Thứ Ba, 27 tháng 10, 2009

ĐẶNG THẾ PHONG và ... -Ca khúc mùa thu

 ĐẶNG THẾ PHONG
Người nhạc sĩ tài hoa nhưng bạc mệnh
Trời đã vào Thu...
Nghe nhạc Thu, của người Nhạc Sĩ tài hoa nhưng đoản mệnh…
May thay trước khi ra đi, Ông đã để lại ba bản nhạc nhớ đời…
Xin Quý Vị, Quý NT và CH…click vào những LINK dưới đây, để thưởng thức các bản nhạc,
mà những người dân Việt Nam ít nhất một lần đã nghe, và đã thích...
Con Thuyền Không Bến - Ngọc Lan
http://music. hatnang.com/ node/9890
Đêm Thu - Xuân Sơn
http://music. hatnang.com/ node/4168
Giọt Mưa Thu - Lệ Thu
http://music. hatnang.com/ node/8552
Và mời đọc bài viết , về mối tình thật đẹp của Ông: Nhạc Sĩ ĐẶNG THẾ PHONG….
Hy vọng sẽ giúp Quý vị giải trí đôi phút cuối tuần..
Enjoy…
Lê Hoàng Long
Đặng Thế Phong:
Tài hoa bạc mệnh
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau
(Nguyễn Du)
Suy từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, người tài hoa là người bạc mệnh, kẻ hồng nhan thường đa truân. Nhìn vào làng nhạc, nhạc sĩ Đặng Thế Phong là điển hình rõ nét nhất.
Đặng Thế Phong sinh năm 1918 tại thành phố Nam Định. Ông là con trai Đặng Hiển Thế, thông phán Sơ? Trước ba. Nam Định. Thân phụ ông chẳng may mất sớm, gia đình túng thiểu, ông phải bỏ học khi đang theo học năm thứ hai bậc thành chung (deuxième année primaire supérieure, nay là lớp bảy cấp hai phổ thông). Vướng vào cái nghiệp văn nghệ từ thủa còn nho? nên ông đã lên Hà Nội theo học trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (Ecole supérieure de Beanx Arts) với tư cách bàng thính viên (auditeur libre). Đặng Thế Phong đã thực sự lấy nghề nuôi nghiệp: thời gian theo học này, ông đã phải vẽ tranh cho báo Học Sinh (chủ báo là nhà văn Phạm Cao Củng) để có tiền ăn học. Trong một kỳ thi, ông đã vẽ một bức tranh cây cụt, không có một cành nào. Lúc nạp bài, giáo sư Tardieu, thầy dạy ông đã nói rằng có lẽ Đặng Thế Phong không thọ!
Ông đã phiêu du vào Sài Gòn rồi sang Nam Vang vào đầu năm 1941 và mở một lớp dạy nhạc tại kinh đô xứ Chùa Tháp cho đến mùa thu 1941 ông lại trở về Hà Nội.
Cũng giống như Mozart lúc sinh thời, Đặng Thế Phong là một nhạc sĩ rất nghèo, nên cuộc sống của ông chật vật. Ngoài tài làm nhạc, vẽ tranh, ông còn có giọng hát khá hay, tuy chưa được là Ténor nhưng cũng được khán giả hâm mộ. Lần đầu tiên ông lên sân khấu, hát bài Con Thuyền Không Bến tại rạp chiếu bóng Olympia (phố Hàng Da Hà Nội) vào năm 1940, được hoan nghênh nhiệt liệt. Đặng Thế Phong là một thiên tài, nhưng vẫn không có được cuộc sống sung túc giữa cố đô Thăng Long lúc bấy giờ vì nhạc và tranh dù có hay, có đẹp đến mấy chăng nữa cũng chẳng có mấy ai mua. Thời ấy, chính quyền bảo hộ Pháp có mở một phòng triến lãm tranh tại hội Khai Trí Tiến Đức, khu Bờ Hồ Hoàn Kiếm. Sau lễ khai mạc được ông Đốc Lý thành phố Hà Nội đến cắt băng, người ta thấy những người đến xem tranh phần rất lớn toàn là ông Tây, bà đầm, còn người Việt thì đúng là lơ thơ tơ liễu buông mành, nhìn kỹ thấy toàn là các quan ta, những công chức cao cấp, giới trí thức, thượng lưu chứ chẳng thấy một dân thường nào! Ngoài ra, thời bấy giờ chính quyền Pháp có tổ chức mở phòng triển lãm là bảo trợ cho các hoạ sĩ Pháp trưng bày tranh của mình còn hoạ sĩ Việt Nam thì số người lọt được vào, ta có thể đếm trên đầu ngón tay. Đến nhạc thì nếu có in, mỗi lần xuất bản cũng chỉ in nhiều nhất là 500 bản, dân chúng chưa yêu chuộng nhạc cải cách (tân nhạc) nên dù có thực tài thì cũng không thể có được một cuộc sống sung túc nếu nhờ vào sức lao động nghệ thuật!
Đặng Thế Phong phải chịu một cuộc sống khó khăn, chật vật trong "kiếp con tằm đến thác vẫn còn vương tơ" cho đến đầu năm 1942, ông từ giã cõi đời tại căn gác hẹp ở phố Hàng Đồng Nam Định vì bệnh lao màng (tuberculose péritonique), hưởng dương 24 tuổi, tuổi son trẻ, đầy thơ mộng, sắp bước vào thời xây dựng sự nghiệp (tam thập nhi lập).
Cuộc đời của Đặng Thế Phong thật quá ngắn ngủi nhưng đời sống tinh thần của ông rất phong phú và thi vị.. Nhờ thế mà tuy sáng tác chỉ có ba bài :
Con Thuyền Không Bến, Đêm Thu, Giọt Mưa Thu
Nhưng bài nào cũng trở thành vĩnh cửu, qua hơn nửa thế kỷ vẫn là những bài hay nhất của làng nhạc Việt Nam. Nhạc hứng chân thành đều phát xuất từ con tim, vì thế mà sáng tác của ông có hồn, đi vào lòng người và sống mãi ! Qua Đặng Thế Phong, ta chứng minh được văn nghệ tính phẩm chứ không tính lượng (quý hồ tinh bất quý hồ đa) . Con người làm văn nghệ viết được một câu để đời đã là khó, được một tác phẩm để đời là đáng mãn nguyện lắm rồi . Với âm nhạc, người chuyên sư? dụng một nhạc cụ cho thật điêu luyện được tôn kính hơn là người biết sử dụng nhiều thứ đàn, chẳng thế nào có được một thứ thật tuyệt hảo. Về sáng tác cũng vậy, làm cho nhiều, cố nặn cho lắm, thê? điệu nào cũng có bài thì dù viết cả ngàn bài chưa chắc đă có lấy một bài có giá trị nghệ thuật và vĩnh cửu! Chỉ sáng tác có ba bài thôi, Đặng Thế Phong đã sống mãi trong lòng mọi người, chắc chắn là hơn người có cả ba trăm bài mà chẳng có một bài nào để người ta nhớ ! ............ ......... ......
Với nghệ thuật nói chung, âm nhạc nói riêng, muốn thành công là phải có tài năng thiên phú chứ không thể nhờ vào thời gian, kiên nhẫn, sách vở, trường lớp hay bằng cấp mà đạt được! Vì thế chúng tôi dám tôn vinh Đặng Thế Phong là một thiên tài của làng nhạc Việt, thật không ngoa.
Cuộc đời Đặng Thế Phong đã có được một mối tình thật chung thủy tuyệt đẹp : Khi còn ở Nam Định, Đặng Thế Phong đã đem lòng yêu một thiếu nữ buôn bán ở Chợ Sắt, chợ duy nhất và lớn nhất của thành phố. Cô này không đẹp nhưng lại rất có duyên. Sau nhiều ngày đi chơi chợ, Đặng Thế Phong đã lọt vào mắt mỹ nhân. Cặp tình nhân trai tài, gái đảm đã dìu nhau vào cuộc tình thật trong sáng và cao thượng! Điều đáng ca ngợi là chàng nhạc sĩ tài hoa ho. Đặng không bao giờ đụng chạm đến đồng tiền của người yêu, dù cho người đẹp, tên Tuyết, nhiều lần khôn khéo bày tỏ lòng mình muốn giúp chàng. Những buổi chiều trời quang, mây tạnh hay gió mát, trăng thanh, hai người đều dìu nhau trên những con đường ngoại ô để tâm tình. Thời bấy giờ, nhiều thanh niên rất ngưỡng mô. Đặng Thế Phong, khi biết mối tình của cặp Phong - Tuyết, đều mến trọng và tôn kính là một cuộc tình lý tưởng!
Đặc biệt nhất là mấy cô gái phố Hàng Đồng, gia đình rất khá giả tỏ lòng yêu mến Đặng Thế Phong, nhưng ông vẫn một lòng yêu cô Tuyết, dù cô không đẹp bằng mấy cô kia . Có một hôm, mấy cô kia đang đứng nói chuyện với nhau thấy Đặng Thế Phong đi qua, với lối đi có vẻ vội vã. Thấy bóng ông, mấy cô ngưng bặt, rồi chẳng cô ai bảo cô nào, tất cả ánh mắt đều hướng về ông như dán chặt vào người ông vậy. Khi Đặng Thế Phong vừa bước tới ngang chỗ các cô thì một giọng nói đầy hờn dỗi pha thêm mai mỉa, được nói lớn lên, cố ý cho Đặng Thế Phong nghe thấy:
- Mấy chị đứng dịch ra, người ta đi vội kẻo trễ hẹn.
Đặng Thế Phong nghe rõ nhưng coi như điếc, cứ rảo bước như không có gì xảy ra. Đến nơi hẹn, gặp cô Tuyết đã đứng chờ, Đặng Thế Phong kể cho cô nghe vụ vừa bị chọc ghẹo. Cô Tuyết không nói gì mà chỉ tủm tỉm cười với ánh mắt nhìn người yêu thật là trìu mến. Về nhà, Đặng Thế Phong không nói ra với anh chị em mà thầm thì kể cho ông chú họ, cùng lứa tuổi, là ông Nguyễn Trường Thọ biết thôi . Ngoài ra, ông còn kể cho ông Thọ nghe chuyện cô Tuyết có một chàng thông phán trẻ, đẹp trai, có tiền, có địa vị, làm ơ? Tòa Đốc Lý thành phố theo đuổi, còn nhờ cả hai người mai mối nhưng cô nhất quyết khước từ , bất chấp cả lời dị nghị của mọi người, nhất là gia đình cố ý gán ghép.
Năm 1940, Đặng Thế Phong phải tạm xa cô Tuyết để lên Bắc Giang ít ngày. Ai đã đến Bắc Giang là biết thị xã này có con sông Thương, một con sông có hai dòng nước, bên đục, bên trong. Kẻ viết bài này, lúc bé học ơ? Bắc Giang, vào những ngày hè nóng bức, cùng bạn bè ra sông bơi. Đứng từ trên cầu ra tháp nước khá cao, nhìn thấy rõ hai dòng nước đục trong rõ rệt ! ở Bắc Giang, một buổi tối trăng sao vằng vặc, Đặng Thế Phong đã cùng bạn bè thuê thuyền cấm sào rồi cùng nhau chén chú, chén anh hàn huyên mọi chuyện. Đang lúc đang vui thì có người ra dưa cho Đặng Thế Phong một bao thư. Ông ngưng ngay chuyện trò và vào trong khoang, lấy bao diêm ra đốt lửa để coi thư và đây đúng là thư của cô Tuyết, từ thành Nam gửi lên cho ông. Đọc xong thư, ông có vẻ buồn và suy nghĩ. Bạn bè thắc mắc nên hỏi, được ông cho biết thư báo tin cô Tuyết nhuốm bệnh cả tuần rồi và nhớ ông lung lắm nên có lẽ ông phải về Nam Định gấp! Chính đêm này, lúc đêm sắp tàn, Đặng Thế Phong thao thức không sao chợp mắt được, đã ngồi dậy sáng tác được tác phẩm Con Thuyền Không Bến buồn não ruột:
Đêm nay thu sang cùng heo may
Đêm nay sương lam mờ chân mây
Thuyền ai lờ lững trôi xuôi giòng
Như nhớ thương ai trùng tơ lòng...
.. Lướt theo chiều gió
Một con thuyền theo trăng trong
Trôi trên sông Thương nước chảy đôi dòng
Biết đâu bờ bến?
Thuyền ơi thuyền trôi nơi nao
Trên con sông Thương nào ai biết nông sâu?...
Hai hôm sau Đặng Thế Phong từ giã bạn bè, rút ngắn thời gian để về Nam Định. Được tin Đặng Thế Phong đã về, cô Tuyết thấy bệnh thuyên giảm rất nhanh. Và tối hôm sau hai người hẹn gặp lại nhau. Lúc ấy miền Bắc đang vào Thu, gió heo may kéo về mang cái lạnh. Tối hôm ấy trăng lên muộn, trời tối gió nhẹ làm cho hai người thấy thích thú đi bên nhau đê? sưởi ấm lòng nhau sau bao ngày xa cách. Dìu nhau đến nơi cũ, Đặng Thế Phong ghé sát tai cô Tuyết, hát nhẹ nhàng, giọng rạt rào tình cảm như rót vào tai cô bài Con Thuyền Không Bến mà ông vừa sáng tác trong một đêm trắng trên sông Thương vì thương nhớ cô. Khi hát xong, Đặng Thế Phong phải lấy khăn tay ra nhẹ nhàng lau hai giòng lệ đang từ từ chảy xuống má cô với lòng xúc động không kém! Lúc ra về, Đặng Thế Phong nói: Làm được một bài nhạc nhờ em, nay về được hát cho em là người đầu tiên nghe, thế là anh sung sướng lắm rồi!
Cô Tuyết cũng đáp lại lòng tri kỷ: Là một người đàn bà tầm thường như em mà đã làm cho anh có được một bài hát thì với em đó là một vinh dự , một hạnh phúc thật cao sang, không phải ai ở trên đời cũng có được ! Tình anh trao cho em thật trọn vẹn, thật bất diệt, chắc chắn không bao giờ hình ảnh anh bị phai mờ trong tim trong óc em được, bây giờ và mãi mãi.. Đến lúc ấy chi. Hằng mới ló mặt ra dịu dàng nhìn xuống trần thế và chứng giám hai người yêu nhau đang đứng sát bên nhau sau khi đã uống cạn lời nói của nhau. Sau hôm ấy, Đặng Thế Phong mới cho phổ biến rất hạn chế trong đám thanh niên tỉnh nhà bài Con Thuyền Không Bến, được mọi người yêu chuộng nên rất nhiều người biết đến.
