Vũ Anh Khanh :
MỘT BÀI THƠ SỐNG MÃI VỚI ĐỜI
Lê Ngọc Trác
Trong
công việc sáng tác thơ văn, có nhiều khi giống như công việc đồng áng
của người nông dân. Có người cày sâu cuốc bẫm suốt cuộc đời, mới thu
hoạch. Cũng có người chỉ gieo một mùa mà đã bội thu. Trong văn chương
cũng vậy, có một số ít nhà thơ thành công và thành danh chỉ với một vài
bài thơ (Dĩ nhiên sự thành công của số ít nhà thơ trong trường hợp này,
còn phải kể đến tài năng, chất lượng nghệ thuật tác phẩm, bối cảnh xã
hội, sự yêu thích và cảm nhận của người yêu thơ). Vũ Anh Khanh là một
trong những trường hợp hiếm hoi ấy, với bài "Tha La xóm đạo".
Vũ Anh Khanh là bút danh của Võ Văn Khanh. Ông sinh năm 1926 tại Mũi Né thuộc thành phố Phan Thiết tỉnh Bình Thuận, qua đời vào năm 1956. Trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1950, Vũ Anh Khanh là một cây bút chuyên viết truyện ngắn và tiểu thuyết.
Tác phẩm của ông gồm truyện dài: Nửa bồ xương khô (2 tập – Tân VN, Sài Gòn, 1949), Bạc xíu lìn (Tiếng chuông – 1949), Cây ná trắc (Tân VN, Sài Gòn, 1947), truyện ngắn có: Ngũ Tử Tư (Tân VN, Sài Gòn, 1949), Đầm ôrô (Tiếng Chuông – 1949), Sông máu (Tiếng Chuông, Sài Gòn, 1949), Bên kia sông (Tân VN, Sài Gòn, 1949). Tác phẩm của Vũ Anh Khanh có giá trị, tiêu biểu cho dòng văn chương thời kỳ kháng Pháp ở Nam Bộ. Nhưng, dường như nhiều người chỉ nhớ đến Vũ Anh Khanh với bài thơ Tha La xóm đạo:
Vũ Anh Khanh là bút danh của Võ Văn Khanh. Ông sinh năm 1926 tại Mũi Né thuộc thành phố Phan Thiết tỉnh Bình Thuận, qua đời vào năm 1956. Trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1950, Vũ Anh Khanh là một cây bút chuyên viết truyện ngắn và tiểu thuyết.
Tác phẩm của ông gồm truyện dài: Nửa bồ xương khô (2 tập – Tân VN, Sài Gòn, 1949), Bạc xíu lìn (Tiếng chuông – 1949), Cây ná trắc (Tân VN, Sài Gòn, 1947), truyện ngắn có: Ngũ Tử Tư (Tân VN, Sài Gòn, 1949), Đầm ôrô (Tiếng Chuông – 1949), Sông máu (Tiếng Chuông, Sài Gòn, 1949), Bên kia sông (Tân VN, Sài Gòn, 1949). Tác phẩm của Vũ Anh Khanh có giá trị, tiêu biểu cho dòng văn chương thời kỳ kháng Pháp ở Nam Bộ. Nhưng, dường như nhiều người chỉ nhớ đến Vũ Anh Khanh với bài thơ Tha La xóm đạo:
"Đây Tha La xóm đạo,
Có trái ngọt, cây lành.
Tôi về thăm một dạo,
Giữa mùa nắng vàng hanh,
Ngậm ngùi, Tha La bảo:
- Đây rừng xanh, rừng xanh,
Bụi đùn quanh ngõ vắng,
Khói đùn quanh nóc tranh,
Gió đùn quanh mây trắng,
Và lửa loạn xây thành.
Viễn khách ơi! Hãy dừng chân cho hỏi
Nắng hạ vàng ngàn hoa gạo rưng rưng
Đây Tha La một xóm đạo ven rừng.
Có trái ngọt, cây lành im bóng lá,
Con đường đỏ bụi phủ mờ gót lạ
Ngày êm êm lòng viễn khách bơ vơ!
