bằng và ngược lại. Nếu đoạn đầu hoặc đoạn dưới có đúng 7 chữ thì đoạn ấy thường theo luật thơ thất ngôn.

[sửa] Phân loại câu đối
[sửa] Câu đối Trung Quốc

Người Trung Quốc phân loại câu đối theo cách dùng và đặc điểm nghệ thuật:

[sửa] Phân loại theo cách dùng

* Xuân liên (春聯): Câu đối xuân, chuyên dùng vào dịp Tết, gắn ở cửa.
* Doanh liên (楹聯): Câu đối treo ở cột trụ, dùng trong nhà, cơ quan, cung điện của vua và những nơi cổ kính.
* Hạ liên (賀聯): Câu đối chúc mừng, thường được dùng để chúc thọ, chúc sinh nhật, hôn giá, thăng quan tiến chức, có con, khai nghiệp v.v.
* Vãn liên (挽聯): Câu đối than vãn, dùng trong lúc ai điệu tử vong.
* Tặng liên (贈聯): Dùng để tán thán, đề cao hoặc khuyến khích người khác.
* Trung đường liên (中堂聯): Câu đối dùng để treo ở những khách đường lớn, chỗ nhiều người lưu ý, và được phối hợp với bút hoạch (thư pháp).

[sửa] Phân loại theo đặc điểm nghệ thuật

* Ðiệp tự liên (疊字聯): Một chữ xuất hiện liên tục.
* Phức tự liên (複字聯): Hai vế có chữ giống nhau nhưng không xuất hiện một cách trùng phức liên tục.
* Ðỉnh châm liên (頂針聯): Chữ nằm phần đuôi của câu đầu lại là chữ đầu của câu sau.
* Khảm tự liên (嵌字聯): Bao gồm số, phương vị, tiết khí, niên hiệu, họ người, nhân danh, địa danh, vật danh (ví như tên thuốc) v.v.
* Xích (sách) tự liên (拆字聯): Mỗi hợp thể tự bên trong câu đối tách thành bao nhiêu chữ đơn thể, có người phân ra tinh tế hơn nữa là mở chữ ra (xích tự 拆字), hợp chữ lại (hợp tự 合字), tách chữ ra (tích tự 析字) v.v.
* Âm vận liên (音韻聯): Bao gồm đồng âm dị tự, đồng tự dị âm cùng với điệp vận.
* Hài thú liên (諧趣聯): Hàm dung ý nghĩa khôi hài, ẩn kín.
* Vô tình đối (無情對): Ý nghĩa trên dưới không tương quan một mảy may nào, chỉ chỉnh những chữ, từ. Phần lớn Vô tình đối này ít thấy ý vị, hoàn toàn có thể quy nhập vào Hài thú liên bên trên.
* Hồi văn liên (回文聯): Ðọc xuôi (thuận độc 順讀) hay đọc ngược (đảo độc 倒讀) ý tứ hoàn toàn như nhau.

[sửa] Câu đối Việt Nam

Câu đối Việt Nam được Dương Quảng Hàm phân loại theo ý nghĩa, gồm các loại sau:

* Câu đối mừng: làm để tặng người khác trong những dịp vui mừng như: mừng thọ, mừng thi đỗ, mừng đám cưới, mừng nhà mới...

Nhất cận thị, nhị cận giang, thử địa khả phong giai tị ốc.

Sống ở làng, sang ở nước, mừng ông nay lại vểnh râu tôm

(Nguyễn Khuyến, viết mừng một chánh tổng trước bị cách chức, sau được phục sự và làm nhà mới.)

* Câu đối phúng: làm để viếng người chết.

Nhà chỉn nghèo thay, nhờ được bà hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng,

tất tưởi chân nam đá chân chiêu, ví tớ đỡ đần trong mọi việc

Bà đi đâu vợi mấy, để cho lão vất vơ vất vưởng, búi tóc củ hành, buông quần lá toạ,

gật gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai kể lể chuyện trăm năm.

(Nguyễn Khuyến: câu đối khóc vợ)

* Câu đối Tết: làm để dán nhà, cửa, đền, chùa...về dịp Tết Nguyên Ðán.

Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa.

Sáng mồng một, rượu say tuý luý, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.

(Nguyễn Công Trứ, câu đối làm vào dịp tết lúc còn hàn vi.)

Tết đến không tiền vui chi Tết / Xuân về kết gạo đón chi Xuân.

(Tác giả, câu đối làm vào dịp tết lúc còn hàn vi.)

* Câu đối thờ: là những câu tán tụng công đức tổ tiên hoặc thần thánh làm để dán hoặc treo những chỗ thờ.

Tuế hữu tứ thời xuân tại thủ.

Nhân ư bách hạnh hiếu vi tiên.

(Dịch nghĩa: Năm có bốn mùa, mở đầu bằng mùa xuân. Người ta có trăm tính nhưng tính hiếu thảo là cần trước hết) hoặc:

Mở rộng phương Tiên, công tế thế cao bằng Thái lĩnh

Sống nhờ của Phật, ơn cứu người rộng tựa Cẩm Giang

(Câu đối thờ Tuệ Tĩnh ở đền Bia)

Tùng thanh, trúc thanh, chung khánh thanh, thanh thanh tự tại.

Sơn sắc, thủy sắc, yên hà sắc, sắc sắc giai không.

(Câu đối khắc ở chùa Diệu Ðức, Huế).

* Câu đối tự thuật: là những câu kể ý chí, sự nghiệp của mình và thường dán ở những chỗ ngồi chơi.

Chị em ơi! ba mươi sáu tuổi rồi, khắp đông, tây, nam, bắc bốn phương trời, đâu cũng lừng danh công tử xác.

Trời đất nhẻ! gắng một phen này nữa, xếp cung, kiếm, cầm, thư vào một gánh, làm cho nổi tiếng trượng phu kềnh

(Nguyễn Công Trứ, câu đối tự thuật)

* Câu đối đề tặng: là những câu đối làm ra để đề vào chỗ nào đó hoặc tặng cho người khác.

Nếp giầu quen thói kình khơi, con cháu nương nhờ vì ấm

Việc nước ra tay chuyên bát, bắc nam đâu đấy lại hàng

(Lê Thánh Tông, câu đối đề ở một hàng bán giầu (trầu) nước)

* Câu đối tức cảnh: là những câu tả ngay cảnh trước mắt.

Giơ tay với thử trời cao thấp

Xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài

(Hồ Xuân Hương, vịnh cảnh trượt chân, ngã xoạc cẳng)

* Câu đối chiết tự (chiết: bẻ gãy, phân tách; tự: chữ): là những câu do sự tách chữ Hán hoặc chữ Nôm ra từng nét hoặc từng phần mà đặt thành câu.

Tự (字) là chữ, cất giằng đầu, chữ tử (子) là con, con ai con nấy?

Vu (于) là chưng, bỏ ngang lưng, chữ đinh (丁) là đứa, đứa nào đứa này?

* Câu đối trào phúng: là những câu làm để chế diễu, châm chích một người nào đó.

Cung kiếm ra tay, thiên hạ đổ dồn hai mắt lại.

Rồng mây gặp hội, anh hùng chỉ có một ngươi thôi

(Câu đối tặng một người chột mắt mới đỗ khoa thi võ)

* Câu đối tập cú: là những câu lấy chữ sẵn ở trong sách hoặc ở tục ngữ, ca dao.

Gái có chồng như rồng có vây, gái không chồng như cối xay không ngõng.

Con có cha như nhà có nóc, con không cha như nòng nọc đứt đuôi.

* Câu đối thách (đối hay đố): người ta còn nghĩ ra những câu đối oái ăm, cầu kỳ rồi người ta tự đối lấy hoặc thách người khác đối. Lối đối này thường sử dụng nghệ thuật chơi chữ, đồng âm dị nghĩa...

Con cóc leo cây vọng cách, nó rơi xuống cọc, nó cạch đến già

Con công đi qua chùa kênh, nó nghe tiếng cồng nó kềnh cổ lại

(Câu đối có bốn chữ : cóc cách cọc cạch đối với bốn chữ công kênh cồng kềnh)

Có những vế câu đối rất khó đối như:

* Cha con thầy thuốc về quê, gánh một gánh hồi hương, phụ tử.

