Chủ Nhật, 20 tháng 6, 2010

Mái trường xưa -H.T.T.Tần


CHS: HỒ THỊ THỂ TẦN. 
Năm sinh:      1951
Niên khóa: 1964 - 1968
Trường TH.Triệu Phong
Quê gốc: Cổ Thành,Tr.Thành
Triệu Phong, Quảng Trị
Hiện ở :Chicago, Illinois, USA
 Thể Tần 2006- ảnh trên T.Tần 1968
MÁI TRƯỜNG XƯA

Sau một cuộc thi vào đệ thất,tôi đã trúng tuyển và được xếp vào lớp đệ thất 2   năm 1964 của trường trung học TRIỆU PHONG. Khuôn viên trường nằm trên một diện tích đất không rộng lắm,phía trước và hai bên lối đi vào cổng trường là những bờ ruộng xanh mát,phía bên trái là khu quân sự Quận Triệu Phong,bên phải gần trường nhất là làng Nại cửu,dọc theo con đường đất đỏ đi lên hướng cầu SÃI là quê hương của tôi:làng Cổ Thành,tôi ở không xa trường mấy nên hằng ngày đi học tôi đều đi bộ với nhiều bạn bè ở cùng xóm. Trong 4 năm học tâp dưới mái trường được sự quan tâm điều khiển của thầy hiệu trưởng Phan Thanh Thiên,cùng với những tấm lòng tận tuỵ dạy dỗ và dìu dắt của  các thầy cô,lớp tôi đã được học với thầy Tôn Thất Phú,cô Phạm Thị Như Hoàn,thầy Nguyễn Thiện Lữ,thầy Phan Thanh Thiên,thầy Nghi,cô Thanh,cô Hường vv...
Lớp tôi là lớp đệ thất 2 ban anh văn,trong lớp có 12 nữ và 20 nam.Bạn Võ Kham  là lớp trưởng của lớp tôi.
Tên 12 bạn nữ:                       
 -Nguyễn Thị Toán                          
-Hồ Thị Thể Tần                            
-Trần Thị Xuân                                     
-Hồ Thị Lành(chỉ học 2 năm)                   
-Đoàn Thị Thái                                      
-Cao Thị Dẫm                                 
-Tạ Thị Lan                                           
-Đỗ Thị Mai Lãnh(đã mất)                 
-Nguyễn Thị Sáo                             
-Trương Thị Lan                                     
-Lê Thị Thừa                                         
-Lê Thị Cháu                                         
Tên 20 bạn nam:                                                                        
-Võ Kham                           
-Võ   ỔI                                               
-Võ ẤM                                                                 
 -Sử Hạp                                                                
 -Lưu Chữ                                                                          
-Lê Bá Lư                                                
-Đặng Xuân Hùng                                                              
-Trịnh Đình Chính                                                       
-Trịnh Đình Dẫn            
-Đoạn Cường
-Hồ Công Lộc
-Hồ Văn Bôi
-Hồ Ngọc Tuý(đã mất)
-Hồ Ngọc Dũng
-Hồ Công Đạo
-Nguyễn Kim Kỳ
-Trần Văn Ký(con bác Thơm phu trường)
- Trần Văn Dân
-Lê Quang Sinh  
-..............Quý

 (Thành thật xin lỗi nếu tôi có quên bạn nào).
Lớp tôi đăc biệt có 4 bạn nam hay chọc ghẹo và phá phách các bạn trong lớp là Hồ Ngọc Tuý, Hồ Ngọc Dũng, Hồ Công Đạo và Nguyễn Kim Kỳ. Tuy vậy nhưng hồi đó trong lớp tôi ai cũng chăm chỉ  học tập và nơi đây tôi đã có biết bao kỷ niệm với thầy cô và bạn bè trong những  tháng ngày hồn nhiên của tuổi học trò. 
Hôm nay, trên trang sách này kính gởi đến quí thầy cô lòng ghi nhớ công ơn và lời chúc sức khoẻ của học trò Hồ Thị Thể Tần đến quí thầy cô. Riêng các bạn lớp đệ tứ 2, rất mong một ngày HỘI NGỘ sớm đến với tất cả   lớp chúng ta các bạn nhé.
                               Chicago.jun.20.10
                               Hồ Thị Thể Tần
 Thể Tần và Cô Phạm Thị Như Hoàn (2006)

Thầy Tôn Thất Phú ( đứng)
- cô Tiền phu nhân Thầy ( ngồi Trái)
Giữa :T.Tần còn lại 2 bạn của T.Tần (2006)


Nhắc lại chuyên xưa L.b.Hưng


NHẮC LẠI CHUYỆN XƯA
                          LÊ BÁ HƯNG
                                   DT:0975156413
Nguyên lớp trưởng CHS Triệu Phong từ 1961-1965
          (Thân tặng những người bạn yêu qúi)

Ngày tao ngộ mùa hè nơi Quảng Trị,
Tình Triệu Phong còn nóng bỏng Nam Lào,
Thực hay mơ mà cứ hỏi tại sao?
Giờ gặp lại hơn nưa đời xa cách.