Chính vì thế mà có một người ở Hà Nội mới mời Đặng Thế Phong lên Hà Nội để hát tại rạp chiếu bóng Olympia bài hát của mình. Trong buổi ấy, Đặng Thế Phong ra sân khấu hát Con Thuyền Không Bến đầy xúc động vì ngay ở hàng ghế đầu, cô Tuyết đã bỏ hẳn một ngày chợ để lên Hà Nội nghe người yêu hát bài làm vì mình và cho mình! Riêng với Đặng Thế Phong, ông xúc động là phải vì với số khán giả đông đảo không đáng ngại mà là trong lòng ông thầm nghĩ hát hôm nay rất cần và chỉ cần để một người nghe là đủ nên phải mang hết tài trí ra biểu diễn sao cho thành công ! Hát xong, khán giả vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt.
Sau một thời gian ở Bắc Giang, ông nhuốm bệnh. Vì lúc đó bệnh lao là nan y nên ông dấu mọi người, ai biết đều sợ bị lây nhiễm không hiểu sao cô Tuyết biết được. Cô Tuyết rất tế nhị và khôn khéo hỏi Đặng Thế Phong:
- Sao dạo này em thấy anh gầy và xanh lắm, Anh có bệnh gì không mà em thấy sút lắm ! Anh đi nhà thương khám và thuốc men, cho khoẻ để mình còn tính đến tương lai!
Ông ậm ừ cho qua Từ đó cô Tuyết âm thầm tìm mọi cách để giúp người yêu trong lúc nhà nghèo bệnh trọng. Đặng Thế Phong cũng đến nhà thương để khám bệnh. Sau khi dò hỏi, biết bệnh của ông, cô Tuyết nhân quen với một số y sĩ (médecin indochinois) làm ở nhà thương, mua thuốc rồi nhờ ông ta nhận là thuốc của nhà thương, ông lấy cho Đặng Thế Phong.
Thuốc bệnh lao lúc ấy vừa hiếm lại vừa đắt, cô Tuyết không những không ngại tốn kém, mà còn thường xuyên gặp Phong để săn sóc một cách kín đáo, kể cả không sợ bị lây . Về phần Đặng Thế Phong thì ông không hề biết thuốc là của cô Tuyết mua cho mình.
Trong các cuộc tình cao đẹp của văn nghệ sĩ , có hai nữ lưu đáng để người đời ca tụng : cô Tuyết biết người yêu bị bệnh nan y, rất dễ lây, Mộng Cầm biết Hàn Mặc Tử bị bệnh phong cùi, vừa ghê sơ. vừa dễ lây thế mà hai ngườí đã có tình yêu chân thật, chung thủy, không những không sợ mà còn hết lòng chăm sóc, thuốc men cho đến ngày tử biệt ! Thật hiếm hoi và cao quý vô cùng !
Mùa xuân năm 1941, cô Tuyết cùng Phong từ Nam Định lên Hà Nội dể tiễn chân và tạm biệt Đặng Thế Phong vào Sài Gòn (rồi đi Nam Vang). Ở kinh đô xứ Chùa Tháp, ơ? Hòn Ngọc Viễn Đông một thời gian thấy cuộc sống cũng không được thoải mái như ý mong muốn, Đặng Thế Phong trở về Hà Nội . Về lần này, Đặng Thế Phong không về Nam Định mà thuê một căn gác hẹp tường cây, mái lá ở làng trồng hoa Ngọc Hà, vùng ngoại ô thành phố Hà Nội . Đặng Thế Phong ở chung với chú là ông Nguyễn Trường Thọ. Bệnh tình Đặng Thế Phong tái phát ngày một nặng vì người bị bệnh này phải mua thuốc men đầy đủ, phải nghỉ ngơi và ăn uống tẩm bô? tối đa mà những điều phải ắt có và đầy đủ này, với Đặng Thế Phong không thể có được. Chính vì thế mà không tuần nào là cô Tuyết không lên thăm và lo chữa bệnh cho Đặng Thế Phong.
Tháng Bảy mưa ngâu tầm tã, rả rích suốt ngày này sang ngày nọ, tháng này qua tháng khác, gió lạnh kéo về, nhà thì tường cây, mái lá, lạnh buốt lọt xương, cuộc sống kham khổ khiến bệnh tình Đặng Thế Phong ngày càng trầm trọng. Từng cơn ho làm rũ người, tiếp đến những cơn thổ huyết làm cho Đặng Thế Phong ngày một sút hẳn đi . Một mình trên giường bệnh, Đặng Thế Phong nhớ gia đình thì ít mà nhớ người yêu thì nhiều . Thân xác thì bệnh tật khó qua, tâm trí thì luôn luôn phải vật lộn với trăm ngàn ý nghĩ và hình ảnh cuộc tình tươi đẹp nên bệnh mỗi lúc một tăng. Còn đâu những cuộc hẹn hò thơ mộng, quên làm sao được những lời thủ thỉ ân tình và hy vọng gì ở những ước vọng được thành đôi chim nhạn tung trời mà bay, tất cả đã được Đặng Thế Phong ngày đêm day dứt , tiếc thương, muốn níu kéo lại thì cũng chẳng còn gì dể bám víu !
Đặng Thế Phong đã mang lấy nghiệp vào thân thì đời con tằm đến thác cũng còn vương tơ, tránh sao thoát khỏi cái lưới trời thưa mà khó lọt ấy ? Chính vì lẽ ấy mà Đặng Thế Phong đã thực sự thê? hiện được câu các cụ đã dạy cọp chết để da, người ta chết để tiếng, dù cuộc đời ông ngắn ngủi với 24 mùa lá rụng, một cuộc đời ngắn đến nổi đo chửa đầy gang!
Thế rồi, một hôm mưa rơi tầm tã, giọt mưa lộp bộp trên mái lá, thánh thót từng giọt xuống đường, Đặng Thế Phong buồn quá, con tim như thắt lại, máu trào lên để có được một nhạc hứng lai láng, tràn trề khiến ông gượng ngồi dậy viết một hơi điệu nhạc buồn da diết, não nề. Ông viết xong bèn đặt tên cho sáng tác mới ấy là Vạn Cô? Sầu . Chập tối ông Thọ về có thêm dăm người bạn đến thăm, Đặng Thế Phong ôm đàn hát cho mọi người nghe . Nét mặt của mọi người nín thở nghe, đều buồn như muốn khóc. Nghe xong, ai nấy đều khen bài hát thật hay, xoáy vào tim vào óc nhưng cái tên bài bi thảm quá, nên sửa lại thì hơn. Chính vì thế mà Đặng Thế Phong, đổi tên là Giọt Mưa Thu . Có lẽ đây là cái điềm báo trước, là lời di chúc tạ từ nên Đặng Thế Phong lấy mưa ngâu, mùa mưa là giòng nước mắt tuôn chảy lênh láng của Chức Nữ với Ngưu Lang để ví cuộc tình Phong - Tuyết cũng phải cùng chung số phận phũ phàng giống vậy chăng ?
Đến một ngày cuối năm 1941, biết mình khó qua khỏi lưỡi hái của tử thần, Đặng Thế Phong mới ngỏ ý trở về Nam Định để được chết tại quê nhà và muốn ông Thọ dìu ông về. Về nhà, lần này cô Tuyết đích thân đến hàng ngày để chăm sóc, thuốc men cho Đặng Thế Phong, không ngại mệt mỏi và không sợ nguy hiểm đến bản thân mình. Những người quen biết đến thăm, thấy cảnh ấy đều mũi lòng và khâm phục lẫn mến thương cuộc tình cao quý, chung thủy của cặp Phong -Tuyết.
Không biết có phải là tại thần giao cách cảm hay không mà một hôm, nhạc sĩ Bùi Công Kỳ đột nhiên từ Hà Nội về Nam Định thăm Đặng Thế Phong lại vừa đúng lúc Đặng Thế Phong sắp lìa đời . Trên giường bệnh, phút lâm chung, không nói gì được với nhau, Bùi Công Kỳ ôm đàn hát cho Đặng Thế Phong nghe một lần chót bài Giọt Mưa Thu, Giọng hát Bùi Công Kỳ vừa dứt thì mọi người nhìn thấy Đặng Thế Phong mở cặp mắt nhìn như ngỏ lời chào vĩnh biệt rồi nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng.
Một vì sao Bắc Đẩu của làng nhạc Việt Nam, vừa ló dạng trên bầu trời đã vụt tắt gây niềm xúc động mãnh liệt và niềm thương tiếc vô bờ trong lòng mọi người ! Trong tang lễ, nam nữ thanh niên của thành Nam đã lũ lượt kéo nhau đi , chật cả phố phường đê? tiễn đưa Đặng nhạc sĩ đến nơi an nghỉ cuối cùng với rất nhiều cặp mắt rưng rưng lệ ! Cô Tuyết xin phép và được cả hai gia đình, mặc đại tang, đúng như một người vợ trong tang lễ chồng, thật là cảm động.
Năm 1960, tại Phú Nhuận, tôi được tiếp một thiếu phụ chưa hề quen biết. Sau lời chào hỏi, bà tự giới thiệu tên là Tuyết, người Nam Định, di cư vào Nam hiện ơ? Ban Mê Thuộc. Nhân lần vô tình đọc trên báo Tư. Do, thấy quảng cáo trước cuốn Nhạc sĩ danh tiếng hiện đại (tập II) của tôi sắp xuất bản, viết về năm nhạc sĩ trong đó có Đặng Thế Phong, nên bà về gặp tôi để xin tôi cho bà mượn hình của cố nhạc sĩ, chụp lại để về thờ. Trước kia, bà đã có nhưng lúc sắp di cư tấm ảnh đó bị thất lạc, kiếm mãi không sao thấy . Tôi vội lấy ảnh đưa ngay . Cậu cháu đi theo bà mang ngay ra tiệm hình ở đầu hẻm chụp gấp lấy ngay, xong trở vào gửi trả lại tôi . Trong lúc cậu cháu đi chụp hình, tôi có hỏi bà về chuyện tình tươi đẹp như bài thơ trong sáng như trăng mười sáu thì bà Tuyết xác nhận những điều tôi biết là đúng và còn bổ sung cho tôi thêm ít nhiều chi tiết . Bà cũng không quên nói lên điều thắc mắc là tại sao tôi biết rõ thế ? Tôi nói thật ngay là được ông chú Nguyễn Trường Thọ cho tôi mượn ảnh, kể rành rẽ cuộc đời ái tình của Đặng Thế Phong cho tôi nghe . Bà cười và nói :
- Chú Thọ tuy là chú nhưng cùng tuổi với anh Phong, nên hai người vừa là chú cháu vừa có tình bạn bè nên trong gia đình chỉ có chú Thọ là được anh Phong tâm sự mà thôi . Thảo nào ông biết quá rõ, quá đúng và quá đủ ! sau lời cám ơn và trước khi ra về, bà Tuyết còn nói với tôi câu cuối cùng, đến nay đã 35 năm rồi, tôi vẫn còn nhớ :
- Cho đến ngày hôm nay, và mãi mãi về sau, tôi tôn thờ anh Phong và đời tôi luôn luôn thương nhớ anh ấy với tất cả cái gì trân trọng nhất.
Viết ra những giòng trên đây, tôi xin được phép coi là nén hương lòng, suy tôn một bậc đàn anh khả kính và khả ái . Tuy anh đã ra người thiên cổ hơn nửa thế kỷ rồi nhưng những Con Thuyền Không Bến, Đêm Thu, Giọt Mưa Thu vẫn là những vì sao tinh tú sáng rực trên bầu trời ca nhạc. Thể xác anh có thê? trở về hư không nhưng tinh anh vẫn còn lại muôn đời với giang sơn gấm vóc này . Cuộc đời con người ta, sinh ký, tử quy đó là luật muôn đời của tạo hoá nhưng khi sống cho ra sống, lúc về được qua Khải Hoàn Môn, khi cất ba tiếng khóc chào đời, mọi người hân hoan cười mừng đón ta, khi nhoẻn miệng cười để lìa đời, mọi người thương tiếc khóc ta, thế mới thật là sống, mới đáng sống ! Anh đã vĩnh viễn ra đi nhưng tất cả những thế hệ hậu sinh, dù chưa được biết anh, khi hát những bài hát bất hủ của anh để lại, đều tưởng nhớ đến anh, một thiên tài mà ta có thể nói anh là một MOZART của Việt Nam, với tất cả tấm lòng kính mến trang trọng nhất !
Tôi cả tin rằng, dưới suối vàng. anh cũng có thể mỉm cười mãn nguyện. Hiển linh, anh về chứng giám và nhận cho nén tâm nhang này.
MÙA THU VÀ THI CA
             Sắc màu  thu đã gieo nhiều cảm hứng cho hồn thơ tứ nhạc . Nhiều bài thơ  , bản nhạc viết về THU dù đã trải qua bao năm tháng phôi pha vẫn in đậm nét trong lòng người thưởng lãm . Là người yêu nhạc (loại nhạc có air “bán cổ điển”) , ai mà không thuộc các bản “Buồn tàn thu” của Văn Cao, “Giọt mưa thu”, “Đêm thu”  ,  “Con thuyền không  bến”…của Đặng Thế Phong , “Thu quyến rũ” của Đoàn Chuẩn Từ Linh ,” “Thu ca”  của Phạm Mạnh Cương  ..v.v….Đặc biệt , bản “Mùa thu Chết” của Phạm Duy , bản nhạc hay nhưng có nhiều thắc mắc về xuất xứ của ca từ .Bản nhạc này lấy ý của bài thơ “ L’ADIEU” của Guillaume Appolinaire , điều này có lẽ được nhiều người chấp nhận . Tuy nhiên lời Việt của bản nhạc “Mùa thu chết” thì không ít ý kiến cho rằng  là do chính thi sĩ Bùi Giáng chuyển ngữ từ nguyên tác tiếng Pháp bài “L’ADIEU” nói trên , Phạm Duy chỉ phổ nhạc mà thôi . Để nhìn nhận cho khách quan , ta thử đối chiếu nguyên tác với bản dịch của Bùi Giáng và lời nhạc của Phạm Duy .