Về chi đây! Khách hỡi! Có ai chờ?
Ai đưa đón?
Xin thưa, tôi lạc bước!
Không là duyên, không là bèo kiếp trước,
Không có ai chờ, đưa đón tôi đâu!
Rồi quạnh hiu, khách lặng lẽ cúi đầu,
Tìm hoa rụng lạc loài trên vệ cỏ.
Nghìn cánh hoa bay ngẩn ngơ trong gió
Gạo rưng rưng, nghìn hoa máu rưng rưng.
Nhìn hoa rơi, lòng khách bỗng bâng khuâng
Tha La hỏi: - Khách buồn nơi đây vắng?
- Không, tôi buồn vì mây trời đây trắng!
- Và khách buồn vì tiếng gió đang hờn?
Khách nhẹ cười, nghe gió nổi từng cơn.
Gió vun vút, gió rợn rùng, gió rít,
Bỗng đâu đây vẳng véo von tiếng địch:
- Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La!
Bao người đi thề chẳng trở lại nhà
Nay đã chết giữa chiến trường ly loạn!
Tiếng địch càng cao, não nùng ai oán
Buồn trưa trưa, lây lất buồn trưa trưa
Buồn xưa xưa, ngây ngất buồn xưa xưa
Lòng viễn khách bỗng dưng tê tái lạnh
Khách rùng mình, ngẩn ngơ người hiu quạnh
- Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La!
Đây mênh mông xóm đạo với rừng già
Nắng lổ đổ rụng trên đầu viễn khách.
Khách bước nhẹ theo con đường đỏ quạch.
Gặp cụ già đang ngắm gió bâng khuâng
Đang đón mây xa... Khách bỗng ngại ngần:
- Kính thưa cụ, vì sao Tha La vắng?
Cụ ngạo nghễ cười rung rung râu trắng,
Nhẹ bảo chàng: "Em chẳng biết gì ư?
Bao năm qua khói loạn phủ mịt mù!
Người nước Việt ra đi vì nước Việt
Tha La vắng vì Tha La đã biết,
Thương giống nòi, đau đất nước lầm than".
Trời xa xanh, mây trắng nghẹn ngàn hàng
Ngày hiu quạnh. Ờ... ơ... hơ... Tiếng hát,
Buồn như gió lượn, lạnh dài đôi khúc nhạc.
Tiếng hát rằng:
Tha La hận quốc thù,
Tha La buồn tiếng kiếm.
Não nùng chưa! Tha La nguyện hy sinh
Ờ... ơ... hơ... Có một đám chiên lành
Quỳ cạnh Chúa một chiều xưa lửa dậy
Quỳ cạnh Chúa, đám chiên lành run rẩy:
- Lạy đức Thánh Cha!
Lạy đức Thánh Mẹ!
Lạy đức Thánh Thần
Chúng con xin về cõi tục để làm dân...
Rồi... cởi trả áo tu,
Rồi... xếp kinh cầu nguyện
Rồi... nhẹ bước trở về trần...
Viễn khách ơi! Viễn khách ơi!
Người hãy ngừng chân,
Nghe Tha La kể, nhưng mà thôi khách nhé!
Đất đã chuyển rung lòng bao thế hệ
Trời Tha La vần vũ đám mây tang,
Vui gì đâu mà tâm sự?
Buồn làm chi cho bẽ bàng!
Ờ... ơ... hơ... Ờ... ơ... hơ... Tiếng hát;
Rung làm lạnh, ngân trầm đôi khúc nhạc,
Buồn tênh hênh, não lòng lắm khách ơi!
Tha La thương người viễn khách quá đi thôi!
Khách ngoảnh mặt nghẹn ngào trông nắng đổ
Nghe gió thổi như trùng dương sóng vỗ
Lá rừng cao vàng rụng lá rừng bay...
Giờ khách đi. Tha La nhắn câu này:
- Khi hết giặc, khách hãy về thăm nhé!