Vế này khó đối vì hồi hương (cũng có nghĩa "về quê") và phụ tử (cũng có nghĩa "cha con") đồng thời lại là tên gọi các vị thuốc.

* Vào vụ đông trường nam bón phân bắc trồng khoai tây, Sang xuân hạ quyết tâm thu hàng tấn củ.

Vế này cũng khó đối vì đông, tây, nam, bắc (chỉ hướng địa lý) và xuân, hạ, thu, đông (chỉ các mùa ở Việt Nam )

* Da trắng vỗ bì bạch

Vế đối này của Ðoàn Thị Ðiểm, hiện nay, có khá nhiều người đối nhưng chưa chỉnh, câu đối đã được đăng ở quyển Thế giới mới được coi là tạm ổn nhất.

Câu này là " Tay sơ sờ tí ti" có thể coi là được chăng,câu này có trong "Thế giới mới" Tí cũng là tay, tí ti là một chút xíu, cũng là một từ láy âm tay sơ là tay còn trong sạch, nguyên vẹn. Xin đóng góp thêm một câu đối về câu: "da trắng vỗ bì bạch" "rừng sâu mưa lâm thâm" hay "trời xanh màu thiên thanh" Hiện nay có một câu đối mới đó là: 'con thầy bắt sư tử" do một học sinh cấp 3 vừa tìm ra. Xem ra câu này chuẩn hơn những câu hiện có.

[sửa] Tham khảo

Trong các thể cổ văn, câu đối được dùng rất phổ biến. Ở đây có ba vấn đề chúng ta cần lưu ý.
Vấn đề thứ nhất, người Trung Quốc gọi câu đối là “đối liên”, và chia làm ba loại. Loại thứ nhất là “Tiểu đối”, tức mỗi vế có từ 4 chữ trở xuống. Loại thứ hai là “Thi đối”, mỗi vế là một câu đối ngũ ngôn hoặc một câu thất ngôn, cũng có khi gồm cả hai câu ngũ ngôn và thất ngôn. Loại thứ ba là “Phú đối”, tức là câu đối viết theo niêm luật của thể phú, là một thể cổ văn. “Phú đối” được chia thành: Câu đối “Song quan”, mỗi vế có từ 6 đến 9 chữ, ghép lại thành một đoạn; Rồi câu đối “Cách cú”, mỗi vế chia thành hai đoạn, một đoạn ngắn, một đoạn dài; Rồi câu đối “Hạc tất”, mỗi vế có từ ba đoạn trở lên.
Vấn đề thứ hai, trong câu đối người Việt, ta có thể chia làm mấy loại sau đây. Thứ nhất là câu đối Tết. Thứ hai là câu đối bày tỏ sự chung vui, ví dụ như chung vui lễ hội hay chung vui trong các cuộc giao lưu. Thứ ba là câu đối chia sẽ, ví dụ như chia sẽ về những tổn thất trong thiên tai địch họa, vì đau ốm hay trong các đám ma chay. Thứ tư là câu đối để chúc mừng, như câu đối mừng tân gia, mừng tân hôn, mừng đỗ đạt, mừng thăng quan, mừng sinh quý tử. Thứ năm là câu đối để ghi nhớ một sự kiện hay một vấn đề, ví dụ như trùng tu chùa chiền, đình miếu, tôn tạo hay xây dựng một số công trình công cộng, dựng bia…
Vấn đề cần chú ý thứ ba, đó là câu đối người Việt thường được viết bằng nhiều loại chữ khác nhau, trong đó nổi bậc lên có ba loại chữ. Một là câu đối viết bằng chữ Hán. Với loại câu đối này, bạn đọc là những người trẻ tuổi, chưa có điều kiện tiếp xúc với chữ Hán, thì phải có người dịch ra mới hiểu được. Thứ hai là câu đối viết bằng chữ Nôm. Chữ Nôm là chữ viết của dân tộc, nhưng không phải ai cũng đọc được. Ngày nay, số người Việt đọc được chữ Nôm là quá ít. Thứ ba, là câu đối viết bằng chữ Việt hiện đại, và là câu đối phổ biến nhất hiện ngày nay. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, rồi trên các công sở hiện nay, câu đối viết bằng chữ Việt rất phổ biến.
Các loại câu đối Tết tại Việt Nam
Lê Phước : Trong các loại câu đối đó, thì câu đối Tết có vai trò như thế nào, thưa giáo sư ?
GS. Nguyễn Khắc Thuần : Trong tất cả các loại câu đối, nổi bật hơn cả vẫn là câu đối Tết. Câu đối Tết trở thành sinh hoạt văn hóa rất phổ biến và lâu đời. Ngày nay tuy không ai dùng chữ Hán và chữ Nôm nữa, hay nói đúng hơn là quá ít người dùng chữ Hán và chữ Nôm, nhưng không phải vì thế mà câu đối ít đi. Xưa cũng như nay, câu đối trở thành một món quà không thể thiếu.
Xem lại, câu đối Tết của người Việt có 07 loại sau đây :
1) Loại câu đối Tết dùng chung cho tất cả mọi nhà, ai treo cũng được, gia đình sang hèn, nghèo giàu đều treo được. Ví dụ như câu :
Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ
Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh
Đây là câu đối viết bằng chữ Nôm. Rồi cũng có câu đối viết bằng chữ Hán mà nhà nào treo cũng được :
Lộc tiến vinh hoa gia đường thịnh
Phúc sinh phú quý tử tôn vinh