Nhớ ngày xưa,nhớ mãi từng trang sách,
Tuổi học trò thuở ấy quá  ngây thơ,
Tuổi biết yêu sao còn lắm dại khờ,
Để ngày tháng trôi dần theo im lặng.

Ngồi bên nhau mà  gần như xa vắng,
Ngại bạn bè,trang lứa,sợ thị phi,
Chạm tay ai mà run rẫy đã nhiều khi,
Tình trong sáng,tinh khôi...e ngại lắm!

Tình học trò như sương mai,trái cấm,
Nếu chạm vào linh ứng sẽ bay đi,
Sợ cô đơn,bất hạnh sẽ tìm về,
Nên giữ mãi mối-tình-câm làm kỉ niệm.

Và hôm nay là một ngày qúi hiếm,
Gặp cô thầy,bằng hữu của ngày xưa,
Niềm hân hoan biết nói mấy cho vừa,
Nhưng chắc chắn sẽ nhắc hòai"câu chuyện cũ".

"Câu chuyện cũ" nói vầy...e có đủ?
Vì thời gian không mãi đợi chúng ta,
Viết lên đây để tặng bạn món quà,
Làm kỉ niệm thay cho "lời chưa nói".

Rồi mai đây trên nẻo đường muôn lối,
Đem chuyện xưa để nói với hậu sinh,
Chuyện của ai cũng là chuyện riêng mình,
Cũng ấp ủ,cũng thẹn thùng...lãng mạn!

                                                Tháng 3\2010


NHỮNG CHUYẾN ĐÒ ĐỜI
                                        LÊ BÁ HƯNG


                                        ĐT:0975156413


Bôn ba lưu lạc phương trời,
Ở đâu có được những lời sẻ chia?
Hôm nay ngày hội tìm về,
Gặp cô thầy củ mà nghe nức lòng.
Thầy Thiên ,thầy Phú ,thầy Phong,
Thầy Tiêu ,thầy Kế ,thầy Phòng ,thầy Quang,
Thầy Nghi ,thầy  Lữ,thầy Nam,
Cô Gái ,cô Tĩnh ,cô Hòan ,cô Thanh,
Thầy Thông,thầy Bính,thầy Trình,
Những tên tuổi dạy chúng mình Triều Phong.
Bao năm lòng mãi dặn lòng,
"Tôn sư trọng đạo" mới mong nên người.
Những lần qua bến đò đời,
Rưng rưng nhớ chuyến đò thời thầy đưa.
50 năm trước...ngày xưa...
Bây giờ tao ngộ,bây giờ...bâng khuâng.
Bạn ơi!còn được mấy lần?      
                                                      Tháng 3/2010


                                                            L.B.H.
 

Nhớ trường xưa - P.Thảo

  NHỚ TRƯỜNG XƯA


Nhớ mãi trường xưa quận Triệu Phong.
Bao năm tháng cũ vẫn chờ mong.
Thầy cô độ ấy đâu còn nữa …!
Bạn hữu giờ đây đã rẽ sông…
Nét bút thư sinh còn rõ mực
Trang lưu bút cũ vẫn nguyên dòng
Bao năm tháng ấy đâu còn nữa!
Áo trắng thôi bay… với tuổi hồng…

Trị An, tháng 6/2010
Hồ Thị Phương Thảo
DD : 01223 154 368  - 0613 861 060



DS.Tài trợ Đặc san và họp mặt THTP

DANH SÁCH CÁC NHÀ TÀI TRỢ VÀ HỨA TÀI TRỢ
cho tập san và họp mặt Trường THTP 6075

A. ĐÃ GỬI TIỀN TÀI TRỢ VỀ TỪ:

1.Thầy Bùi Ngọc Bửu
(USA) 200USD

2.Thầy Đoàn Đức
(TP.HCM) 1.000.000đ

3. Thầy Nguyễn Văn Hảo
(TP.HCM ) 200.000đ

4.CHS.Lê thị Tường Vi
và Lê thị Kim Quy
K.68-72(USA)150USD

5.CHS. Lê Trọng Phước
(Canada ) ( em trai của Vi và Quy) 100USD

6.CHS Lê Thị Hồng
K.60-64(USA):2.000.000VNĐ

7.CHS Lê Thị Huệ
K.6263 2.000.000VNĐ

8.CHS Nguyễn Văn Tương
6/2 -K61- 65 - 500.000VNĐ

9.CHS Lê Thị Mỹ Lệ
(Canada):100 USD

10. CHS Võ Đích KumTum
6/2 -K 67-71 200.000VNĐ

11.CHS Diệp Phụng Kiệt Phan Thiết
6/2 -K 67-71 - 200.000VNĐ

12. CHS Lê Ngọc Quế Triệu Thành
6/2 -K 67-71 - 150.000VNĐ 

13.Nhà hảo tâm Trần Lộc (TP.HCM ) 2.000.000đ.