 a/ Bài thơ của Appolinaire :
L'ADIEU
J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t'attends
 GUILLAUME APPOLINAIRE
  
  b/ Bản dịch của thi sĩ Bùi Giáng :
LỜI VĨNH BIỆT
Ta ngắt đi một cành hoa thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tương phùng được nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó...
                          BÙI GIÁNG

c/ Ca từ trong bản “Mùa thu chết” của Nhạc sĩ Phạm Duy :
 

MÙA THU CHẾT

Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi !
Mùa Thu đã chết, em nhớ cho
Mùa Thu đã chết, em nhớ cho
Mùa Thu đã chết, đã chết rồi. Em nhớ cho !
Em nhớ cho,
Đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa!
Trên cõi đời này, trên cõi đời này
Từ nay mãi mãi không thấy nhau
Từ nay mãi mãi không thấy nhau...
Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi !
Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo
Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ em.
Vẫn chờ em, vẫn chờ em
Vẫn chờ....
Vẫn chờ... đợi em !

        PHẠM DUY

       Như vậy , xem hai bản dịch nói trên ,chúng ta thấy , chỉ có 2 câu đầu tiên là  giống  nhau thôi , thi sĩ Bùi Giáng chuyển ngữ tựa đề “LỜI VĨNH BIỆT” rất sát với nguyên ngữ “L’ADIEU”, trong bản dịch  ông có dùng từ Hán Việt  : “tương phùng”, “mộng trùng lai”,  toàn  bài   dịch hơi  thoát   ( thêm câu  “Mộng trùng lai không có ở trên đời” ) .   Riêng nhạc sĩ Phạm Duy thì trừ cái tựa bài nhạc “Mùa thu chết” là dịch khác với nguyên ngữ , còn lại lời nhạc hoàn toàn dịch khá sát với nguyên tác . Lời dung dị nhưng cảm động .Thú thật tôi thích lời nhạc của Phạm Duy hơn . Phạm Duy  khi phổ nhạc thì ở phần  ca từ  có thể chuyển dịch vị trí  các câu thơ và có thể thay đổi từ ngữ , nhưng nhờ vậy bản nhạc có sắc thái riêng làm cho bài thơ được phổ nhạc có sức sống mới và được giới yêu nhạc đón nhận nồng nhiệt , chính ngay nhiều tác giả có thơ được phổ nhạc cũng đồng tình như thế .Riêng Bùi Giáng , chính trong bài “Lời vĩnh biệt “ ông lại chuyển dịch  thêm  2 ,3 … lần nữa, thậm chí chuyển dịch ra lại tiếng Pháp .Tôi sẽ đề cập tới trong phần sau
                                                                                                      La Thụy

BÙI GIÁNG  DỊCH BÀI  THƠ “ L’ADIEU”  NHIỀU CÁCH

Bùi Giáng
                            Đi vào cõi thơ
(Apollinaire, Quang Dũng, Huy Tưởng, Bùi Giáng, Kiên Giang, Nguyễn Du và Hegel, Tản Đà, Walt Whitman, Emily Dickinson, Dylan Thomas, Tạ Ký, Thùy Dương Tử)
 1   2   3   4   5 
 
Apollinaire
Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi


L’Adieu


J’ai cueilli ce brin de bruyère
L’automme est morte souviens-t’en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t’attends.