(Tài lộc dẫn đến sự vinh hoa, nhà thì ngày một thêm thịnh đạt
Phúc sinh ra sự phú quý, con cháu trở nên vinh hoa)
2) Loại câu Tết thường để ở các đình làng hay công sở. Chẳng hạn như :
Chúc Tết đến trăm điều như ý
Mừng xuân sang vạn sự thành công

(Câu đối viết bằng chữ Nôm)
Hoặc câu đối viết bằng chữ Hán:
Sơn thủy thanh cao xuân bất tận
Thần tiên lạc thú cảnh thần tiên

(Núi sông thanh cao, mùa xuân bất tận
Thần tiên vui vẻ lạc thú cảnh thần tiên ở nơi trần thế)
3) Loại câu đối Tết thường để ở đền chùa miếu mạo. Ví dụ câu đối chữ Nôm sau đây :
Mừng xuân hỉ xả thêm công đức
Đón Tết từ bi bớt não phiền
Hoặc câu đối chữ Hán:
Pháp luân vô ánh oanh thiên hạ
Tâm niệm vô thanh chấn tứ phương

(Pháp luân tuy không có tỏa sáng nhưng có thể làm run cả trời đất
Tâm niệm tuy không phát ra thành tiếng nhưng nó có thể gây chấn động cả bốn phương)
4) Loại câu đối Tết thường có trong các nhà quyền quý. Ví dụ như :
Xuân tái đáo, môn tiền phúc đáo
Hoa hựu khai, thiên ngoại thi khai

(Xuân lại đến, trước cửa phúc lại đến
Hoa lại nở, ngoài trời thơ lại mở ra)
Hoặc câu :
Tiên tổ phương danh lưu quốc sử
Tử tôn tích đức hiển gia phong

(Tổ tiên để lại tiếng thơm trong sử sách
Con cháu tích đức thì gia phong được hiển hách)
Hay là :
Nhập môn tân thị kinh luân khách
Mãn tọa dai đồng cẩm tú nhân