Hãy về thăm xóm đạo
Có trái ngọt cây lành
Tha La dâng ngàn hoa gạo
Và suối mát rừng xanh
Xem đám chiên hiền thương áo trắng
Nghe trời đổi gió nhớ quanh quanh..."
Vũ Anh Khanh viết bài thơ Tha La xóm đạo vào năm 1950, sau ngày ông đến thăm Tha La.
Tha
La là một làng thuộc xã An Hòa, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Đây là
một xứ đạo Thiên Chúa đã có từ lâu đời trên đất Tây Ninh. Nơi đây có
một ngôi nhà thờ được xây dựng từ những năm đầu thế kỷ 20. Và, là một
làng quê hiền hòa, thơ mộng.
Trong kháng chiến chống Pháp, người dân xóm đạo Tha La đã cùng đất nước đứng lên chống giặc ngoại xâm. Như nhiều làng quê khác trên đất nước thân yêu, Tha La cũng bị điêu tàn dưới gót giày của quân Pháp xâm lược. Bài thơ Tha La là một câu chuyện kể về xóm đạo trong thời khói lửa chiến tranh. Lời thơ dung dị, gần gũi. Nhịp điệu của bài thơ nhẹ nhàng như lời tâm tình đã lay động tâm hồn bao người. Bài thơ vừa ra đời lập tức gây tiếng vang, được đông đảo người yêu thơ cũng như nhân dân đón nhận với tất cả yêu mến.
Trong kháng chiến chống Pháp, người dân xóm đạo Tha La đã cùng đất nước đứng lên chống giặc ngoại xâm. Như nhiều làng quê khác trên đất nước thân yêu, Tha La cũng bị điêu tàn dưới gót giày của quân Pháp xâm lược. Bài thơ Tha La là một câu chuyện kể về xóm đạo trong thời khói lửa chiến tranh. Lời thơ dung dị, gần gũi. Nhịp điệu của bài thơ nhẹ nhàng như lời tâm tình đã lay động tâm hồn bao người. Bài thơ vừa ra đời lập tức gây tiếng vang, được đông đảo người yêu thơ cũng như nhân dân đón nhận với tất cả yêu mến.
Trước năm 1975, nhạc sĩ Dũng Chinh đã phổ nhạc bài thơ Tha La xóm đạo.
Nhạc sĩ Sơn Thảo cũng phổ bài thơ thành ca khúc Hận Tha La.
Viễn Châu, một soạn giả cải lương nổi tiếng cũng đã mượn ý và lời bài thơ của Vũ Anh Khanh để viết tình khúc tân cổ giao duyên Tha La xóm đạo.
Thành công của những ca khúc, tình khúc phổ từ bài thơ đã tạo cho bài thơ Tha La xóm đạo ngày càng bay bổng, vang xa, lan tỏa rộng hơn.
Từ khi ra đời đến hôm nay, bài thơ Tha La xóm đạo đã được gần 60 năm. Qua thời gian, bài thơ còn đọng mãi trong lòng người yêu thơ và sống mãi với đời./.
Thành công của những ca khúc, tình khúc phổ từ bài thơ đã tạo cho bài thơ Tha La xóm đạo ngày càng bay bổng, vang xa, lan tỏa rộng hơn.
Từ khi ra đời đến hôm nay, bài thơ Tha La xóm đạo đã được gần 60 năm. Qua thời gian, bài thơ còn đọng mãi trong lòng người yêu thơ và sống mãi với đời./.
Đọc thêm:Vũ Anh Khanh Và Bài Thơ Hận Tha La.