                         Apollinaire

Và nhớ nhé! Ta đợi chờ em đó,

Bài thơ chỉ vẽn vẹn chỉ có năm câu. Năm câu phiêu hốt mang thiên nhiên nằm giữa nền thi ca Tây Phương Hiện Đại – năm câu cũng đồ sộ như toàn khối Đường Thi Trung Hoa hay mấy vần tứ tuyệt của một Thôi Hộ.
Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng được nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó…

Dịch ra làm sáu câu, tôi có phần áy náy. Nhưng không biết phải làm sao. Cái chất đạm nhiên bát ngát trong bài thơ Apollinaire đang trừ khử hết mọi lối dịch diễn dịch di, dịch tinh, dịch thể.

Cứ thử liều một trận xem sao.
Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ chẳng nhìn nhau trên đất nữa
Hương thời gian nhành thạch thảo tí hon
Và nhớ nhé ta đợi chờ em nhé…

Cũng tạm gọi là được.

Nếu ta đem bài thơ bát ngát kia đặt vào giữa nguồn thơ mênh mông của Apollinaire ắt ta dám dịch nó ra làm lục bát Huy Cận, lục bát Nguyễn Du hoặc làm thất ngôn Du Nguyễn.
Đã hái nhành kia một buổi nào
Ngậm ngùi thạch thảo chết từ bao
Thu còn sống sót đâu chăng nữa
Người sẽ xa nhau suốt điệu chào
Em nhớ anh quên và em cũng
Quên rồi khoảnh khắc rộng xuân xanh
Thời gian đất nhạt mờ năm tháng
Tuế nguyệt ta đà nhị hoán tam.

Dịch như thế là diễn giải một mùi hương ẩn tàng trong nếp gấp. Nhưng đâu có cần gì.

Nếu như cần, thì tớ cứ buông bừa bút mực viết bừa thơ.
Mùa thu chết liễu nhớ chăng em?
Đã chết xuân xanh suốt bóng thềm
Đất lạnh quy hồi thôi hết dịp
Chờ nhau trong Vĩnh Viễn Nguôi Quên

Thấp thoáng thiều quang mỏng mảnh dường
Nhành hoang thạch thảo ngậm ngùi vương
Chờ nhau chín kiếp tam sinh tại
Thạch thượng khê đầu nguyệt điểu mang

Xa nhau trùng điệp quan san
Một lần ly biệt nhuộm vàng cỏ cây
Mùi hương tuế nguyệt bên ngày
Phù du như mộng liễu dài như mơ

Nét my sầu tỏa hai bờ
Ai về cố quận ai ngờ ai đi
Tôi hồi tưởng lại thanh kỳ
Tuổi thơ giọt nước lương thì ngủ yên.

Dịch ra như vậy thì tiếp giáp với bài thơ “Je me souvienns”:
Je me souviens de mon enfance
Eau qui dormait dans un verre
Avant les tempêtes l’espérance
Je me souviens de mon enfance

Tôi hồi tưởng tuổi thơ ngày trước
Đáy ly nào giọt nước ngủ yên
Trước khi giông bão muộn phiền
Giậy cơn hy vọng cuối miền thơ ngây.

Je songe aux métamorphoses
 Qui s’épanouissent dans un verre
 Comme l’espoir et la tristesse
Je songe aux métamorphoses

 C’est ma destinée que je lis
Dans les reflets incertains
 Les jeux sont faits rien ne va plus
 C’est ma destinée que je lis
Tôi nghĩ tới tháng ngày chuyển dịch
Những thay hình đổi dạng mở phơi
Trong ly nước mộng tuyệt vời
Với sầu dao động nỗi đời giao thoa

Linh hồn định mệnh âm ba
Bóng vang khép mở đầu hoa mơ hồ
Hỡi ôi dâu biển xô bồ
Hồn trong định mện bây giờ đọc ra.

                          
(Sương Bình Nguyên)
( Trích « Đi vào cõi thơ » của Bùi Giáng )


Thứ Bảy, 24 tháng 10, 2009

KHÔNG ĐỀ -NTLH

KHÔNG ĐỀ 

Nguyễn Thị Liên Hưng                                                 

Em mười bảy tuổi nhiều năm trước
Sao đến bây giờ ngỡ mười ba?
Ngu ngơ trong gió chiều thổi ngược
Hoàng hoa mấy cánh vướng hiên nhà
 
Đêm hoa soan rụng anh mười chín
Bao năm gặp lại bỗng mười lăm
Sao băng qua trời còn bịn rịn
Quỳnh hương lấp loáng ánh trăng rằm
 
Tương phùng một thoáng hồn bé lại
Dẫu đường thiên lý lắm xa xăm
Dẫu vó ngựa hồng còn đi mãi
Hương tình phảng phất đến trăm năm...

Liên Hưng khg muốn mình là người ra đi cuối cùng chắc vì :
     Trên thế gian còn anh
      Một nhà thơ rất thẩn
      Em sợ anh lạc đường
      Cứ vòng vo lẫn quẫn
      Ôm bồ lương đánh vật
      Với ô làng trái soan
      Nhưng hoa soan thềm cũ
      Sắp rụng từ thu sang
      Em biết anh vẫn còn
      Nên mần răng đi trước
      Thơ ơi răng thì mược
      Hai đứa cùng lên xe ...
     Vậy là love story ( tưởng tượng thôi) " Tình Ô làng" kết thúc rất chi là có hậu có tình. Út Hưng ơi chờ nhé, hội hai ngàn năm không.
                                                     Quang Tuyết

Thứ Sáu, 23 tháng 10, 2009

Thủ phủ các Chúa Nguyễn1558-1775...













Thủ phủ các chúa Nguyễn (1558-1775) và vai trò của chúng đối với sự phát triển của Đàng Trong

Thế kỷ XVI đến XVIII là một giai đoạn lịch sử rất đặc biệt của Việt Nam với những biến động to lớn trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Từ sự khủng hoảng và suy yếu của chế độ phong kiến tập quyền triều Lê đã dẫn đến những cuộc nội chiến khốc liệt giữa những thế lực khác nhau trong chính giai cấp thống trị, khiến cho đất nước bị chia cắt kéo dài. Bên cạnh đó, tác động mạnh mẽ của các trào lưu khu vực và của thế giới như di dân, trao đổi thương mại, truyền bá Ki-tô giáo... đã góp phần tạo nên những thay đổi lớn lao của Việt Nam hồi ấy, mà tiêu biểu là sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế hàng hóa, sự mở cửa của nền kinh tế từ Bắc chí Nam cùng sự ra đời của hàng loạt phố cảng men theo miền duyên hải đất nước. Và đi cùng những thay đổi về mặt kinh tế, trật tự xã hội truyền thống đã bị phá vỡ, tư tưởng-đạo đức Nho giáo vốn được xem là tư tưởng-đạo đức chính thống để cai trị thiên hạ cũng bị khủng hoảng và lung lay dữ dội...





1. Đặt vấn đề: Từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa đến các thế hệ con cháu của ông, do nhu cầu tồn tại đồng thời do bị thúc đẩy bởi các động cơ về chính trị và kinh tế, quá trình Nam tiến nhằm mở rộng lãnh thổ đất nước đã diễn ra mạnh mẽ gấp bội phần so với các thế kỷ trước. Hệ quả là chỉ 200 năm, nước ta đã có lãnh thổ hoàn chỉnh cơ bản như hiện nay.

Trên nền của bối cảnh lịch sử ấy, Đàng Trong đã hình thành và phát triển như một vương quốc độc lập, tạo nên hình ảnh một nước Việt Nam khác ở phía nam với những bản sắc văn hóa mới, phong phú và đa dạng. Chính sự đối đầu với Đàng Ngoài của vua Lê-chúa Trịnh đã làm Đàng Trong của chúa Nguyễn phát triển nhanh chóng, mà đầu não quyết định sự phát triển ấy là các thủ phủ.

Trong hơn 200 năm tồn tại (1558-1775), Thủ phủ của Đàng Trong đã trải qua 8 lần dời dựng thay đổi vị trí từ Ái Tử (1558-1572), Trà Bát (1572-1600), Dinh Cát (1600-1626) đến Phước Yên (1626-1636), Kim Long (1636-1687), Phú Xuân lần thứ nhất (1687-1712), Bác Vọng (1712-1738) và Phú Xuân lần thứ 2 (1738-1775). Trong tham luận dưới đây, cùng với việc giới thiệu về các thủ phủ chúa Nguyễn, chúng tôi sẽ phân tích vai trò ảnh hưởng của chúng đối với sự hình thành và phát triển của Đàng Trong.

2. Các thủ phủ chúa Nguyễn, từ Ái Tử đến Phú Xuân

 Tám lần dời dựng thay đổi vị trí của các thủ phủ có thể phân làm 2 thời kỳ lớn: Thời kỳ gắn liền với khu vực Ái Tử-Quảng Trị trước khi Đàng Trong ra đời (1558-1626) và thời kỳ gắn liền với hệ sông Hương-Thừa Thiên Huế khi Đàng Trong đã hình thành và phát triển như một vương quốc độc lập.

 2.1. Thời kỳ thủ phủ  gắn liền với khu vực Ái Tử-Quảng Trị

 Đây là thời kỳ tạo dựng cơ sở ban đầu ở vùng đất Thuận Hóa và Quảng nam của Nguyễn Hoàng (1558-1611) và Nguyễn Phúc Nguyên (1611-1635). Lúc này, họ Nguyễn chưa ra mặt công khai chống lại triều Lê-Trịnh. Trong 68 năm này, thủ phủ của chúa Nguyễn đã thay đổi vị trí 3 lần, từ Ái Tử (1558-1570) đến Trà Bát (1570-1600), rồi Dinh Cát (1600-1626), nhưng vẫn gắn liền với khu vực sông Ái Tử-Thạch Hãn.

 Khảo sát của chúng tôi cho thấy, Ái Tử, Trà Bát và Dinh Cát đều nằm trên một địa bàn khá hẹp thuộc xã Triệu Giang, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Toàn bộ vùng đất trên được giới hạn bởi ba dòng sông Thạch Hãn,  Ái Tử và sông Vĩnh Phước. Tổng hợp  từ các nguồn tư liệu lịch sử và kết quả khảo sát thực tế chúng tôi đã xác định vị trí, quy mô của 3 dinh trấn đầu tiên như sau:
-Dinh Ái Tử: Trung tâm của dinh đóng tại Cồn Cát, trên đó có Cồn Kho. Thủ phủ này hướng mặt về phía đông nhưng hơi chếch về đông-bắc, tức gần như thẳng góc với sông Thạch Hãn. Trước mặt dinh có Chợ Hôm Ái Tử, phía tây bắc có Mô Súng, Tàu Tượng. Xung quanh có vòng tường thành bao bọc đắp đơn sơ bằng đất, cát hoặc hàng rào bằng tre, gỗ. Vòng tường (hoặc hàng rào) này có giới hạn về phía tây-bắc ở vị trí Thành Ao, còn các phía khác có thể chỉ đến hết chân cồn cát này.