(Vào cửa khách toàn là người hiểu kinh luân
Ngồi đầy nhà toàn là những bậc mặc áo gấm áo thêu, tức là những người sang trọng quyền quý trong xã hội).
5) Loại câu đối Tết thường có trong các gia đình nghèo khó. Chẳng hạn như câu :
Tết đến gượng cười, mong con cháu chăm ngoan, nhà có dư gạo thóc
Xuân sang gắn vui, cầu vợ hiền mạnh khỏe, vườn đủ quả đủ rau
Hay là câu :
Nợ nần theo gió lạnh bay đi, vợ lại tươi như hoa nở thắm
Của cải cùng khí ấm tràn vào, lòng chồng vua tựa trống hội vang
Ta thấy ở đây là những ước muốn bình dị, thể hiện ước nguyện giản dị nhưng cũng rất sâu sắc và mãnh liệt của những người bình dân nghèo khó trong xã hội.
6) Loại câu đối Tết viết theo lối tự trào, viết để cho vui, ai nghe cũng được, không phải treo ở đâu cả, mà để gắn vào tâm tưởng của mỗi người, kích động suy nghĩ của mọi người, và cùng vui với mọi người. Ví dụ như câu đối sau đây của Nguyễn Công Trứ :
Chiều ba mười nợ réo tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa
Sáng mồng một rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông phúc vào nhà
Hoặc là câu đối sau đây của Hồ Xuân Hương, một nữ sĩ lừng danh cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19:
Tối ba mươi khép cánh càn khôn, ních chặt kẻo Ma Vương đưa quỉ tới
Sáng mồng một lỏng then tạo hóa, mở toang cho thiếu nữ rước xuân vào
7) Loại câu đối Tết thường thấy trong các gia đình Việt Kiều.
Tôi có dịp đi nhiều nước trên thế giới và gặp gỡ các Việt kiều, thấy trong gia đình họ cũng có những câu đối Tết. Đọc qua tôi thấy rất cảm động, chẳng hạn như :
Nghi ngút tỏa khói hương, xa đất mẹ vẫn nhớ về nguồn cội
Tôn nghiêm mâm ngũ quả, chốn quê người nặng trĩu nghĩa cố hương
Hoặc như câu :
Xuân tha hương, vấn vương thương đất mẹ
Tết xa nhà, xao xuyến nhớ quên cha
Đó là những lời thể hiện tình nghĩa nồng nàn đầm thắm của những người con xa quê, thực sự xứng đáng là dòng giống con Lạc cháu Hồng. Đó không chỉ là lời bày tỏ tình cảm, mà quan trọng hơn đó còn là lời thể hiện một truyền thống viết câu đối của người Việt dù ở bất cứ nơi đâu.

[sửa] Xem Thêm

Câu Ðối Sưu Tầm, Bộ Sưu Tầm Câu Ðối Việt Nam

Nguồn:
Câu đối: 
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Văn học Việt Nam.png

Văn học dân gian:

Thần thoại
Truyền thuyết
Cổ tích
Truyện cười
Ngụ ngôn
Vè, Tục ngữ
Thành ngữ
Câu đố
Ca dao
Văn học dân gian dân tộc thiểu số
Sân khấu dân gian

Văn học viết:

Văn học đời Lý
Văn học đời Trần
Văn học đời Lê Sơ
Văn học đời Mạc
Văn học đời Lê trung hưng
Văn học đời Tây Sơn
Văn học đời Nguyễn
Giai đoạn 1900–1930
Giai đoạn 1930–1945
Giai đoạn 1945–1954
Giai đoạn 1954–1975
Giai đoạn sau 1975

xem thêm

Tác giả - tác phẩm:

Nhà thơ - Nhà văn
Nhà báo - Nhà viết kịch
Tư liệu văn học Việt Nam

9 nhận xét:

  1. xin chao quy thay quy ban

    theo tui câu
    DA TRẮNG VỖ BÌ BẠCH
    hiện nay chưa ai có thẻ đối nỗi và bằng
    thí dụ
    RỪNG SÂU MƯA LÂM THÂM
    cũng tàm tạm vì LÂM THÂM chỉ là tượng hình
    còn BÌ BẠCH (DA TRẮNG) lại là TƯỢNG ÂM.
    nhắc đến Đoàn thị Điểm có câu đối cho đến bây giờ tôi rất thích. Câu chuyện kể rằng:
    Ngày xưa ông anh bà Đoàn t Điểm tên Luân đến thăm em tức là bà Điểm. Lúc bà đang tắm xong và trang điểm ông anh mới nói:
    ĐỐI KỈNH HỌA MI NHẤT ĐIỂM PHIÊN THÀNH LƯỠNG ĐIỂM
    không vừa, bà liền đối ngay:
    LÂM TRÌ NGOẠN NGUYỆT ĐƠN LUÂN CHUYỂN TÁC SONG LUÂN