Bạn
thân mến ; nếu bạn từng sống ở Sài Gòn và thường có lúc đi rảo mua sách
thì chắc phải biết đến con phố sách báo cũ mang tên Đặng Thị Nhu thuộc
phường Nguyễn Thái Bình, quận 1. Lòng con phố hơi chật vì các quầy kiosk
sách báo nằm đối diện, kề sát nhau và chỉ để một lối đi ở chính giữa
cho khách (có khi dẫn xe máy đi cùng) ra vào. Một đầu con phố tiếp với
đường Ký Con và đầu phố còn lại thông ra đường Calmette. Anh Hữu, một
người bạn lớn hơn tôi cả chục tuổi ,
đã quen, có một kiosk bán sách ở con phố này và cả nhà dùng nó như một
phương tiện mưu sinh sau cuộc đổi đời tháng 4 năm 1975. Nghề mua bán
sách báo cũ, coi lèng xèng vậy mà kiếm ăn rất ngon chỉ kẹt cái là đọng
vốn nhưng khi có khách cần đến thì cầm chắc có lời. Sách báo cũ được mua
đi rồi bán lại ngay tại chỗ và chủ kiosk nào cũng có những mối quen
trong nghề. Mối đây là người đến tìm mua sách về để họ bán lại và thường
họ ở xa đâu đó ngoài miền Trung, thậm chí có mối ở tít tận Hà Nội. Mối
cũng là những người có sách do họ lùng mua được rồi mang bán lại cho chủ
kiosk. Thỉnh thoảng gặp khách cho địa chỉ mời đến tận nhà để xem sách
họ có và muốn bán. Các dịp như vậy, chủ kiosk thường mua được một lúc
khá nhiều sách giá trị và tất nhiên, sẽ là một món lời. Anh Hữu vẫn từng
đến những chỗ mà khách cho địa chỉ nằm trong nội đô Sài Gòn hay ở Chợ
Lớn, vùng Bình Thạnh hoặc khu dân Bắc di cư Gò Vấp. Ngoài những tựa sách
quen có tiếng hoặc vì đã từng được khách lùng mua nên biết, còn thường
thì anh Hữu vẫn lúng túng mỗi khi cầm quyển sách lạ trong tay. Đó là lý
do mà anh hay rủ tôi đi chung cho vui, để có người góp ý với anh về các
tựa sách lạ. Có lần, anh rủ tôi cùng đi Tha La.
Tha La, cái tên tôi thường nghe qua các bài hát như Tha La Xóm Đạo, Hận Tha La... và cũng biết nó nằm đâu đó trong vùng Trảng Bàng-Tây Ninh nhưng chưa lần nào có dịp đặt chân đến. Nhiều vùng quê miền Nam có các địa danh thật lạ như Hóc Ba Tó, Chắc Cà Đao, Muồng Luông, Soài Cả Nãi và Tha La... dường như từ gốc Khmer mà ra. Theo địa chỉ đã có, tôi và anh Hữu trực chỉ hướng Tây Bắc đi Hốc Môn rồi vượt Củ Chi và đến thành phố Trảng Bàng lúc gần trưa. Từ Trảng Bàng, theo một con đường đất đỏ (cũng về hướng Tây) mà hai bên là các thửa ruộng, rẫy chung với nhà dân hoặc các đám rừng cây lưa thưa, chúng tôi đi về một xã có tên là An Hòa khoảng 6, 7 cây số gì đó thì gặp Tha La. Đây là một xóm nhỏ với những nhà lợp tranh, mái ngói và cả nhà tôn nằm thấp thoáng sau hàng cây ăn trái như mít, xoài, ổi và dừa. Tha La, một miền quê do khung cảnh và cũng vì con đường chính cùng các ngõ nhỏ đều là đường đất đỏ. Mùi rạ, mùi đất bùn cùng mùi lá tre và cả mùi mít chín thơm thoang thoảng trong gió. Có những ngõ nhỏ đan chặt các hàng tầm vông, tre hoặc trúc trông thật mát mắt. Loanh quanh một hồi, chúng tôi tìm được nhà của người có sách muốn bán nằm riêng một ngõ với hai hàng trúc bao thành lối đi mát rượi dẫn vào bên trong. Chúng tôi chạy xe thẳng vào sân của một căn nhà vách ván gỗ xập xệ lợp ngói có chỗ đã bong mất hở cả mè cây đỡ mái. Căn nhà có một bàn thiên chính giữa mặt tiền cùng những