- Dinh Trà Bát: Trung tâm của thủ phủ thứ hai này nằm tại khu vực chùa Liễu Bông mà ở trên chúng tôi đã xác định vị trí. Vòng tường luỹ có lẽ sẽ men theo bờ sông Ái Tử chạy quanh co ở mặt nam và mặt tây. Ở phía tây bắc và phía bắc, vòng tường luỹ (hoặc hàng rào) của thủ phủ có lẽ chạy men theo chân đồi cát (tức Cồn Dinh), giáp với các đồng ruộng trồng lúa nước. Còn ở mặt đông, vòng tường luỹ (hoặc hàng rào) ấy cắt ngang khoảng 1/2 Cồn Dinh-đoạn cồn cát này bỗng nhiên thấp hẳn xuống mà hiện nay đã xuất hiện một dòng sông cạn, dấu vết của nước sông Ái Tử băng qua trong mùa lũ lụt. Hướng của thủ phủ là hướng chính nam hoặc đông nam, tức hướng về phía sông Ái Tử chứ không phải về phía sông Thạch Hãn. Bên trong vòng luỹ này có một số địa danh là Xưởng, nằm phía tây và tây bắc.

- Dinh Cát: Trung tâm của Dinh Cát nằm tại khu vực Phủ Thờ, ở phần phía đông của Cồn Dinh. Thủ phủ này hướng mặt về phía đông-nam, thẳng góc với dòng sông Thạch Hãn. Vòng tường luỹ bằng đất cát (hoặc hàng rào bằng tre, gỗ) của Dinh Cát chạy men theo bờ sông Thạch Hãn và sông Ái Tử ở phía đông và phía nam. Ở phía tây và phía bắc, nó cắt qua 1/2 Cồn Dinh (gần trùng với ranh giới tường luỹ phía đông của dinh Trà Bát) và chạy ra hết chân Cồn Dinh, giáp các ruộng lúa. Trước mặt Dinh Cát, tức khu vực Ghềnh Phủ Phước Châu, xưa kia là bến cảng và có thể có cả chợ.

 Nhìn chung, 3 thủ phủ đầu tiên của chúa Nguyễn trên đất Quảng Trị về danh nghĩa thì chỉ là những dinh trấn của một viên tướng trấn thủ nơi biên ải, nhưng thực chất chúng đã mang tính chất của một trung tâm chính trị mới ở vùng đất phía Nam. Cùng với việc thiết lập và xây dựng các trung tâm đầu não này, Nguyễn Hoàng, và sau đó là Nguyễn Phúc Nguyên đã ra sức phát triển vùng đất Thuận Quảng, chuẩn bị lực lượng để mưu đồ một cơ nghiệp riêng. Vì vậy Ái Tử, Trà Bát và đặc biệt là Dinh Cát đã là nơi hội tụ không chỉ sức mạnh về quân sự mà còn bao hàm cả sức mạnh tổng hợp về kinh tế, xã hội...của đất Thuận Quảng. Chính dựa trên thành quả đó chúa Nguyễn Phúc Nguyên mới đủ tự tin ra mặt chống lại triều đình Lê- Trịnh. Quá trình xây dựng 3 thủ phủ đầu tiên này cũng để lại nhiều kinh nghiệm quý cho việc xây dựng các thủ phủ ở giai đoạn sau.

 2.2. Thời kỳ thủ phủ gắn liền với hệ sông Hương

 Năm 1626, Nguyễn Phúc Nguyên cho dời thủ phủ vào làng Phước Yên bên dòng sông Bồ. Năm sau, 1627, đại chiến giữa họ Nguyễn và họ Trịnh bùng nổ, Đàng Trong chính thức ra đời. Trong gần 150 năm (1626-1775), thủ phủ của họ Nguyễn đã có thêm 5 lần thay đổi dời dựng nữa, nhưng chúng đu gắn liền với hệ sông Hương của đất Thừa Thiên Huế (bao gồm sông Bồ và sông Hương).

 2.2.1. Thủ phủ Phước Yên (1626 - 1636)

Thủ phủ Phước Yên được thành lập năm 1626, được xác định nằm gọn trên địa bàn làng Phước Yên, thuộc huyện Quảng Điền, cách thành phố Huế khoảng 12km về phía bắc, đông - bắc. Cả ba mặt: Đông, Tây và Nam của làng được bao bọc bởi một chi lưu lớn của sông Bồ. Đây là một vị trí quan trọng trên con đường Thiên Lý Bắc-Nam cũ.

Tuy thủ phủ của chúa Nguyễn chỉ từng đóng ở Phước Yên 10 năm  và đã gần 360 năm trôi qua nhưng các dấu tích của một thời thủ phủ vẫn còn rất đậm nét. Qua quá trình nghiên cứu khảo sát cùng các kết quả thám sát khảo cổ học, chúng tôi đã xác định được quy mô của thủ phủ Phước Yên và thể hiện bằng sơ đồ.

Kết quả nghiên cứu về thủ phủ này cho thấy, chúa Nguyễn đã thể hiện ý đồ xây dựng Phước Yên theo hướng một đô thị. Đây là một bước chuyển biến lớn lao trong quá trình phát triển của các thủ phủ, được bắt đầu tính từ Ái Tử... Như vậy, Phước Yên đã được chuẩn bị các tiền đề về phát triển đô thị cho thủ phủ Kim Long sau đó.

2.2.2 Thủ phủ Kim Long (1636-1687)

Thủ phủ này được thành lập đầu năm 1636 tại vùng đất làng Kim Long dưới chân chùa Thiên Mụ. Đây là vùng đất được bao quanh bởi ba dòng nước: sông Hương, sông Kim Long và sông Bạch Yến, được đánh giá là hoàn hảo về phong thủy, tiện lợi về giao thông và đặc biệt phù hợp để phát triển kinh tế.

Nghiên cứu các nguồn tài liệu và khảo sát thực tế kết hợp với kết quả thám sát khảo cổ học, chúng tôi đã xác định được các dấu tích liên quan đến thủ phủ Kim Long.

Các dấu tích này đều tập trung trên địa bàn Tiền thôn của làng Kim Long. Từ đó, chúng tôi đã xác định vị trí, quy mô của thủ phủ Kim Long bằng sơ đồ.

Qua sơ đồ này chúng ta có thể thấy, thời Kim Long là thủ phủ của Đàng Trong, mô hình đô thị cổ đã hoàn chỉnh với hai trung tâm lớn là Kim Long và Thanh Hà. Kim Long là thủ phủ của chúa Nguyễn, là đầu não về chính trị, quân sự và hành chính của Đàng Trong, được người nước ngoài gọi là “thành phố lớn”. Cảng thị Thanh Hà, được hình thành gần như đồng thời với phủ Kim Long, cách Kim Long 7 km về phía hạ lưu sông Hương, thì bấy giờ đóng vai trò là một trung tâm giao dịch thương mại có tầm cỡ quốc tế, nhằm đáp ứng các nhu cầu về ngoại giao, kinh tế cho phủ chúa cũng như trên toàn khu vực Huế.

2.2.3. Thủ phú Phú Xuân lần thứ nhất (1687-1712)

 Sau hơn 50 năm tồn tại ở Kim Long và dù nơi đây đã được kiến thiết thành một "đô thị lớn", thủ phủ các chúa Nguyễn lại tiếp tục quá trình di chuyển, dời dựng để mong tìm được một vị trí "đắc địa hơn". Thủ phủ mới đã được thành lập vào mùa thu năm 1687 tại làng Phú Xuân ở phía hạ lưu sông Hương. Đây là vùng đất có nhiều ưu thế hơn so với Kim Long.

Căn cứ vào các nguồn tư liệu, nhất là các bản đồ cổ cùng với việc khảo sát trên thực tế, chúng tôi đã xác định vị trí thủ phủ Phú Xuân lần thứ nhất tại góc đông nam của Kinh thành, tại vị trí mà Lê Quý Đôn từng ca ngợi là "chỗ nổi bật giữa đất bằng, ngồi vị càn trông hướng tốn, dựa ngang sống đất, trông xuống bến sông".

Từ những kết quả nghiên cứu, chúng tôi đã phác họa thủ phủ Phú Xuân thời kỳ 1687-1712 bằng sơ đồ. Căn cứ vào sơ đồ này có thể thấy, ngay trong thời kỳ mới được khai sinh, đô thị Phú Xuân-Huế đã có những bước phát triển rất cơ bản. Đó là sự mở rộng quy mô đô thị, là sự thắt chặt và phát triển yếu tố thị đi đôi với sự củng cố phần đô. Phú Xuân vẫn thể hiện sự kế thừa và phát triển của thời kỳ Kim Long để bảo đảm được vai trò là trung tâm hàng đầu về chính trị, quân sự, hành chính, kinh tế của Đàng Trong trong tình hình mới.

2.2.4. Thủ phủ Bác Vọng (1712-1738)

Thủ phủ Bác Vọng được thành lập đầu năm 1712 tại làng Bác Vọng, huyện Quảng Điền, cách cựu phủ Phước Yên không xa lắm về phía bắc.

Căn cứ vào các nguồn tư liệu, kết quả khảo sát thực tế và cả công tác thám sát khảo cổ học, chúng tôi đã xác định được vị trí, quy mô của thủ phủ này.

Kết quả khảo sát và nghiên cứu về thủ phủ Bác Vọng cho thấy đây chỉ đơn giản là một trung tâm đầu não về chính trị hành chính của Đàng Trong. Bác Vọng thuần tuý chỉ mang tính chất của một khu vực đô chứ không có phần thị. Quy mô và cách bố trí của thủ phủ chúa Nguyễn thời kỳ này gần tương tự như thời kỳ Phước Yên (1626-1636). Nó thiếu hẳn sự kết hợp với phần thị kiểu như thời kỳ phủ chúa đóng ở Kim Long, Phú Xuân. Trong thời gian tồn tại đây là nơi đóng phủ chính của chúa Nguyễn Phúc Chu và Nguyễn Phúc Chú. Chức năng chủ yếu của thủ phủ này là chức năng chính trị: nơi ở và làm việc chính của chúa cùng triều đình của ông. Bác Vọng hoàn toàn không phải là một đô thị và chúa Nguyễn cũng không hề có ý định xây dựng nơi đây trở thành một đô thị.

2.2.5. Thủ phú Phú Xuân lần 2 (1738-1775)

Thủ phủ Phú Xuân được tái lập vào năm 1738 trên đất Vương đảo, thuộc địa phận làng Phú Xuân. Đây là vùng đất được phát triển liên tục từ năm 1687, dù có một thời gian (1712-1738) không giữ vai trò thủ phủ của Đàng Trong. Năm 1744, chúa nguyễn đổi tên phủ thành Đô Thành và sau đó xây dựng nó trở thành một đô thị quy mô của Đàng Trong.