    có nghĩa:
    TRƯỚC GƯƠNG VẼ LÔNG MI MỘT ĐIỂM HIỆN RA 2 ĐIỂM
    Điểm cũng là tên của bà
    TỚI HỒ NGẮM TRĂNG 1 MẶT TRĂNG HIỆN LÊN 2 MẶT TRĂNG
    Luân là trăng cũng là tên ông anh.
    chúng ta thấy vế 1:
    NHẤT .....SONG (là hai)
    vế 2
    ĐƠN........SONG (là hai)
    động từ vế 1
    PHIÊN : biến thành
    CHUYỂN TÁC: biến thành (nhưng không trùng chữ)
    Dinh trong phuc

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Câu đáp đích thực của Trạng Quỳnh là “Bẩy Xanh kêu thất thanh” hoặc “Bẩy xanh la thất thanh”.
      Như vậy là có thể kết thúc được rồi. Xem như là vế đối chuẩn phải không?

      Xóa
    2. một kết cục tốt đẹp; một happy ending

      Xóa
  2. ĐỐI KỈNH HỌA MI NHẤT ĐIỂM PHIÊN THÀNH LƯỠNG ĐIỂM
    LÂM TRÌ NGOẠN NGUYỆT ĐƠN LUÂN CHUYỂN TÁC SONG LUÂN

    hay
    trước gương vẽ lông mày 1 bà Điểm (nghĩa 1 là chấm) hóa thành 2 bà Điểm
    còn câu 2:
    tới hồ xem trăng 1 ông Luân (nghĩa 1 là mặt trăng) hóa thành 2 ông Luân
    chúng ta thấy về số :
    vế trên NHẤT đối vế dưới ĐƠN cũng là 1
    vế trên LƯỠNG đối vế dưới SONG cũng là 2
    -còn động từ vế trên PHIÊN THÀNH đối vế dưới CHUYỂN TÁC :
    là động từ kép cùng ý khác chữ (biến ra, biến thành)

    Trả lờiXóa
  3. Chào anh lâu ngày quá, mới thấy anh ghé thăm, Đúng là câu đối tuyệt, anh cũng thích đề này này lắm hả? Đề tài này quý huynh trưởng và thi hữu đang đưa vào diễn đàn sau xướng họa thơ Đường thi.

    Trả lờiXóa
  4. chào tùng
    "rằng hay (thích) thì thật là hay
    nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào"

    ui cha, đối nó khó lắm ,không vô được mô!
    ------------------------------

    Quảng trị bữa ni trời chắc lạnh lắm phải không?
    Thế chợ quảng trị bữa ni họ bán cải cay làm dưa chưa?
    Ý phúc nói đây là cải cay quảng trị.
    Nó làm dưa xong , chắm với cá trê nướng sắm nước mắm gừng. Hay nước ruốc kho cũng tuyệt.
    chúc bà con sức khỏe hết.
    Qua Nại cữu nhớ cho Phúc gởi lời thăm cậu Võ thế Hòa.(ô Hòa sẽ kể nhiều về phúc)
    cám ơn tùng.

    Trả lờiXóa
  5. Nhận xét này đã bị tác giả xóa.

    Trả lờiXóa
  6. Anh Phúc oi! Cải cay bữa ni là thuốc rồi đó, thiên hạ mua nó về nấu nước uống để thanh thải acid uric đấy mà. Nên còn non là bị bán rồi anh không tìm được hoa cải vàng bên bãi Nhan Biều nữa vì người ta đã xây kè đổ đất cao để làm siêu thị và là P. An Đôn TX Quảng Trị mà.Thôi cú nhìn hoa cải vàng minh họa trong blog anh cũng được

    Trả lờiXóa
  7. nghe Tùng nói mà nhớ mấy câu xưa của

    Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
    Ngõ cũ lâu đài bóng tịch dương

    và giờ mình chắc phải chắp thêm:

    Hoa vàng bông cải giờ đâu thấy
    Lạc lối bay về bướm ngẩn ngơ

    phuc
    [minh stop vi phai lai xe dua con di hoc]

    Trả lờiXóa