cây cúc ngày tím sẫm, hoa vạn thọ vàng chóe chung với bụi mẫu đơn đỏ thắm. Chủ nhà ở phía sau nghe tiếng động liền ra xem rồi nhận ra anh Hữu, ông mời chúng tôi vào trong và lấy các sách muốn bán ra bày trên bộ ván ngựa xưa cũ. Mới trông qua thấy toàn sách xưa, những quyển mà dân bán sách cũ đang kiếm, anh Hữu chộp ngay các quyển: Kim Cổ Kỳ Quan, Châu Về Hợp Phố, Mai Hoa Dịch Tân Biên, Vạn Huê Lầu, Đông Chu Liệt Quốc, Long Trùng Quyết Sách... và số còn lại (khoảng hai chục quyển) là loại thường nhưng anh Hữu cũng mua hết nói dùng làm sách bày cho có trong kiosk. Theo lời gia chủ, sách vừa bán là do từ gia đình (ông ngoại) để lại từ lâu, nay vì cần tiền đành phải bán. Đồ đạc bài trí trong nhà ngoài các trang thờ bằng gỗ, tủ cẩn ốc xà cừ chưng hình ảnh ông bà, bộ ván ngựa thì còn có các tủ danh mộc đã cũ. Một nếp nhà khá giả xưa còn sót lại đang trong cảnh sa sút. Tôi hỏi thăm gia chủ ít điều về Tha La thì được biết nguyên thủy Tha La tên gốc từ chữ Schla của Khmer có nghĩa là trại hoặc nơi nghỉ mát rồi không biết từ khi nào, người Việt đọc Schla thành Tha La và địa danh này tồn tại cho tới bây giờ. Tha La hiện thuộc ấp An Hội của xã An Hòa (có 8 ấp) thuộc Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh và là một xứ đạo Thiên Chúa. Theo ông, từ thời vua Minh Mạng, dân theo đạo trốn chạy, lánh nạn vào đây (khi đó còn là rừng) rồi khai hoang lập ấp, xây dựng cuộc sống để bảo tồn nền đạo cùng niềm tin tâm linh. Ông cũng cho biết, trong Tha La nơi nhộn nhịp-trù phú nhất chính là khu vực dân cư sống chung quanh họ đạo gần ngôi thánh đường Thiên Chúa giáo. Cũng có một số người theo các tôn giáo khác như đạo Phật, thờ cúng ông bà... sống ở Tha La. Tôi hỏi thêm về bài hát mang tên Tha La Xóm Đạo, ông liền gật đầu rồi hát vài đoạn ngắn cho tôi cùng anh Hữu nghe như để khắng định và chỉ biết vậy, không hơn.
Tha La, cái tên tôi thường nghe qua các bài hát như Tha La Xóm Đạo, Hận Tha La... và cũng biết nó nằm đâu đó trong vùng Trảng Bàng-Tây Ninh nhưng chưa lần nào có dịp đặt chân đến. Nhiều vùng quê miền Nam có các địa danh thật lạ như Hóc Ba Tó, Chắc Cà Đao, Muồng Luông, Soài Cả Nãi và Tha La... dường như từ gốc Khmer mà ra. Theo địa chỉ đã có, tôi và anh Hữu trực chỉ hướng Tây Bắc đi Hốc Môn rồi vượt Củ Chi và đến thành phố Trảng Bàng lúc gần trưa. Từ Trảng Bàng, theo một con đường đất đỏ (cũng về hướng Tây) mà hai bên là các thửa ruộng, rẫy chung với nhà dân hoặc các đám rừng cây lưa thưa, chúng tôi đi về một xã có tên là An Hòa khoảng 6, 7 cây số gì đó thì gặp Tha La. Đây là một xóm nhỏ với những nhà lợp tranh, mái ngói và cả nhà tôn nằm thấp thoáng sau hàng cây ăn trái như mít, xoài, ổi và dừa. Tha La, một miền quê do khung cảnh và cũng vì con đường chính cùng các ngõ nhỏ đều là đường đất đỏ. Mùi rạ, mùi đất bùn cùng mùi lá tre và cả mùi mít chín thơm thoang thoảng trong gió. Có những ngõ nhỏ đan chặt các hàng tầm vông, tre hoặc trúc trông thật mát mắt. Loanh quanh một hồi, chúng tôi tìm được nhà của người có sách muốn bán nằm riêng một ngõ với hai hàng trúc bao thành lối đi mát rượi dẫn vào bên