Từ những thông tin về tư liệu khá phong phú và kết quả khảo sát thực tế, chúng tôi đã xác định vị trí, quy mô của Đô Thành Phú Xuân.  Qui hoạch đô thị của Đô thành Phú Xuân đã khá hoàn chỉnh và về cơ bản, nó đã tương tự như qui hoạch kinh đô Huế đầu thế kỷ XIX. nhưng mức độ tập trung và qui mô đô thị còn nhỏ hơn.

 Đô thành Phú Xuân là giai đoạn sau cùng trong quá trình 8 lần dời dựng thay đổi thủ phủ của chúa Nguyễn. Những mô tả của các tư liệu lịch sử cũng như các dấu vết trên thực địa cho thấy, Đô thành không chỉ có quy mô lớn nhất mà còn là một đô thị hoàn bị nhất về mọi mặt so với các thủ phủ trước đó. Chính vì lí do này, các triều đại sau đó vẫn sử dụng Đô thành làm trung tâm của miền Trung (quân đội Lê Trịnh), hay làm kinh đô của cả nước (triều Tây Sơn).

Nhìn chung, sau khi rời bỏ lưu vực sông Ái Tử trên đất Quảng Trị với 3 dinh trấn đầu tiên (Ái Tử, Trà Bát và Dinh Cát), các chúa Nguyễn đã chuyển thủ phủ vào lưu vực sông Bồ, nhưng quá trình dịch chuyển các thủ phủ chưa kết thúc mà nó còn trải qua đến 5 lần thay đổi, dời dựng nữa, đó là các thủ phủ: Phước Yên, Kim Long, Phú Xuân lần 1, Bác Vọng và Phú Xuân lần 2. Dù trải qua đến 5 lần thay đổi, nhưng thực chất các thủ phủ của chúa Nguyễn đều gắn bó với hệ thống sông lớn nhất của vùng Thừa Thiên Huế là hệ sông Hương. Hình thức, qui mô của thủ phủ có sự thay đổi theo hướng phát triển, ngay cả tên gọi của chúng cũng có sự thay đổi: Sau thời kỳ Dinh trên đất Quảng Trị (Dinh Ái Tử, dinh Trà Bát, Dinh Cát), từ khi chuyển vào khu vực Thừa Thiên Huế, thủ phủ của chúa Nguyễn đã được nâng cấp lên thành Phủ (thời kỳ Phước Yên, Kim Long, Phú Xuân lần 1, Bác Vọng), rồi lên mức cao nhất là Đô Thành (thời kỳ Phú Xuân lần 2).

 Tính chất đô thị của các thủ phủ cũng có sự thay đổi theo hướng phát triển. Khi còn gắn liền với hệ thống sông Thạch Hãn- Ái Tử, các dinh Ái Tử, Trà Bát và Dinh Cát (từ năm 1558-1626), thủ phủ mới chỉ là những trấn dinh hoàn toàn mang tính chất quân sự. Yếu tố đô thị (thể hiện qua sự kết hợp giữa phần “Đô” và phần “Thị”) chỉ xuất hiện và phát triển bắt đầu từ thời kỳ Phủ Phước Yên (1626-1636) và càng về sau càng phát triển mạnh. Qua thời kỳ Đô thành Phú Xuân (1738-1775), thủ phủ của chúa Nguyễn đã là một đô thị tầm cỡ của Đàng Trong, được qui hoạch chu đáo với các ý đồ rất rõ ràng. Có thể nói, tư tưởng qui hoạch đô thị của thời kỳ Đô thành Phú Xuân đã có nhiều điểm tương đồng với thời kỳ sau nó - thời kỳ Huế trở thành Kinh đô của cả nước Việt Nam thống nhất, đầu thế kỷ XIX.

3. Vai trò của các thủ thủ đối với quá trình hình thành và phát triển của Đàng Trong

Nghiên cứu sự hình thành, phát triển của các thủ phủ, chúng tôi cũng đánh giá vai trò và ảnh hưởng của chúng đối với sự ra đời và phát triển của Đàng Trong trên hai khía cạnh chính:

- Tác động trực tiếp đối với quá trình đô thị hóa khu vực Thuận Hóa cùng sự ra đời của đô thị Huế;

- Tác động đối với sự ra đời, phát triển của Đàng Trong trên các lĩnh vực phát triển lãnh thổ, xây dựng phát triển nền kinh tế, phát triển văn hóa, xã hội.

3.1. Vai trò thủ phủ đối với quá trình đô thị hóa khu vực Thuận Hóa cùng sự ra đời của đô thị Huế

Trong thời kỳ đầu tiên, khi gắn liền với hệ thống sông Thạch Hãn, các thủ phủ Ái Tử, Ái Tử, Trà Bát rồi Dinh Cát vẫn mang đậm tính chất của những trung tâm quân sự, chính trị và chưa xuất hiện các yếu tố cơ bản của một đô thị. Chỉ từ khi thủ phủ của chúa Nguyễn được gắn liền với hệ sông Hương thì một mô hình đô thị gắn kết vai trò đầu não về chính trị, quân sự với vai trò một trung tâm kinh tế, văn hóa mới thực sự định hình.

 Thực ra, Nguyễn Hoàng với tầm nhìn chiến lược của mình đã phát hiện ra vai trò đặc biệt của vùng đất ở hạ lưu sông Hương. Năm 1601, ông cho dựng chùa Thiên Mụ để “bền long mạch, bồi tụ linh khí”. Năm 1602, ông lại cho trùng tu chùa Sùng Hóa ở phía hạ lưu. Những công việc này hoàn toàn không phải ngẫu nhiên mà thực chất là một sự chuẩn bị lâu dài cho cơ nghiệp của họ Nguyễn. Vùng đất từ chùa Thiên Mụ đến chùa Sùng Hóa (đối diện với Thanh Hà-Bao Vinh) chính là khoảng không gian mới dọc sông Hương mà Nguyễn Hoàng đã phát hiện và giới hạn cho đô thị Huế sau đó. Kế thừa ý nguyện của Nguyễn Hoàng, cháu nội ông là Nguyễn Phúc Lan đã chọn lựa và xây dựng thủ phủ ngay dưới chân chùa Thiên Mụ. Thủ phủ Kim Long (1636-1687) đã được quy hoạch và xây dựng khá chỉn chu, trở thành một “đô thị lớn” của Đàng Trong hồi bấy giờ. Thủ phủ Kim Long đã có sự kết hợp chặt chẽ giữa phần Đô (Kim Long) với phần Thị (cảng Thanh Hà), giữa trung tâm đầu não chính trị với trung tâm tín ngưỡng tôn giáo (chùa Thiên Mụ), giữa trung tâm đô thị với hệ thống làng nghề thủ công bao quanh... Chính vì điều này mà thời kỳ Kim Long đã được xem là thời kỳ đầu tiên của đô thị Huế, năm 1636 đã được xem là mốc thành lập của thành phố Huế.

  Đến thời kỳ thủ phủ Phú Xuân (1687-1712), mà đặc biệt là giai đoạn Đô thành Phú Xuân (1752-1775), thủ phủ của chúa Nguyễn mới thực sự được quy hoạch và xây dựng một cách bài bản với đầy đủ các yếu tố của một đô thị phương Đông điển hình. Đồng thời đây cũng là giai đoạn kiến tạo và định hình phong cách đô thị Huế với những đặc trưng nổi bật, như đô thị phong thủy, đô thị nhà vườn… mà sau này, khi xây dựng lại kinh thành Huế, triều Nguyễn đã kế thừa trọn vẹn.

 Trong việc xây dựng các thủ phủ gắn liền với sông Hương, việc kế thừa truyền thống và tạo lập bản sắc đô thị Huế được thể hiện rất nổi bật. Đây là công việc được nhiều đời chúa Nguyễn kế tục nhau thực hiện. Thành tựu của quá trình này được thể hiện trên nhiều phương diện mà chủ yếu là:

- Ứng dụng và phát triển cách qui hoạch “đô thị giữa hai dòng sông” và định hướng cho đô thị theo trục Tây bắc-Đông nam.

- Kết hợp mô hình đô + thị với sự phát triển của các hoạt động thương mại.

 - Sáng tạo và đặt cơ sở cho phong cách quy hoạch đô thị nhà vườn.

- Quy hoạch đô thị với các yếu tố phong thủy.

3.2. Vai trò thủ phủ đối với sự ra đời, phát triển của Đàng Trong trên các lĩnh vực phát triển lãnh thổ, xây dựng chính quyền, phát triển nền kinh tế, phát triển văn hóa, xã hội.

 3.2.1. Sự ra đời và phát triển của các thủ phủ gắn liền với quá trình Nam tiến và phát triển của Đàng Trong

 Công cuộc Nam tiến mở rộng lãnh thổ là một trong những đặc điểm nổi bật của lịch sử Việt Nam trong giai đoạn từ thế kỷ XVI đến XVIII mà kết quả của nó đã làm thay đổi cả diện mạo đất nước. Công cuộc Nam tiến đã gắn bó chặt chẽ với vị trí, vai trò của các thủ phủ ở Đàng Trong. Từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa (1558) cho đến khi chúa Nguyễn cuối cùng phải rời bỏ đất này để chạy vào Nam trước sự tấn công của quân đội Lê Trịnh (1775), họ Nguyễn đã luôn luôn lựa chọn Thuận Hóa làm nơi đóng đô. Sự thay đổi các vị trí đóng thủ phủ tuy xảy ra đến 8 lần nhưng đều gắn liền với 3 hệ thống sông lớn thuộc địa bàn 2 tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế, là hệ thống sông Thạch Hãn, hệ thống sông Bồ và hệ thống sông Hương, và đều nằm trong khu vực trung tâm của trấn Thuận Hóa hồi bấy giờ. Quá trình dịch chuyển vị trí của các thủ phủ luôn gắn liền với công cuộc Nam tiến của người Việt trong thời kỳ này và bản thân các vị trí đó tuy cũng có xu hướng dịch chuyển về phía Nam.

Nhưng khoảng cách của sự dịch chuyển ấy về cơ bản không phải là lớn, chỉ giới hạn trong khoảng cách chừng 60km (từ Ái Tử đến Phú Xuân). Như vậy, cùng với công cuộc Nam tiến để mở rộng lãnh thổ, đảm bảo cho sự tồn tại cùng tương lai của họ Nguyễn, sự Nam tiến “chút ít” của các thủ phủ chỉ là nhằm đảm bảo sự an toàn cho trung tâm chính trị của mình. Còn nhìn trên tổng thể, các thủ phủ của chúa Nguyễn chưa bao giờ rời bỏ đất Thuận Hóa.

 3.2.2.Thủ phủ với công cuộc phát triển kinh tế của Thuận Hóa và Đàng Trong

Như đã trình bày, quá trình xây dựng và phát triển của các thủ phủ đều gắn liền với quá trình xây dựng, phát triển của vùng đất Thuận Hóa và cùng với nó là quá trình hình thành, phát triển của cả Đàng Trong. Đây cũng là điều dễ hiểu, bởi trong mối quan hệ trên, nếu xem các thủ phủ là những hạt nhân, thì Thuận Hóa là cơ sở, là vỏ bọc trực tiếp của các hạt nhân ấy, còn Đàng Trong là môi trường tổng thể để nuôi dưỡng và phát triển các hạt nhân trên. Ngược lại, chính sự hình thành và phát triển của các thủ phủ với vai trò là trung tâm đầu não của cả xứ sở đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của Thuận Hóa và của cả Đàng Trong. Bởi vậy, ngay từ khi thủ phủ đang còn ở quy mô nhỏ, hoặc mang đậm tính chất quân sự thì chúng vẫn có tác động quyết định đến sự phát triển chung của Đàng Trong bằng những mệnh lệnh và chính sách cụ thể phát ra từ đây.

 Đối với nền kinh tế, trước hết, các chúa Nguyễn chú trọng phát triển nền nông nghiệp để ổn định đời sống nhân dân, đảm bảo đầy đủ binh lương để đối phó với các cuộc tấn công của thù trong giặc ngoài.

 Và cùng với việc phát triển nền nông nghiệp, các ngành thủ công nghiệp cũng được quan tâm chú ý phát triển để phục vụ cho các nhu cầu của phủ chúa, cho các yêu cầu chung của xã hội, đặc biệt là để đáp ứng cho việc phát triển thương nghiệp và phục vụ chiến tranh.

 Nhưng ngành kinh tế có vai trò quan trọng trong việc biến đổi toàn diện bộ mặt của Đàng Trong, khiến vùng đất mới này trở nên hùng mạnh và đứng vững trước những cuộc tấn công của quân đội Lê- Trịnh từ Đàng Ngoài lại là thương nghiệp.

 Như vậy, chính chủ trương xây dựng và phát triển kinh tế với vai trò chủ đạo của các thủ phủ đã tạo nên cơ sở sức mạnh vững chắc cho họ Nguyễn, khiến họ tạo lập được một vị thế chính trị hùng mạnh trong cuộc chiến tranh giành quyền lực diễn ra hàng thế kỷ.

 3.2.3. Các thủ phủ và việc xây dựng chính quyền chúa Nguyễn

 - Chính quyền trung ương tại thủ phủ

 Sự ra đời của Đàng Trong dĩ nhiên gắn liền với sự ra đời của chính quyền Đàng Trong và bộ máy chính quyền trung ương đều được thiết lập ngay tại các thủ phủ. Tuy nhiên, thời kỳ dinh chúa Nguyễn Hoàng đóng tại bờ sông Thạch Hãn (Ái Tử, Trà Bát, Dinh Cát), bộ máy trên vẫn mang tính chất một chính quyền địa phương của một viên tướng ngoài chốn biên viễn. Về cơ bản, nó vẫn được sắp đặt theo khuôn mẫu của triều Lê.

 Sau khi kế vị cha, ngay từ năm 1614, Nguyễn Phúc Nguyên đã quyết định cải cách bộ máy cai trị của vùng đất mới theo xu hướng một chính quyền riêng, độc lập với Đàng Ngoài. Chính quyền trung ương của họ Nguyễn từ thời Nguyễn Phúc Nguyên đến năm 1744-thời điểm Nguyễn Phúc Khoát xưng vương hiệu và cải cách lại hệ thống chính quyền-về cơ bản được thiết lập theo cơ cấu như sau: Chúa Nguyễn là người đứng đầu với chức danh “Tiết chế thủy bộ chư dinh kiêm Tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự”, nghĩa là nắm quyền tổng chỉ huy quân đội và quyền chỉ huy mọi công việc đối nội đối ngoại. Bên dưới có 4 vị “Tứ trụ đại thần” giúp chúa cai quản các phương diện công việc. Dưới nữa là Tam Ty với 3 cơ quan trực thuộc là ty Xá Sai, ty Tướng Thần Lại và ty Lệnh Sử (tại thủ phủ thì có thêm ty Nội Lệnh Sử và ty Lệnh Sử Đồ Gia) với chức quan đứng đầu là Đô tri, Ký lục, Cai bạ, Nha úy. Có thể nói, cơ cấu chính quyền trung ương của các chúa Nguyễn lúc đầu khá gọn nhẹ và thể hiện tính tập trung quyền lực rất cao. Tuy nhiên, mô hình chính quyền trung ương của các chúa Nguyễn trên thực tế đã được xây dựng và phát triển dần chứ không phải hoàn chỉnh ngay từ thời Nguyễn Phúc Nguyên. Năm 1744, Nguyễn Phúc Khoát xưng vương và tiến hành cải tổ, sắp xếp lại bộ máy chính quyền trung ương thành một vương triều thực sự. Cùng với triều đình chúa Nguyễn, tại thủ phủ luôn luôn tập trung một lực lượng lớn lực lượng quân đội và những người phục vụ, tạo nên vẻ đông đúc, đô hội của thủ phủ, nhất là từ thời Kim Long trở đi. Bộ máy này chính là đầu não của Đàng Trong, chỉ huy mọi hoạt động của vùng đất mới phía Nam, tách biệt hẳn với chính quyền Lê-Trịnh ở Đàng Ngoài.

 - Chính quyền cấp cơ sở

Cùng với quá trình nam tiến, các đơn vị hành chính mới liên tục được thiết lập. Đến năm 1744, Đàng Trong đã được tổ chức lại thành một vương quốc với 12 dinh và một trấn, kéo dài từ Quảng Bình đến Hà Tiên.

Bên dưới dinh, trấn (tương đương với cấp tỉnh) là các đơn vị phủ-huyện-tổng-xã (miền núi và ven biển thì có đơn vị thuộc) với hệ thống quan chức đặc thù.

3.3.4. Xây dựng các cơ sở để tạo lập bản sắc văn hóa vùng đất mới

Vai trò này thể hiện trên hai khía cạnh chủ yếu:

- Thủ phủ đóng vai trò là trung tâm trong việc kế thừa và phát huy các yếu tố văn hóa truyền thống của dân tộc.

Từ đầu thế kỷ XIV, sau cuộc hôn nhân chính trị Huyền Trân - Chế Mân cho mãi đến sau này, những lớp di dân Nam tiến người Việt, dù đi tới vùng đất nào vẫn mang theo tâm thức văn hóa truyền thống. Hướng về cội nguồn đất Bắc cũng đồng nghĩa với tình yêu đất nước và quê hương. Tâm thức văn hóa truyền thống Việt cũng chính là cơ sở về mặt tinh thần giúp họ trụ vững trên miền đất mới mà không bị đồng hóa ngược bởi nền văn hóa bản địa, như trường hợp dân tộc Mãn Thanh sau khi vào Trung Nguyên. Nhưng phải từ khi họ Nguyễn vào đất Thuận Hóa trở về sau, những truyền thống văn hóa tinh thần mới được xây dựng một cách có định hướng mạnh mẽ. Cùng với việc thờ cúng tổ tiên tục thờ Thành Hoàng được khuyến khích. Những ngôi đình làng được dựng nên khắp nơi để cố kết nối quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng. Các chúa Nguyễn còn hết sức xiển dương và tạo mọi điều kiện cho Phật giáo Đại Thừa, một tôn giáo quen thuộc của người Việt, gây dựng ảnh hưởng trong xứ sở của mình. Chúa Nguyễn “không xóa bỏ các truyền thống Việt Nam khác: đặc biệt họ sùng kính đạo Phật phái Đại thừa, coi đó là những nền tảng cho những nhu cầu về ý thức và tâm linh đối với dòng họ cầm quyền. Đạo Phật là chỗ dựa cho ý thức dân tộc Việt Nam và củng cố vị thế hợp pháp của họ Nguyễn” [7: 187].

Từ thời kỳ Phước Yên đóng vai trò là thủ phủ của Đàng Trong trở về sau, họ Nguyễn đã dần dần công khai ý đồ thành lập một vương quốc riêng, ly khai với Đàng Ngoài.

Các thủ phủ-kinh đô của “vương quốc” mới này đã được xây dựng với phong cách khá đặc trưng nhưng vẫn là một “đô thị giữa hai dòng sông” theo mô thức truyền thống của phần lớn đô thị Việt ở đồng bằng Bắc Bộ. Và mô hình này đã được nhân rộng và áp dụng cho hầu hết các đô thị của Đàng Trong. Thêm nữa, triều đình họ Nguyễn từ Kim Long đến Phú Xuân dù đã cố gắng xây dựng những nghi thức, nghi vệ, cho riêng mình nhưng thực chất vẫn là sự mô phỏng các kiểu thức của triều đình nhà Lê ở miền Bắc. Và bản thân chúa Nguyễn, cho đến năm 1744, khi Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, công khai lập một nước riêng, thì vẫn coi mình là thần dân nước Việt, sử dụng niên hiệu của vua Lê trong tất cả các văn bản, giấy tờ.

Ở một lĩnh vực khác là lễ nhạc cung đình, chúa Nguyễn cũng đều dựa trên truyền thống nghi lễ và âm nhạc dân tộc. Trong thời kỳ phủ chúa đóng ở Phước Yên, Nguyễn Phúc Nguyên đã gặp Đào Duy Từ, một nhân tài của đất Bắc nhưng không được họ Trịnh trọng dụng vì xuất thân từ gia đình ca kỹ. Đào Duy Từ đã giúp chúa Nguyễn không chỉ về binh bị mà còn về việc xây dựng lễ nhạc cung đình.

Như vậy, các thủ phủ vẫn đóng vai trò trung tâm trong sự kế thừa và phát huy các truyền thống của dân tộc trên vùng đất mới. Điều đáng nói là sự kế thừa ấy mang tính linh hoạt và có sự sáng tạo rất cao nên các truyền thống văn hóa Việt ngày càng có thêm sức mạnh và khả năng hòa nhập. Bởi vậy, nền văn hóa xứ Đàng Trong, dù đã được họ Nguyễn cố tình xây dựng theo một mô hình mới, thì vẫn là một nền văn hóa Việt với tâm thức luôn luôn gắn bó và hướng về cội nguồn. Bởi vậy, dù bị các tập đoàn phong kiến chia cắt đến 200 năm, nhưng ngay sau khi biên giới ngăn cách giữa hai miền Đàng Trong, Đàng Ngoài bị xóa bỏ, văn hóa hai miền Nam-Bắc đã nhanh chóng hòa hợp thống nhất.

- Tiếp quản và kế thừa các yếu tố văn hóa bản địa cùng các yếu tố văn hóa mới.

Một trong những đặc tính đã làm nên sức mạnh của văn hóa Việt là khả năng tiếp thu, chắt lọc những tinh hoa của nền văn hóa khác để biến thành cái của mình. Khi vào tiếp quản Thuận Hóa và dần dần chiếm lĩnh cả Đàng Trong, các chúa Nguyễn đã phải đương đầu với một bối cảnh xã hội hoàn toàn mới. Nền văn hóa bản địa vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn minh Ấn Độ của người Chăm, người Khmer và các dân tộc thiểu số có nhiều điểm khác xa với văn hóa Việt, vốn mang nặng ảnh hưởng của nền văn hóa Nho giáo. Tuy nhiên, các chúa Nguyễn đã khéo léo biết kế thừa, tiếp thu những điểm ưu việt hay có lợi trong nền văn hóa bản địa để phục vụ cho sự phát triển của mình.

Ngay từ khi mới vào trấn thủ xứ Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng đã rất  khôn ngoan tạo ra sự thừa nhận và ủng hộ của các vị thần bản địa đối với ông. Ở Ái Tử, ông được Thần sông báo mộng và bày cách để đánh bại Lập Bạo; đến Huế, ông lại tự coi mình là chân chúa theo lời truyền của bà tiên “quần xanh áo đỏ” hiện hình trên đồi Hà Khê, để từ đó mà khởi dựng chùa Thiên Mụ, củng cố vùng đất, chuẩn bị cho cơ nghiệp lâu dài cho dòng họ.

Điều đáng chú ý ở đây là Nguyễn Hoàng đã biết đồng hóa hình ảnh vị thần đất vĩ đại Po Nagar của người Chăm với hình ảnh một bà tiên của Đạo giáo (Thiên Mụ hay Thiên Mẫu) thân thuộc của người Việt cùng lời tuyên bố về vai trò đặc biệt của ông đối với tương lai vùng đất. Đây là một việc làm có ý nghĩa chính trị to lớn, một cách tuyệt vời để “bản địa hóa” và chính danh sự nghiệp của mình. Ngay sau khi được xây dựng, chùa Thiên Mụ đã trở thành biểu tượng của sự linh thiêng, biểu tượng của sự hòa hợp các loại hình tôn giáo tín ngưỡng tại địa phương, và cũng là biểu tượng cho sự ủng hộ của thần linh bản địa đối với họ Nguyễn.

Các thủ phủ chúa Nguyễn đều đặt trên những trung tâm cũ của người Chăm nhưng họ vẫn giữ lại những “Thành Lồi”, “Cồn Lồi”, “Miếu Giàng”… Qua một thời gian được Việt hóa, các vị thần linh được thờ ở đó đều trở thành những thần linh bản địa của người Việt, trở thành những thế lực phò giúp chúa Nguyễn về tâm linh. Chính sách khôn ngoan trên của chúa Nguyễn đã được ứng dụng từ các thủ phủ ra toàn bộ Đàng Trong và đã đạt được sự thành công tuyệt vời.

Như vậy, việc sử dụng Phật giáo Đại thừa với tư cách như một quốc giáo của chính quyền họ Nguyễn không chỉ nhằm làm chỗ dựa cho ý thức tư tưởng truyền thống Việt trên vùng đất mới mà còn là phương tiện để dung nạp các hệ tư tưởng và văn hóa mới, trong đó có việc kế thừa có chọn lọc các yếu tố văn hóa bản địa. Đối với công việc này, các thủ phủ thực sự đã nắm vai trò trung tâm trong việc hội tụ và tiếp biến các yếu tố văn hóa mới để hình thành nên sắc thái văn hóa đặc biệt của Đàng Trong.

Trong công trình nghiên cứu về lịch sử, kinh tế và xã hội của Đàng Trong, thế kỷ XVII-XVIII, Li Tana đã dành hẳn một chương để phân tích về nền văn hóa của xứ sở này và lấy tựa đề là: "Cuộc sống ở Đàng Trong: Hội nhập và sáng tạo". Bà cho rằng khi tiến xuống phía Nam, người Việt ở Đàng Trong đã tiếp xúc chặt chẽ với các dân tộc địa phương thuộc các nền văn hóa khác biệt. Đứng đầu trong số các dân tộc này là người Chăm. Các di dân người Việt đã tiếp nhận và thích nghi một cách thoải mái với nhiều yếu tố của nền văn hóa Chăm trong một quá trình dài vay mượn có chọn lọc cái mới và loại bỏ cái cũ không còn phù hợp nơi vùng đất mới. Tác động qua lại phong phú này cuối cùng đã cho ra đời một ý thức về bản sắc Việt Nam, cắm rễ sâu trong môi trường xã hội, văn hóa và tự nhiên của vùng đất mới ở phía Nam. [6: 193].

Cái mà Li Tana gọi là bản sắc văn hóa Việt Nam trên vùng đất mới chính là những sắc thái văn hóa đặc trưng mà những lớp di dân Việt đã tạo dựng được trên cơ sở các giá trị văn hóa truyền thống kết hợp với các giá trị văn hóa mới nhằm thích nghi với những điều kiện mới.

4. Thay lời kết

Với một quá trình lâu dài đóng vai trò trung tâm chính trị quân sự, văn hóa và cả kinh tế của Đàng Trong, các thủ phủ đã có vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của xứ sở này. Đây chính là đầu não của các cuộc chiến đấu và giành chiến thắng trong cuộc chiến với Đàng Ngoài, bảo vệ được cơ đồ của họ Nguyễn ở phương Nam.

Cũng từ đây, công cuộc Nam tiến diễn ra mạnh mẽ và hiệu quả, để lãnh thổ đất nước không ngừng được mở rộng. Đối với công cuộc đô thị hóa tại Thuận Hóa và Đàng Trong, từ các thủ phủ với chính sách ngoại thương rộng mở, với việc xây dựng một mô hình đô + thị tiêu biểu Kim Long - Thanh Hà - Hội An, hay Phú Xuân-Thanh Hà-Hội An... đã thực sự làm cho nền kinh tế hàng hóa trong toàn xứ có bước phát triển nhảy vọt, tạo cho Đàng Trong một diện mạo kinh tế thật phong phú và phồn thịnh. Các thủ phủ còn góp phần quan trọng trong việc kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, trên cơ sở đó lại có sự tiếp thu rộng rãi và linh hoạt các yếu tố văn hóa bản địa và yếu tố văn hóa ngoại lai để định hình nên những sắc thái văn hóa đặc biệt của Đàng Trong. Và như vậy, từ thế kỷ XVII trở đi, một trung tâm văn minh mới của người Việt đã ra đời ở phía Nam-trung tâm Phú Xuân Huế-như một sự đối sánh với trung tâm Thăng Long-Đông Đô trên đất Bắc. Còn vùng Thuận Quảng giàu có với thế mạnh đặc biệt về thương nghiệp đã trở thành một trung tâm kinh tế lớn, có thể so sánh với trung tâm kinh tế ở đồng bằng Bắc Bộ.

Riêng đối với Huế, các thủ phủ Kim Long-Phú Xuân cũng là những đô thị đầu tiên của người Việt gắn liền với dòng sông Hương. Với gần 140 năm tồn tại và phát triển (1636-1775), thời kỳ Kim Long-Phú Xuân đã đặt cơ sở và bước đầu định hình cho một phong cách Huế - không chỉ về đặc trưng đô thị mà còn bao hàm nhiều mặt của khái niệm văn hóa.

Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, sự phát triển của các thủ phủ không đảm bảo cho sự bền vững của chính quyền các chúa Nguyễn. Điều này không phải do các thủ phủ, mà do sự vận động chủ quan của tổ chức bộ máy vương quyền. Kể từ thế kỷ XVIII về sau, bộ máy tổ chức vương quyền họ Nguyễn đã bộc lộ nhiều yếu kém: cồng kềnh, bất hợp lý, tham nhũng, hủ bại... Sau cái chết của Nguyễn Phúc Khoát, các mâu thuẫn trong xã hội bị đẩy lên đến mức cao trào. Điều này đã khiến các chúa Nguyễn không đủ sức chỗng đỡ để tồn tại trước sự tấn công của họ Trịnh, của Tây Sơn, và cuối cùng bị diệt vong.

Vương quyền họ Nguyễn sụp đổ, nhưng thủ phủ-Đô thành Phú Xuân vẫn giữ vị trí trung tâm của vùng đất mới, và của cả nước dưới các triều đại kế tục: triều Tây Sơn, triều Nguyễn. Đặc biệt, từ năm 1802-1945, triều Nguyễn đã kế thừa và phát triển đô thị Phú Xuân-Huế lên một tầm cao mới, trở thành “một mẫu mực về kiến trúc đô thị” [2: 9] mà di sản của nó để lại đã được UNESCO vinh danh là Di sản Văn hóa Thế giới.

THƯ MỤC THAM KHẢO

1. A.D.Rhodes (1994), Hành trình và truyền giáo, bản dịch của Hồng Nhuệ, Tủ sách Đại Kết, Ủy ban Đoàn kết Công giáo Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Amadou Mahtar M’Bow (1999), “Vì công cuộc bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hóa của Thành phố Huế”, in trong sách Huế-Di sản Văn hóa thế giới, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế xuất bản, Huế.
3. Dương Văn An (1961), Ô châu cận lục, bản dịch của Bùi Lương, Văn Hóa Á Châu, Sài Gòn.
4. Christophoro Borri (1998), Xứ Đàng Trong năm 1621 (Cochinchina), bản dịch của Nguyễn Khắc Xuyên và Nguyễn Nghị, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Lê Quý Đôn (1977), Phủ biên tạp lục (Lê Quý Đôn toàn tập- tập I), Nxb KHXH, Hà Nội.
6. Li Tana (1999), Xứ Đàng Trong, lịch sử Kinh tế-Xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, Bản dịch của Nguyễn Nghị, Nxb Trẻ, TP HCM.
7. Li Tana (2001), “Xứ Đàng Trong thế kỷ XVII và XVIII -Một mô hình khác của Việt Nam”, In trong tập Những vấn đề lịch sử Việt Nam, Tạp chí Xưa & Nay - Nxb Trẻ, Hà Nội.
8. Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam Thực Lục, Tập I, Bản dịch Viện Sử học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
9. Thích Đại Sán (1963), Hải ngoại kỷ sự, Viện Đại học Huế- Ủy ban Phiên dịch sử liệu Việt Nam, Huế.

TS. Phan Thanh Hải (Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế).





* Nhắp đúp chuột vào các mục dưới sẽ đọc trực tiếp các mục của HSH .( Kiến thức Lịch sử) giúp ta hiểu rõ hơn....