14Dương Thị Bích Đào 6/3 K 67-71
và Bích Liên K 68-72  100USD

15. Hồ Thị Tình 1.000.000đ.

16. Trần Văn Hiền K 67-71 500.000đ

17. Văn Thiên Tùng K 67-71 H.Lăng 200.000đ.

18. Đoàn Thị Kim Cúc C.Lộ 200.000đ

19 Thầy Hồ Trị BRVT  1.00.000đ

20CHS. Phạm Tiến - USA -100USD

21 CHS Lê Thị Thạnh -Tân Thành H. Hóa K 67-71 200.000đ

22.Thầy Tôn Thất Phú - USA - 120USD

23.Cô Phan Thị Ngọc Tĩnh - USA - 200USD

24. Cô Phạm Thị Như Hoàn - USA - 200USD

25.Cô Bùi Thị Gái - USA - 50USD

26. Cô Nguyễn Thị Quy - USA 50USD

27 Lê Thị Thừa  USA - 50 USD


28.Hồ Thị Thể Tần  USA - 100USD
 
Xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ không những về tinh thần mà còn về vật chất của quý Thầy cô cũng như ACE .CHS trong nước, nước ngoài bước đầu đã động viên giúp đỡ, là đòn bẩy giúp Ban Thường trực có cơ sở , điều kiện tiến hành tổ chức cuộc hạnh ngộ 50 năm xa cách từ MỘT MẢNH ĐẤT-MỘT NGÔI TRƯỜNG VÀ NHỮNG CON NGƯỜI với tuổi thơ chan chứa những tình cảm quý báu mãi tồn tại và đáng kính.
Xin trân trọng cảm ơn!
TM.BLL và BTT/ CGV và HS THTP6075

TIN TỨC-SINH HOẠT
BLL.CGVvà CHS TH.Triệu Phong K1960-1975

Căn cứ yêu cầu nguyện vọng của đại đa số ACE nguyên là Cựu giáo viên và học sinh trường Trung học Triệu Phong từ niên khóa 1960 đến niên khóa 1975. BLL lâm thời do Thầy Nguyễn Văn Quang đã triệu tập họp kỳ thứ nhất:
-Địa điểm : Tại nhà Thầy Nguyễn Văn Quang vào lúc 14 giờ ngày 28/02/2010.
- Thành phần tham dự :Hơn 30 thành viên ,với sự có mặt của Thầy Văn Phong và Thầy Trần Văn Kỳ cùng đại diện các khối lớp của trường.
Buổi họp đã tán thành chương trình của Thầy Nguyễn Văn Quang đề ra là:
1.Tiến hành lập thủ tục xin phép sau buổi họp này để có quyết dịnh sớm nhằm thông báo họp mặt rộng rãi đến CGVvà CHS vào cuối tháng 7/ 2010.
2. Thực hiện một tập san ( đã nêu trong thư ngõ) cho ra mắt đúng vào dịp họp mặt này.
3. Bầu Ban thường trực và BLL các khối lớp tại Quảng Trị hoặc đang sinh sống, làm việc ở trong và ngoài nước.
Buổi họp kết thúc vào lúc 18giờ cùng ngày. Mọi người hứa sẽ hết lòng để có một cuộc hạnh ngộ trong tình thân ái…
Sau đây là danh sách các Ban được bầu ra làm việc cho buổi họp mặt 2010 của trường sắp đến cũng như các thầy cô cùng các ACE tài trợ quỹ theo thư ngõ ( sẽ cập nhật danh sách này liên tục trên Blog Văn Thiên Tùng - Hương Thời gian (địa chỉ google), trên blog -vanthientungqtlh.blogspot.com  ( tại địa chỉ web).
BLL.THTP6075
DANH SÁCH BAN THƯỜNG TRỰC

1) Nguyễn Văn Quang: Trưởng ban
2) Hoàng Mãi : Phó ban
3) Lê Mậu Ấn : Ban viên - Thư ký
4) Lê Văn Ích : Ban viên - Phụ trách đối ngoại
5) Đoàn Thị Mỹ Lệ : Thủ quỹ
6) Đoàn Định : Ban viên - Phụ trách Văn-Thể-Mỹ
7) Hoàng Văn Thông : Ban viên 
8) Đoàn Quang Anh : Ban viên

BAN BIÊN TẬP ĐẶC SAN THTP 6075

1) Nguyễn Văn Quang - Email . vanquangqtri@yahoo.com.vn
2) Văn Thiên Tùng -Email.vanthientungqtlh@yahoo.com.vn
3) Lê Văn Trâm
4) Võ Thìn

TRƯỞNG BAN LIÊN LẠC CÁC KHỐI LỚP
 1- K60-64
-Lê Hóa - Ái Tử, Triệu Ái -053.2245842

2- 61-65
-Hoàng Mãi -Nại Cửu, Triệu Đông -0909661164
-Nguyễn V Tương -TX. BRVT -0909532751

3- 62-66
-Đoàn Định -Đâu Kênh, Tr.Long -0909122668
-Lê Bá Tâm -TP. HCM -903140275

4-63-67

5-64-68
-Lê Văn Ích- Bích La, Triệu Đông -0914141334

6-65-69
-Hồ Thị An -Cổ Thành, Tr. Thành -053.3662503

7-66-70
-Lê Văn Xuân-Nại Cửu, Triệu Đông-01687806991

 8-67-71
-Lê Quang Sinh -Triệu Thành -01688454325
-Lê Ngọc Quê -Triệu Thành -0973768635
-Hoàng Tiễn -Tân Thành, L. Bảo-0905877633

9-68-72
- Nguyễn Bảo-Triệu Thành -0974986510

10-69-73
-Đỗ Khắc Tào -Bích Khê, Tr.long 0905634137
-Lê Văn Trâm -TP. Đông Hà -0914062002

11-70-74

12-71-75
-Đỗ Văn Phán -TXQT -0978625991

13-72-75
Nguyễn Ngọc -An Cư, Tr. Phước -0532217492

14-73-75
Mai Thảo -TXQT -0914017005

15-74-75
* CHS. TP ở Huế xin liên hệ với anh Lê Năm (70-74), hiện dạy ở ĐHSP Huế, ĐT: 0914242928

* Có 2 khối lớp chưa tìm được người trưởng liên lạc, (sẽ bổ sung sau)

Thứ Sáu, 4 tháng 6, 2010

Xuân Xưa

 XUÂN XƯA
Xin tặng các bạn nhân mùa hội trường NHQT lần thứ II tại Q.Trị 20/6/2010

Ta đi bỏ lại sân trường
Bỏ tia nắng khóc con đường mờ sương
Bỏ mùa thu với hàng Dương
Ủ buồn xác phượng sân trường còn ai

Còn đây tiếng khóc sớm mai
Lũ ve thương cảm dạo bài thu xưa
Sân trường ủ bóng sớm trưa
Mùa thu gặp lại tóc vừa điểm sương

Ta về tìm chút tơ vương
Tìm trong dấu nét cổng trường thuở nao!?
Tìm đâu tiếng hát năm nào
Ấm như hơi thở ngọt ngào XUÂN XƯA.
VTT 5/2010


 

Làng gữa phố ...Th. H.Đằng

Thầy HOÀNG ĐẰNG
Quê gốc: Làng Điếu Ngao, xã Triệu Lễ,
Huyện Triệu Phong, Quảng Trị.
Hiệu trưởng của trường từ 8/1973 đến 3/1974
Địa chỉ hiện tại: 40/21-1 Ngô Sĩ Liên
Khu phố 6, Phường 2, TP. Đông Hà, QT
LÀNG GIỮA PHỐ
Điếu Ngao* nghe gọi … quá thân thương,
Xa vạn trùng … dạ cũng vấn vương.
Đây … lúa trĩu vàng … bông chẽn nặng,
Nọ … khoai xanh mượt … lá dây vươn.
Gái trai tập sống … theo nghề nghiệp.
Già trẻ làm quen … với phố phường.
Đất nước trên đường vào hiện đại,
Thị thành thấp thoáng bóng quê hương!
  01/2007
* Làng Điếu Ngao nguyên thuộc huyện Triệu Phong. Khi mở rộng Thị xã Đông Hà, làng này được nhập vào thị xã, và khi thị xã Đông Hà được lên thành phố, làng Điếu Ngao lại thuộc TP. Đông Hà (BBT).

ĐÓN XUÂN MẬU TÝ (2008)
Sáng tác nhân đón Thầy
và bạn học cũ đến vui Tết với gia đình.
Xuân về, thầy bạn đến nhà chơi.
Rét mướt âm u cả tháng trời.
Cái lạnh tỉ tê: nằm giấu biệt,
Nỗi mừng rạo rực: dậy cười tươi.
Mứt gừng đón Tết – cay mà dịu,
Rượu thuốc chào Xuân – đầy lại vơi.
Tuổi tác ngần này – mong chỉ được:
Xuân về - thầy bạn đến nhà chơi!
02/2008
Hoàng Đằng

Vũ An Khanh :Một bài thơ sống mãi với đời - Lê Ng. Trác

Vũ Anh Khanh :  
MỘT BÀI THƠ SỐNG MÃI VỚI ĐỜI 


Lê Ngọc Trác
 Trong công việc sáng tác thơ văn, có nhiều khi giống như công việc đồng áng của người nông dân. Có người cày sâu cuốc bẫm suốt cuộc đời, mới thu hoạch. Cũng có người chỉ gieo một mùa mà đã bội thu. Trong văn chương cũng vậy, có một số ít nhà thơ thành công và thành danh chỉ với một vài bài thơ (Dĩ nhiên sự thành công của số ít nhà thơ trong trường hợp này, còn phải kể đến tài năng, chất lượng nghệ thuật tác phẩm, bối cảnh xã hội, sự yêu thích và cảm nhận của người yêu thơ). Vũ Anh Khanh là một trong những trường hợp hiếm hoi ấy, với bài "Tha La xóm đạo".
Vũ Anh Khanh là bút danh của Võ Văn Khanh. Ông sinh năm 1926 tại Mũi Né thuộc thành phố Phan Thiết tỉnh Bình Thuận, qua đời vào năm 1956. Trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1950, Vũ Anh Khanh là một cây bút chuyên viết truyện ngắn và tiểu thuyết.
Tác phẩm của ông gồm truyện dài: Nửa bồ xương khô (2 tập – Tân VN, Sài Gòn, 1949), Bạc xíu lìn (Tiếng chuông – 1949), Cây ná trắc (Tân VN, Sài Gòn, 1947), truyện ngắn có: Ngũ Tử Tư (Tân VN, Sài Gòn, 1949), Đầm ôrô (Tiếng Chuông – 1949), Sông máu (Tiếng Chuông, Sài Gòn, 1949), Bên kia sông (Tân VN, Sài Gòn, 1949). Tác phẩm của Vũ Anh Khanh có giá trị, tiêu biểu cho dòng văn chương thời kỳ kháng Pháp ở Nam Bộ. Nhưng, dường như nhiều người chỉ nhớ đến Vũ Anh Khanh với bài thơ Tha La xóm đạo:

"Đây Tha La xóm đạo, Có trái ngọt, cây lành. Tôi về thăm một dạo, Giữa mùa nắng vàng hanh, Ngậm ngùi, Tha La bảo: - Đây rừng xanh, rừng xanh, Bụi đùn quanh ngõ vắng, Khói đùn quanh nóc tranh, Gió đùn quanh mây trắng, Và lửa loạn xây thành. Viễn khách ơi! Hãy dừng chân cho hỏi Nắng hạ vàng ngàn hoa gạo rưng rưng Đây Tha La một xóm đạo ven rừng. Có trái ngọt, cây lành im bóng lá, Con đường đỏ bụi phủ mờ gót lạ Ngày êm êm lòng viễn khách bơ vơ! Về chi đây! Khách hỡi! Có ai chờ? Ai đưa đón? Xin thưa, tôi lạc bước! Không là duyên, không là bèo kiếp trước, Không có ai chờ, đưa đón tôi đâu! Rồi quạnh hiu, khách lặng lẽ cúi đầu, Tìm hoa rụng lạc loài trên vệ cỏ. Nghìn cánh hoa bay ngẩn ngơ trong gió Gạo rưng rưng, nghìn hoa máu rưng rưng. Nhìn hoa rơi, lòng khách bỗng bâng khuâng Tha La hỏi: - Khách buồn nơi đây vắng? - Không, tôi buồn vì mây trời đây trắng! - Và khách buồn vì tiếng gió đang hờn? Khách nhẹ cười, nghe gió nổi từng cơn. Gió vun vút, gió rợn rùng, gió rít, Bỗng đâu đây vẳng véo von tiếng địch: - Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La! Bao người đi thề chẳng trở lại nhà Nay đã chết giữa chiến trường ly loạn! Tiếng địch càng cao, não nùng ai oán Buồn trưa trưa, lây lất buồn trưa trưa Buồn xưa xưa, ngây ngất buồn xưa xưa Lòng viễn khách bỗng dưng tê tái lạnh Khách rùng mình, ngẩn ngơ người hiu quạnh - Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La! Đây mênh mông xóm đạo với rừng già Nắng lổ đổ rụng trên đầu viễn khách. Khách bước nhẹ theo con đường đỏ quạch. Gặp cụ già đang ngắm gió bâng khuâng Đang đón mây xa... Khách bỗng ngại ngần: - Kính thưa cụ, vì sao Tha La vắng? Cụ ngạo nghễ cười rung rung râu trắng, Nhẹ bảo chàng: "Em chẳng biết gì ư? Bao năm qua khói loạn phủ mịt mù! Người nước Việt ra đi vì nước Việt Tha La vắng vì Tha La đã biết, Thương giống nòi, đau đất nước lầm than".

Trời xa xanh, mây trắng nghẹn ngàn hàng Ngày hiu quạnh. Ờ... ơ... hơ... Tiếng hát, Buồn như gió lượn, lạnh dài đôi khúc nhạc. Tiếng hát rằng: Tha La hận quốc thù, Tha La buồn tiếng kiếm. Não nùng chưa! Tha La nguyện hy sinh Ờ... ơ... hơ... Có một đám chiên lành Quỳ cạnh Chúa một chiều xưa lửa dậy Quỳ cạnh Chúa, đám chiên lành run rẩy: - Lạy đức Thánh Cha! Lạy đức Thánh Mẹ! Lạy đức Thánh Thần Chúng con xin về cõi tục để làm dân... Rồi... cởi trả áo tu, Rồi... xếp kinh cầu nguyện Rồi... nhẹ bước trở về trần... Viễn khách ơi! Viễn khách ơi! Người hãy ngừng chân, Nghe Tha La kể, nhưng mà thôi khách nhé! Đất đã chuyển rung lòng bao thế hệ Trời Tha La vần vũ đám mây tang, Vui gì đâu mà tâm sự? Buồn làm chi cho bẽ bàng! Ờ... ơ... hơ... Ờ... ơ... hơ... Tiếng hát; Rung làm lạnh, ngân trầm đôi khúc nhạc, Buồn tênh hênh, não lòng lắm khách ơi! Tha La thương người viễn khách quá đi thôi!

Khách ngoảnh mặt nghẹn ngào trông nắng đổ Nghe gió thổi như trùng dương sóng vỗ Lá rừng cao vàng rụng lá rừng bay... Giờ khách đi. Tha La nhắn câu này: - Khi hết giặc, khách hãy về thăm nhé! Hãy về thăm xóm đạo Có trái ngọt cây lành Tha La dâng ngàn hoa gạo Và suối mát rừng xanh Xem đám chiên hiền thương áo trắng Nghe trời đổi gió nhớ quanh quanh..."