trong. Chúng tôi chạy xe thẳng vào sân của một căn nhà vách ván gỗ xập xệ lợp ngói có chỗ đã bong mất hở cả mè cây đỡ mái. Căn nhà có một bàn thiên chính giữa mặt tiền cùng những cây cúc ngày tím sẫm, hoa vạn thọ vàng chóe chung với bụi mẫu đơn đỏ thắm. Chủ nhà ở phía sau nghe tiếng động liền ra xem rồi nhận ra anh Hữu, ông mời chúng tôi vào trong và lấy các sách muốn bán ra bày trên bộ ván ngựa xưa cũ. Mới trông qua thấy toàn sách xưa, những quyển mà dân bán sách cũ đang kiếm, anh Hữu chộp ngay các quyển: Kim Cổ Kỳ Quan, Châu Về Hợp Phố, Mai Hoa Dịch Tân Biên, Vạn Huê Lầu, Đông Chu Liệt Quốc, Long Trùng Quyết Sách... và số còn lại (khoảng hai chục quyển) là loại thường nhưng anh Hữu cũng mua hết nói dùng làm sách bày cho có trong kiosk. Theo lời gia chủ, sách vừa bán là do từ gia đình (ông ngoại) để lại từ lâu, nay vì cần tiền đành phải bán. Đồ đạc bài trí trong nhà ngoài các trang thờ bằng gỗ, tủ cẩn ốc xà cừ chưng hình ảnh ông bà, bộ ván ngựa thì còn có các tủ danh mộc đã cũ. Một nếp nhà khá giả xưa còn sót lại đang trong cảnh sa sút. Tôi hỏi thăm gia chủ ít điều về Tha La thì được biết nguyên thủy Tha La tên gốc từ chữ Schla của Khmer có nghĩa là trại hoặc nơi nghỉ mát rồi không biết từ khi nào, người Việt đọc Schla thành Tha La và địa danh này tồn tại cho tới bây giờ. Tha La hiện thuộc ấp An Hội của xã An Hòa (có 8 ấp) thuộc Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh và là một xứ đạo Thiên Chúa. Theo ông, từ thời vua Minh Mạng, dân theo đạo trốn chạy, lánh nạn vào đây (khi đó còn là rừng) rồi khai hoang lập ấp, xây dựng cuộc sống để bảo tồn nền đạo cùng niềm tin tâm linh. Ông cũng cho biết, trong Tha La nơi nhộn nhịp-trù phú nhất chính là khu vực dân cư sống chung quanh họ đạo gần ngôi thánh đường Thiên Chúa giáo. Cũng có một số người theo các tôn giáo khác như đạo Phật, thờ cúng ông bà... sống ở Tha La. Tôi hỏi thêm về bài hát mang tên Tha La Xóm Đạo, ông liền gật đầu rồi hát vài đoạn ngắn cho tôi cùng anh Hữu nghe như để khắng định và chỉ biết vậy, không hơn.
Họ Đạo Tha La.
Chia
tay với ông, chúng tôi chạy xe lòng vòng trong Tha La để biết thêm. Đến
khu xóm đạo nơi đông dân cư nhất rồi vòng qua thánh đường là
một nhà thờ vừa phải với tháp chuông cùng hang đá nằm êm ả dưới các
bóng cây mát. Sau đó, tôi và anh Hữu dừng xe, nghỉ chân ở một quán nhỏ
bán dừa tươi. Chị bán quán khi nghe tôi hỏi chuyện về Tha La Xóm Đạo, đã
mau mắn lấy ra một băng cassette
rồi dò tìm mở đúng bài hát đó. Vài khách đang ngồi uống nước trong quán
cũng hát theo rành rẽ. Họ là dân ở đây, chắc vậy và họ đang hãnh diện
vì có bài hát hát về địa phương mình. Ngay sau ngày 30-4, nhạc của miền
Nam VNCH được chính quyền mới gọi bằng cái tên chung là Nhạc Vàng bất kể
thể loại nào. Thực ra nhạc vàng (chiếm đa số) là các bài hát về tình
yêu đôi lứa, về quê hương hoặc về nỗi niềm riêng tư nào đó... không
thôi. Mà nếu vậy, các bài hát thời bây giờ như Lá Diêu Bông, Chị Tôi, Hà
Nội Mùa Vắng Những Cơn Mưa, Phượng Hồng, Tình Thôi Xót Xa... cũng là
nhạc vàng và đó là lý do tại sao công chúng lại yêu thích loại nhạc này!
Một khi bạn đã yêu đã thích nhạc vàng thì mỗi lần nghe nó, bạn sẽ nhớ
đến quê hương nếu như bạn đang sống ở nước ngoài. Còn nếu bạn đang ở
trong nước, hồi tưởng về tháng ngày hoa mộng cũ, những kỷ niệm (tùy từng
người) sẽ lại về trong tâm tưởng bạn. Ngày hôm đó tôi cũng vậy, những
lời hát tai đang nghe đã dẫn tôi về khung cảnh xa xưa của Tha La và tự
dưng lòng tôi se sắt buồn. Tôi đã là người dân của Tha La xóm đạo.
... Tha La ơi! Xóm Đạo ơi! Còn đâu nữa chiếc áo ngày xưa
đành khép kín khoác vào bộ chinh y. Lòng hờn căm một chiều
xưa lửa dậy, nghe não nùng chưa? Tha La sầu quốc biến
Xóm Đạo chất hận thù!
... Đây Tha La đây Xóm Đạo hoang tàn
Mây trời vây quanh mầu tang khói lửa,
Bao năm qua Tha La còn trơ đó, đoàn người
đi giết thù đã hẹn thề từ dạo ấy, Long viễn
khách bồi hồi như thương tiếc mùa thu
nắng hanh vàng ...
đành khép kín khoác vào bộ chinh y. Lòng hờn căm một chiều
xưa lửa dậy, nghe não nùng chưa? Tha La sầu quốc biến
Xóm Đạo chất hận thù!
... Đây Tha La đây Xóm Đạo hoang tàn
Mây trời vây quanh mầu tang khói lửa,
Bao năm qua Tha La còn trơ đó, đoàn người
đi giết thù đã hẹn thề từ dạo ấy, Long viễn
khách bồi hồi như thương tiếc mùa thu
nắng hanh vàng ...
Trên
đường về, tôi gặp một cụ già cởi trần gầy gò đang gánh một gánh dừa đi
về phía quán nước. Cụ già với hàm râu trắng như hình ảnh trong bài thơ.
Không biết thời bài thơ Hận Tha La ra đời, khung cảnh khi đó có giống
như hiện tại? Vài bụi tre bị chặt trụi lũi bên đường trơ gốc cây mốc
trắng và tất cả những mụt măng đã bị chủ gia cắt sớm để bán. Họ cần tiền
cho một nhu cầu gấp rút nên không thể chờ măng thành tre được, y như
chủ nhân căn nhà mà tôi và anh Hữu vừa ghé vào mua sách cũ gia đình để
lại. Tha La là vùng đất lành, mầu mỡ do nguồn nước từ kinh Vàm Trảng dẫn
từ sông Vàm Cỏ về tưới mát đất đai ở đây nhưng sao dân cư trong vùng
vẫn mang vẻ buồn, hiu quạnh. Tôi cảm thấy... hay Tha La tự nó là như
vậy.