Vũ Anh Khanh viết bài thơ Tha La xóm đạo vào năm 1950, sau ngày ông đến thăm Tha La. Tha La là một làng thuộc xã An Hòa, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Đây là một xứ đạo Thiên Chúa đã có từ lâu đời trên đất Tây Ninh. Nơi đây có một ngôi nhà thờ được xây dựng từ những năm đầu thế kỷ 20. Và, là một làng quê hiền hòa, thơ mộng.
Trong kháng chiến chống Pháp, người dân xóm đạo Tha La đã cùng đất nước đứng lên chống giặc ngoại xâm. Như nhiều làng quê khác trên đất nước thân yêu, Tha La cũng bị điêu tàn dưới gót giày của quân Pháp xâm lược. Bài thơ Tha La là một câu chuyện kể về xóm đạo trong thời khói lửa chiến tranh. Lời thơ dung dị, gần gũi. Nhịp điệu của bài thơ nhẹ nhàng như lời tâm tình đã lay động tâm hồn bao người. Bài thơ vừa ra đời lập tức gây tiếng vang, được đông đảo người yêu thơ cũng như nhân dân đón nhận với tất cả yêu mến.
Trước năm 1975, nhạc sĩ Dũng Chinh đã phổ nhạc bài thơ Tha La xóm đạo. Nhạc sĩ Sơn Thảo cũng phổ bài thơ thành ca khúc Hận Tha La. Viễn Châu, một soạn giả cải lương nổi tiếng cũng đã mượn ý và lời bài thơ của Vũ Anh Khanh để viết tình khúc tân cổ giao duyên Tha La xóm đạo.
Thành công của những ca khúc, tình khúc phổ từ bài thơ đã tạo cho bài thơ Tha La xóm đạo ngày càng bay bổng, vang xa, lan tỏa rộng hơn.
Từ khi ra đời đến hôm nay, bài thơ Tha La xóm đạo đã được gần 60 năm. Qua thời gian, bài thơ còn đọng mãi trong lòng người yêu thơ và sống mãi với đời./.

Đọc thêm:Vũ Anh Khanh Và Bài Thơ Hận Tha La.
Bạn thân mến ; nếu bạn từng sống ở Sài Gòn và thường có lúc đi rảo mua sách thì chắc phải biết đến con phố sách báo cũ mang tên Đặng Thị Nhu thuộc phường Nguyễn Thái Bình, quận 1. Lòng con phố hơi chật vì các quầy kiosk sách báo nằm đối diện, kề sát nhau và chỉ để một lối đi ở chính giữa cho khách (có khi dẫn xe máy đi cùng) ra vào. Một đầu con phố tiếp với đường Ký Con và đầu phố còn lại thông ra đường Calmette. Anh Hữu, một người bạn lớn hơn tôi cả chục tuổi , đã quen, có một kiosk bán sách ở con phố này và cả nhà dùng nó như một phương tiện mưu sinh sau cuộc đổi đời tháng 4 năm 1975. Nghề mua bán sách báo cũ, coi lèng xèng vậy mà kiếm ăn rất ngon chỉ kẹt cái là đọng vốn nhưng khi có khách cần đến thì cầm chắc có lời. Sách báo cũ được mua đi rồi bán lại ngay tại chỗ và chủ kiosk nào cũng có những mối quen trong nghề. Mối đây là người đến tìm mua sách về để họ bán lại và thường họ ở xa đâu đó ngoài miền Trung, thậm chí có mối ở tít tận Hà Nội. Mối cũng là những người có sách do họ lùng mua được rồi mang bán lại cho chủ kiosk. Thỉnh thoảng gặp khách cho địa chỉ mời đến tận nhà để xem sách họ có và muốn bán. Các dịp như vậy, chủ kiosk thường mua được một lúc khá nhiều sách giá trị và tất nhiên, sẽ là một món lời. Anh Hữu vẫn từng đến những chỗ mà khách cho địa chỉ nằm trong nội đô Sài Gòn hay ở Chợ Lớn, vùng Bình Thạnh hoặc khu dân Bắc di cư Gò Vấp. Ngoài những tựa sách quen có tiếng hoặc vì đã từng được khách lùng mua nên biết, còn thường thì anh Hữu vẫn lúng túng mỗi khi cầm quyển sách lạ trong tay. Đó là lý do mà anh hay rủ tôi đi chung cho vui, để có người góp ý với anh về các tựa sách lạ. Có lần, anh rủ tôi cùng đi Tha La.

Tha La, cái tên tôi thường nghe qua các bài hát như Tha La Xóm Đạo, Hận Tha La... và cũng biết nó nằm đâu đó trong vùng Trảng Bàng-Tây Ninh nhưng chưa lần nào có dịp đặt chân đến. Nhiều vùng quê miền Nam có các địa danh thật lạ như Hóc Ba Tó, Chắc Cà Đao, Muồng Luông, Soài Cả Nãi và Tha La... dường như từ gốc Khmer mà ra. Theo địa chỉ đã có, tôi và anh Hữu trực chỉ hướng Tây Bắc đi Hốc Môn rồi vượt Củ Chi và đến thành phố Trảng Bàng lúc gần trưa. Từ Trảng Bàng, theo một con đường đất đỏ (cũng về hướng Tây) mà hai bên là các thửa ruộng, rẫy chung với nhà dân hoặc các đám rừng cây lưa thưa, chúng tôi đi về một xã có tên là An Hòa khoảng 6, 7 cây số gì đó thì gặp Tha La. Đây là một xóm nhỏ với những nhà lợp tranh, mái ngói và cả nhà tôn nằm thấp thoáng sau hàng cây ăn trái như mít, xoài, ổi và dừa. Tha La, một miền quê do khung cảnh và cũng vì con đường chính cùng các ngõ nhỏ đều là đường đất đỏ. Mùi rạ, mùi đất bùn cùng mùi lá tre và cả mùi mít chín thơm thoang thoảng trong gió. Có những ngõ nhỏ đan chặt các hàng tầm vông, tre hoặc trúc trông thật mát mắt. Loanh quanh một hồi, chúng tôi tìm được nhà của người có sách muốn bán nằm riêng một ngõ với hai hàng trúc bao thành lối đi mát rượi dẫn vào bên trong. Chúng tôi chạy xe thẳng vào sân của một căn nhà vách ván gỗ xập xệ lợp ngói có chỗ đã bong mất hở cả mè cây đỡ mái. Căn nhà có một bàn thiên chính giữa mặt tiền cùng những cây cúc ngày tím sẫm, hoa vạn thọ vàng chóe chung với bụi mẫu đơn đỏ thắm. Chủ nhà ở phía sau nghe tiếng động liền ra xem rồi nhận ra anh Hữu, ông mời chúng tôi vào trong và lấy các sách muốn bán ra bày trên bộ ván ngựa xưa cũ. Mới trông qua thấy toàn sách xưa, những quyển mà dân bán sách cũ đang kiếm, anh Hữu chộp ngay các quyển: Kim Cổ Kỳ Quan, Châu Về Hợp Phố, Mai Hoa Dịch Tân Biên, Vạn Huê Lầu, Đông Chu Liệt Quốc, Long Trùng Quyết Sách... và số còn lại (khoảng hai chục quyển) là loại thường nhưng anh Hữu cũng mua hết nói dùng làm sách bày cho có trong kiosk. Theo lời gia chủ, sách vừa bán là do từ gia đình (ông ngoại) để lại từ lâu, nay vì cần tiền đành phải bán. Đồ đạc bài trí trong nhà ngoài các trang thờ bằng gỗ, tủ cẩn ốc xà cừ chưng hình ảnh ông bà, bộ ván ngựa thì còn có các tủ danh mộc đã cũ. Một nếp nhà khá giả xưa còn sót lại đang trong cảnh sa sút. Tôi hỏi thăm gia chủ ít điều về Tha La thì được biết nguyên thủy Tha La tên gốc từ chữ Schla của Khmer có nghĩa là trại hoặc nơi nghỉ mát rồi không biết từ khi nào, người Việt đọc Schla thành Tha La và địa danh này tồn tại cho tới bây giờ. Tha La hiện thuộc ấp An Hội của xã An Hòa (có 8 ấp) thuộc Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh và là một xứ đạo Thiên Chúa. Theo ông, từ thời vua Minh Mạng, dân theo đạo trốn chạy, lánh nạn vào đây (khi đó còn là rừng) rồi khai hoang lập ấp, xây dựng cuộc sống để bảo tồn nền đạo cùng niềm tin tâm linh. Ông cũng cho biết, trong Tha La nơi nhộn nhịp-trù phú nhất chính là khu vực dân cư sống chung quanh họ đạo gần ngôi thánh đường Thiên Chúa giáo. Cũng có một số người theo các tôn giáo khác như đạo Phật, thờ cúng ông bà... sống ở Tha La. Tôi hỏi thêm về bài hát mang tên Tha La Xóm Đạo, ông liền gật đầu rồi hát vài đoạn ngắn cho tôi cùng anh Hữu nghe như để khắng định và chỉ biết vậy, không hơn.
Họ Đạo Tha La.
Chia tay với ông, chúng tôi chạy xe lòng vòng trong Tha La để biết thêm. Đến khu xóm đạo nơi đông dân cư nhất rồi vòng qua thánh đường là một nhà thờ vừa phải với tháp chuông cùng hang đá nằm êm ả dưới các bóng cây mát. Sau đó, tôi và anh Hữu dừng xe, nghỉ chân ở một quán nhỏ bán dừa tươi. Chị bán quán khi nghe tôi hỏi chuyện về Tha La Xóm Đạo, đã mau mắn lấy ra một băng cassette rồi dò tìm mở đúng bài hát đó. Vài khách đang ngồi uống nước trong quán cũng hát theo rành rẽ. Họ là dân ở đây, chắc vậy và họ đang hãnh diện vì có bài hát hát về địa phương mình. Ngay sau ngày 30-4, nhạc của miền Nam VNCH được chính quyền mới gọi bằng cái tên chung là Nhạc Vàng bất kể thể loại nào. Thực ra nhạc vàng (chiếm đa số) là các bài hát về tình yêu đôi lứa, về quê hương hoặc về nỗi niềm riêng tư nào đó... không thôi. Mà nếu vậy, các bài hát thời bây giờ như Lá Diêu Bông, Chị Tôi, Hà Nội Mùa Vắng Những Cơn Mưa, Phượng Hồng, Tình Thôi Xót Xa... cũng là nhạc vàng và đó là lý do tại sao công chúng lại yêu thích loại nhạc này! Một khi bạn đã yêu đã thích nhạc vàng thì mỗi lần nghe nó, bạn sẽ nhớ đến quê hương nếu như bạn đang sống ở nước ngoài. Còn nếu bạn đang ở trong nước, hồi tưởng về tháng ngày hoa mộng cũ, những kỷ niệm (tùy từng người) sẽ lại về trong tâm tưởng bạn. Ngày hôm đó tôi cũng vậy, những lời hát tai đang nghe đã dẫn tôi về khung cảnh xa xưa của Tha La và tự dưng lòng tôi se sắt buồn. Tôi đã là người dân của Tha La xóm đạo.
... Tha La ơi! Xóm Đạo ơi! Còn đâu nữa chiếc áo ngày xưa
đành khép kín khoác vào bộ chinh y. Lòng hờn căm một chiều
xưa lửa dậy, nghe não nùng chưa? Tha La sầu quốc biến
Xóm Đạo chất hận thù!


... Đây Tha La đây Xóm Đạo hoang tàn
Mây trời vây quanh mầu tang khói lửa,
Bao năm qua Tha La còn trơ đó, đoàn người
đi giết thù đã hẹn thề từ dạo ấy, Long viễn
khách bồi hồi như thương tiếc mùa thu
nắng hanh vàng ...

Trên đường về, tôi gặp một cụ già cởi trần gầy gò đang gánh một gánh dừa đi về phía quán nước. Cụ già với hàm râu trắng như hình ảnh trong bài thơ. Không biết thời bài thơ Hận Tha La ra đời, khung cảnh khi đó có giống như hiện tại? Vài bụi tre bị chặt trụi lũi bên đường trơ gốc cây mốc trắng và tất cả những mụt măng đã bị chủ gia cắt sớm để bán. Họ cần tiền cho một nhu cầu gấp rút nên không thể chờ măng thành tre được, y như chủ nhân căn nhà mà tôi và anh Hữu vừa ghé vào mua sách cũ gia đình để lại. Tha La là vùng đất lành, mầu mỡ do nguồn nước từ kinh Vàm Trảng dẫn từ sông Vàm Cỏ về tưới mát đất đai ở đây nhưng sao dân cư trong vùng vẫn mang vẻ buồn, hiu quạnh. Tôi cảm thấy... hay Tha La tự nó là như vậy.
Như nhiều bài hát nổi tiếng khác, Tha La Xóm Đạo được phổ từ một bài thơ của một thi sĩ và cũng là một người lính chiến thời chiến tranh Việt-Pháp. Đó là bài thơ Hận Tha La và tác giả là Vũ Anh Khanh. Tới tận bây giờ vẫn ít người biết về thân thế cùng số phận của nhà thơ Vũ Anh Khanh dù có thể họ vẫn hát bài hát Tha La Xóm Đạo. Vũ Anh Khanh có tên là Võ Anh Khanh nhưng cũng có người nói ông tên thật là Nguyễn Năm, sinh năm 1926 quê quán ở Phan Thiết thuộc tỉnh Bình Thuận. Ông sống ở Sài Gòn, có thơ-văn đăng trên các trang báo từ những năm cuối thập niên 1940. Nước Việt trong giai đoạn này, bị xáo trộn bởi các ảnh hưởng chính trị, thời thế quốc tế và từ các vận động của các tổ chức-đoàn thể trong các địa phương. Giai đoạn này cũng là sự thức tỉnh tự thân của giới thanh niên-trí thức trẻ (trong đó có các văn nghệ sĩ), đưa đến cuộc đấu tranh chống Pháp năm 1945. Người ra chiến khu, vô bưng hoặc về lại thành phố trong tinh thần ái quốc chống ngoại xâm và được một làn sương lãng mạn-thi vị nhưng hào hùng phủ lên.  Vũ Anh Khanh là một người trong số họ. Là một chiến sĩ, đi qua nhiều vùng đất nước, mắt ông đã thấy nhiều cảnh chết chóc, nhà cháy, tang thương của xóm làng sau một trận chiến. Và, không biết trong một lần nào đó, ông đã có dịp dừng chân tại Tha La rồi khung cảnh của một xóm đạo thời ly loạn... đã gây một xúc động ghê gớm nơi ông, khiến ông sáng tác ra bài thơ (chúng ta hãy nghĩ vậy).

Hận Tha La là một bài thơ dài kiểu hợp thể. Đoạn mở đầu là Ngũ Ngôn rồi chuyển sang Tám Chữ, sau đó thành Kịch Thơ (đoạn giữa) và kết thúc bằng hai câu Thất Ngôn. Một bài thơ hay, có hồi có cảnh. Tiết tấu thay đổi với khung cảnh và khung cảnh thay đổi với các nhân vật trong bài thơ.