Như nhiều bài hát nổi tiếng khác, Tha La Xóm Đạo được phổ từ một bài thơ của một thi sĩ và cũng là một người lính chiến thời chiến tranh Việt-Pháp. Đó là bài thơ Hận Tha La và tác giả là Vũ Anh Khanh. Tới tận bây giờ vẫn ít người biết về thân thế cùng số phận của nhà thơ Vũ Anh Khanh dù có thể họ vẫn hát bài hát Tha La Xóm Đạo. Vũ Anh Khanh có tên là Võ Anh Khanh nhưng cũng có người nói ông tên thật là Nguyễn Năm, sinh năm 1926 quê quán ở Phan Thiết thuộc tỉnh Bình Thuận. Ông sống ở Sài Gòn, có thơ-văn đăng trên các trang báo từ những năm cuối thập niên 1940. Nước Việt trong giai đoạn này, bị xáo trộn bởi các ảnh hưởng chính trị, thời thế quốc tế và từ các vận động của các tổ chức-đoàn thể trong các địa phương. Giai đoạn này cũng là sự thức tỉnh tự thân của giới thanh niên-trí thức trẻ (trong đó có các văn nghệ sĩ), đưa đến cuộc đấu tranh chống Pháp năm 1945. Người ra chiến khu, vô bưng hoặc về lại thành phố trong tinh thần ái quốc chống ngoại xâm và được một làn sương lãng mạn-thi vị nhưng hào hùng phủ lên. Vũ Anh Khanh là một người trong số họ. Là một chiến sĩ, đi qua nhiều vùng đất nước, mắt ông đã thấy nhiều cảnh chết chóc, nhà cháy, tang thương của xóm làng sau một trận chiến. Và, không biết trong một lần nào đó, ông đã có dịp dừng chân tại Tha La rồi khung cảnh của một xóm đạo thời ly loạn... đã gây một xúc động ghê gớm nơi ông, khiến ông sáng tác ra bài thơ (chúng ta hãy nghĩ vậy).
Như nhiều bài hát nổi tiếng khác, Tha La Xóm Đạo được phổ từ một bài thơ của một thi sĩ và cũng là một người lính chiến thời chiến tranh Việt-Pháp. Đó là bài thơ Hận Tha La và tác giả là Vũ Anh Khanh. Tới tận bây giờ vẫn ít người biết về thân thế cùng số phận của nhà thơ Vũ Anh Khanh dù có thể họ vẫn hát bài hát Tha La Xóm Đạo. Vũ Anh Khanh có tên là Võ Anh Khanh nhưng cũng có người nói ông tên thật là Nguyễn Năm, sinh năm 1926 quê quán ở Phan Thiết thuộc tỉnh Bình Thuận. Ông sống ở Sài Gòn, có thơ-văn đăng trên các trang báo từ những năm cuối thập niên 1940. Nước Việt trong giai đoạn này, bị xáo trộn bởi các ảnh hưởng chính trị, thời thế quốc tế và từ các vận động của các tổ chức-đoàn thể trong các địa phương. Giai đoạn này cũng là sự thức tỉnh tự thân của giới thanh niên-trí thức trẻ (trong đó có các văn nghệ sĩ), đưa đến cuộc đấu tranh chống Pháp năm 1945. Người ra chiến khu, vô bưng hoặc về lại thành phố trong tinh thần ái quốc chống ngoại xâm và được một làn sương lãng mạn-thi vị nhưng hào hùng phủ lên. Vũ Anh Khanh là một người trong số họ. Là một chiến sĩ, đi qua nhiều vùng đất nước, mắt ông đã thấy nhiều cảnh chết chóc, nhà cháy, tang thương của xóm làng sau một trận chiến. Và, không biết trong một lần nào đó, ông đã có dịp dừng chân tại Tha La rồi khung cảnh của một xóm đạo thời ly loạn... đã gây một xúc động ghê gớm nơi ông, khiến ông sáng tác ra bài thơ (chúng ta hãy nghĩ vậy).
Hận Tha La là một bài thơ dài kiểu hợp thể. Đoạn mở đầu là Ngũ Ngôn rồi chuyển sang Tám Chữ, sau đó thành
Kịch Thơ (đoạn giữa) và kết thúc bằng hai câu Thất Ngôn. Một bài thơ
hay, có hồi có cảnh. Tiết tấu thay đổi với khung cảnh và khung cảnh thay
đổi với các nhân vật trong bài thơ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét