Thứ Bảy, 20 tháng 2, 2016

Thế giới ca Phạm Ngọc Thái



PHẠM NGỌC THÁI 
MỘT BẦU TRỜI THƠ SÂU THẲM
Cô giáo Hoàng

Kết quả hình ảnh cho Hoa mùa xuân                                                   
      Đọc thơ Phạm Ngọc Thái, ta nhận thấy ở anh một tâm hồn tha thiết yêu thương và thường hồi ức về những kỷ niệm đã xa xưa:

                           
Hãy níu lại dùm ta! Một thời dĩ vãng…
                            Gió vẫn trôi, lá vẫn bay vèo
                            Nhưng vẫn đó: em, anh - cuộc sống
                            Và một mối tình ta đã tặng cho hết thảy trăng sao.
                                                        (Khoảng trôi trong lá)
     Hay bài Anh Vẫn Ở Bên Hò Tây:
                            Tình để lại vết thương không lành được
                            Soi mặt hồ in mãi bóng thời gian
                            Em hiền dịu trái tim từng tha thiết
                            Người con gái anh yêu
                                                    nay hóa khói sương tan.
     Một số bài thơ ta lại thấy hiện lên một cái bóng bảng lảng cõi thiền, quanh quất chốn phật đài của cái buổi hoàng hôn trong cuộc đời:                            
                              Chiều lễnh loãng bóng đa gù bên phố
                              Mõ chùa buông thay tiếng nói của tình yêu!
                              Trong sân gạch sư già quét lá
                              Bước người đi thầm lặng cõi hư hao...
                                                      (Một góc hồ Tây)
     « Mưa bay trong tiếng chuông »:
                              Chuông chùa thỉnh lên lời cầu nguyện
                              Nam-mô-a-di-đà!
                              Trong khúc mưa bay âm vang trời đất
                              Nửa tỉnh, nửa mê cũng thể như là…
     Thơ Phạm Ngọc Thái giầu triết lý. Đặc điểm của tính triết lý ấy là được vận từ đời sống vào thơ, chắt ra từ tim óc nên cảm xúc mạnh mà không bị gò ép. Thí dụ:
                              Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu
                              Anh cũng không làm chàng Trương Chi
                                                 suốt đời chèo sông vắng
                              Ta không đi theo con-đường-lông-ngỗng-trắng
                              Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau!
                                                  
(Người đàn bà trắng)
     Cái đời thường được khái quát bằng một sự trải nghiệm sâu sắc: con người với xã hội, cá nhân và thế giới. Nó mang tính đời sống triết học, tính vũ trụ… tồn tại và cát bụi. Tùy  theo cảnh tình nhào luyện thành vóc thơ ca.    

THAI hình ok
                      Nhà thơ Phạm Ngọc Thái   
A.  ÍT NÉT VỀ SỰ KHÚC TRIẾT TRONG THƠ ĐỜI CỦA ANH

    Thơ đời Phạm Ngọc Thái đẫm tính hiện thực, xã hội và thời đại. Nó rất cô đúc. Để nói về sự vất vả, lam lũ kiếm miếng cơm manh áo của người lao động, anh ví cuộc đời của họ giống như những chiếc chổi tre kéo lê trên đường, năm tháng bị mòn vẹt dần đi:
                            
Em quét lá lẫn đời lẫn kiếp
                            Tiếng chổi mòn kêu xiết vào tim
                                                 
(Cô quét lá đêm hồ)
       Tác giả đã gắn nỗi lòng mình trước những sự mất mát của những con người bần hàn ấy, theo nghĩa ẩn dụ sâu sắc:
                              
Trăng như đứa không nhà trôi lạc lõng
                               Con nai vàng chết bóng thu xưa...
      Hình ảnh sinh động mà đa nghĩa. Tả về cô quét lá đêm mà thơ như một khúc hát du dương, cứ thánh thót gieo thấm vào lòng ta:
                              
Liễu ru nhè nhẹ quanh bờ vắng
                               Em thầm thì quét lá bên tôi!
     Trong bài thơ "Em bán xoài", tại một khung cảnh bên bờ biển thành phố Nha Trang.  Dưới những bóng dừa xứ sở là những thân phận đang sống nổi trôi, vất vưởng chốn nhân quần. Chủ nghĩa nhân đạo của bài thơ chính là lòng thương người và nỗi đau đời:
                             Thế giới em đi "vòng thiên la địa võng"
                             Tóc còn xanh em bán kiếp đời trôi
                             Xoài em thơm hương toả mát thân người
                             Ai mua xoài?
                                                     Còn ai có mua em?
      Để phản ảnh thân phận những lớp người xuất khẩu lao động ở nước ngoài, chẳng khác gì là đoàn quân ô hợp, bèo dạt mây trôi. Nhiều nơi nhiều chỗ tranh giành, xô xéo, dối lừa nhau làm ăn không kém gì cảnh chợ giời. Đạo đức bị tha hoá:
                            Kẻ tìm vàng - Người vì cảnh nghèo đi
                            Đạo lý có hoá thừa đành giả dại làm ngơ
                            Đứa mách qué lại vân vi dễ sống...
                            Hạt muối xót tháng năm và lòng ai đắng?
                            Tôi nhận chìm tôi vào những lãng quên.
                                            (Nỗi trăn trở người đi tìm vàng).
      Còn ở bài « Làm ma em vợ », ta lại thấy thi phẩm nhuốm đầm nỗi kiếp đoạn trường ở trong kinh Phật:
                             Em ơi: chữ “kiếp” trước chữ “người”!
                             Sống cần cố gắng, chết rồi thôi.
                             Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ...
                             Anh ở vì chưng trả nợ đời.
     Nhà văn Đào Viết Minh khi bình bài thơ này đã có nhận xét:
     "Làm ma em vợ" là một bài thơ khóc. Đứng trước bao cảnh đời khốn khổ trên bờ bến nhân gian, với tâm khảm xót xa một người em vợ, nhà thơ đã viết ra bài khóc tang này... Bài thơ tuy cũng dựa trên một nỗi đời cụ thể, nhưng nó có cấu trúc của một bài thơ tượng trưng nói về nơi bể khổ dân tình - Câu thứ ba của đoạn thơ này:
                         Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ...
     Cái nạn kiếp người nơi hạ tầng của chúng sinh thời nào mà chẳng khổ? Trải qua những thăng trầm trong nhân tình thế sự, chiêm nghiệm tận thẳm sâu tâm linh cuộc đời mình, thấm đẫm về chữ "kiếp" luân hồi ấy để nỗi xót thương từ trong lòng tác giả trào ra: Em chết, là coi như đã trả hết nợ đời đó em!... /-
Mặt sau của bản thơ là tiếng kêu cứu xã hội, tiếng khóc nấc bật ra từ trong khối cộng đồng của thời hiện đại này?... Bài thơ chỉ như một lời khấn cầu từ bi nơi cửa phật để thắp cho đứa em tội nghiệp, cùng những kẻ đáng thương đã sinh ra ở trên cõi trần ai, một nén nhang đời!".
     Vân vân...


            

 
                                  



 Cô giáo Nguyễn Thị Hoàng

B-  THƠ TÌNH PHẠM NGỌC THÁI GIÀU  SẮC THÁI VÀ HAY

     Hầu hết đều xuất phát từ những mối tình dang dở hoặc tan vỡ. Tuy tình yêu của nhà thơ với người con gái đã qua đi, nhưng trái tim anh vẫn tha thiết, nồng nàn lắm. Có khi còn tạo ra cả những thiên tình diễm lệ, rất đa dạng và phong phú.
      Tôi có thể kể ra đây một số tình thơ, như bài « Khoảng trôi trong lá », được cấu thành dưới gió mưa và trăng sao. Những kỷ niệm tình yêu xưa trở về cồn cào, day dứt trái tim thi sĩ, tạo thành cảm xúc cho thơ trào ra:
                           Bỗng cồn nhớ một thời dĩ vãng
                           Gió cứ trôi không hữu hạn bến bờ
                           Nhưng vẫn đó: Em, anh - cuộc sống
                           Xa nhau rồi! tình cũ đến bơ vơ...
     Tình yêu thì đã vào bụi cát, nhưng cuộc sống của anh và em thì vẫn phải tồn tại... dù trong lòng bao nỗi nhớ thương:
                          Có bao lá cây rơi, em đã vào xa vắng
                          Lá nuốt em. Giờ sống thế nào rồi?
                          Em sung sướng? Ưu phiền? Lãng quên hay bụi cát?
                          Mặt trăng trên trời. Tim anh rất mồ côi !
    Chỉ có tiếng lá và tiếng gió vu vi kia đáp lại lời tâm tình đó của anh.
    Về thơ tình mùa thu thì sâu lắng và súc tích. Cái cách tả người yêu của anh thành biểu tượng:
                         Đôi mắt em bóng trúc bay xoà...
                         Đường phúc hậu vầng trăng đầy nở...
                         ... Môi em cười hoa lá nát đau thêm.
                                                (Sáng thu vàng)
    Để rồi anh hạ một câu thơ thật đắt:
                         Người đàn bà, em nuốt mùa thu tan!  
    Chữ «nuốt mùa thu» còn mang theo cả ý nghĩa thơ siêu thực. Hay ở bài « Đêm thu phố vắng »:
                        Ta sẽ viết cho ai bài thơ đêm thu vắng?
                        Tiếng trong khuya em gọi vọng rất xa
                        Trên thảm lá lòng ta say đắm
                        Tha thiết bên em vì không muốn đêm qua...
    Anh đã đem đến cho thi đàn mấy bài thơ mùa thu đặc sắc.
   « Thông và biển » là một tình thơ mà đôi trai gái đã được hoá thân vào đất trời, để ca vọng mãi tình yêu tuổi trẻ:
                       Anh đứng làm cây thông trên đá, sỏi
                       Vi vu kêu... tình thiếu nữ qua rồi!
     Trong cuộc sống đầy đá, sỏi... Tháng năm thì như một đoàn tàu nghiền đời ta thành tan nát, nhưng "thông và biển" vẫn cứ quấn quít mà hát mãi bên nhau. Chúng hát rằng: Trong sự tồn tại của đất trời chỉ có tình yêu là vĩnh cửu!
      Nếu ở bài Người Đàn Bà Trắng, ta bắt gặp một Phạm Ngọc Thái với cách triết lý về tình yêu - cuộc sống rất thực tiễn như đã nói ở trên - thì trong « Em về biển », tình yêu ấy lại được nhà thơ đẩy cao lên thành một thần tượng thiêng liêng:
                        Bờ bãi đời người - Cuộc sống tình yêu
                        Trái tim nhỏ em dựng cả toà sen chân Phật Tổ!

      Như nhà thơ Nga M.Lermôntốp đã thần tượng tình yêu đối với người đàn bà:
                        Tượng thờ dù đổ vẫn thiêng
                        Miếu thờ bỏ vắng vẫn nguyên miếu thờ.
      Ở bài Một Góc Hồ Tây tôi thích cái câu thơ:
                       Thiếu vắng em nên anh lẻ bóng
                       Lá vàng rơi thay vào chỗ em ngồi...
      Bài thơ vẽ lên một bức hoạ mà mỗi cảnh vật đều thấm đẫm tâm linh của một con người đã bước vào tuổi hoa niên. Tâm hồn nhà thơ vẫn yêu da diết nhưng lại chơi vơi nửa vời bởi sự cô liêu, đầy sắc hư hao:
                      Trong tiếng lá bay... chầm chậm bóng ta theo...
     Về « chùm thơ áo trắng », nuối cảm những tình yêu chớm nở thưở ban mai. Có những câu thơ hình tượng gợi vào trái tim làm ta bàng hoàng, da diết:
                     Tà áo trắng động vào... khe khẽ nát tim anh!
                                                           (Thời áo trắng)
   Hay là:
                     Tà áo trắng trôi dưới dòng mây bạc
                     Lang thang vài cánh bướm bơ vơ
                     Áo trắng in ngang trời - sét đánh!
                     Lưỡi dao nào cào nát tim thu?
                                              (Phố thu và áo trắng)
     Nhà thơ không khỏi bỡ ngỡ, thảng thốt như một giấc chiêm bao. Vừa mới thoáng đây thôi mà mình đã già rồi? Vì thế nên cả thành phố cũng hiu hắt, cô đơn cùng nỗi lòng anh, muốn níu kéo lại một thuở nào:
                      Trả lại cho anh một thời áo trắng
                      Em đi rồi, mai thành phố cô đơn!
    
Trái tim của nhà thơ nhiều khi giống như một con tầu chở đầy ắp tình yêu chuyển bánh. Con tầu ấy chạy qua những cái quán cô quạnh trong tiếng gió hú, những vầng trăng chết đuối đang trôi, những làn mây lang thang ở chân trời và cả thành phố đang chìm đắm trong đêm. Tình yêu người thiếu nữ như hồi chuông nơi thánh đường trắng trinh,  vuốt ve trái tim đau nhói của nhà thơ. Trái tim ấy như một loài hoa không ngủ, nó bay theo con tầu chuyển bánh đi mãi, đi mãi tới vô cùng:
                  Quán cô quạnh suốt đời nghe gió hú
                  Trăng chết đuối rồi… trắng dại… đang trôi…
                  Mây lang thang dưới chân trời bão tố
                  Thành phố chìm trong đêm xa xôi.
     Và:
                   Hương đã theo anh và con tầu chuyển bánh
                   Đến vô cùng mà chẳng biết đi đâu?
                                    (Trong bóng cây ngủ đêm)
     Tình yêu trong hoài vọng, trong kí ức là vô vi… nhưng nó vẫn như cánh chim bay xa, mang đến cho anh cả đau khổ cùng hạnh phúc, khát vọng và tan vỡ! Những hình tượng thi ca chứa đầy ắp trong tâm hồn của nhà thơ, theo cảm xúc dào dạt bay ra mà tạo thành hàng trăm áng thi ca ngập tràn hương sắc.
    Có khi chỉ nằm trong nhà nghe thấy tiếng rúc của một con chim đêm trong bụi cây, với nỗi trống trải cô dơn của lòng mình - Thế là tác giả liên tưởng tới câu chuyện tình của đôi chim:
                   Chim gọi đàn - Anh gọi tên em
                    Năm tháng, nắng mưa, non ngàn, bão tố
                   Có lẽ nào em không về nữa?
                   Để hồn anh hoang mạc bơ vơ...
     Và chuyện "tình chim" trở thành chuyện "tình người". Mối tình cũ lại gợi về:
                   Đã xa rồi! Mùa dĩ vãng trăng mơ
                   Đời vui vẻ cuốn theo dòng gió bụi…
    Để rồi:
                   Con chim đêm run rẩy bóng xanh già
                   Anh bổi hổi một thời qua vọng lại...
                                        (Tiếng rúc chim đêm)
     Đó là tiếng run rẩy của con chim? Không! Đó là tiếng run rẩy của trái tim thi sĩ còn vọng mãi vào năm tháng xa xôi, vô cùng, vô tận kia. Tiếng lòng của anh vọng gọi người yêu!? Thơ đã mang ý nghĩa nhân bản sâu sắc trong tình yêu và sự sống con người.      
     Thơ tình của Phạm Ngọc Thái nhiều vô kể, sâu sắc và không ít thi phẩm đã đạt được tầm vóc là những bài thơ tình hay! Hầu hết đều  là thơ tự do hiện đại. Tác giả rất coi trọng tính nhạc và giọng điệu nên thơ đọc cuốn hút, truyền cảm được trái tim đời. Có thể nói, thơ Phạm Ngọc Thái như một bầu trời mênh mông sâu thẳm... được chẩy ra từ trong máu tim và cuộc đời. Càng đọc sâu càng thấm thía.

   
               NGUYỄN THỊ HOÀNG
      Giảng viên Trường ĐH Sư phạm
 
HÀ NỘI QUA THƠ 
CỦA NHỮNG THI NHÂN
Phạm Ngọc Thái




Hà Nội qua thơ của những thi nhân và trong dân gian nhiều không kể hết. Cũng giống như bóng trăng trong tâm khảm mọi người, đậm tình và giầu hương sắc. Trải qua bao thế hệ đã trở thành trung tâm tụ hội, chính trị và văn hoá xã hội.
      Cụ Nguyễn Du trên đường đi sứ qua Thăng Long (1813), xúc động mà hoài cảm về những kí ức xưa:
                Núi Tản, sông Lô vẫn núi sông,
                Bạc đầu còn được thấy Thăng Long...
                Người đẹp thưở xưa nay bế trẻ,
                Bạn chơi thưở nhỏ trở thành ông.
      Từ những kỷ niệm riêng, chung. Lòng cụ bồi hồi:
                Thành mới trăng xưa bóng tỏ mờ
                Thăng Long nghìn trước chốn kinh đô,
                Dấu xưa khuất lấp đường xe ngựa
                Điện mới xô bồ nhịp trúc tơ.
                                    ( Thành Thăng Long )
      Còn nữ sỹ Hồ Xuân Hương lại ngợi ca tiên cảnh ở Tây Hồ:
                Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác xưa...
                Trấn Bắc rêu phong vẫn ngấn thờ,
                Nọ vực trâu vàng trăng lạt bóng,
                Kìa non Phượng Đất khói tuôn mờ.
                              ( Chơi Tây Hồ nhớ bạn )
      Á Nam Trần Tuấn Khải (1894-1983) chơi ở thành Cổ Loa, lòng gợi nhớ tới sự tích thời Thục An Dương Vương và bi tình Mỵ Châu - Trọng Thuỷ:
                Thành quách còn mang tiếng Cổ Loa
                Trải bao gió táp với mưa sa,
                Nỏ thiêng hờ hững dây oan buộc,
                Giếng ngọc vơi đầy giọt lệ pha.
                             ( Chơi thành Cổ Loa )
      Nhà thơ Nguyễn Khuyến dẫu 30 năm xa cách, vắng bóng, mà lòng vẫn khôn nguôi nhớ về hồ Hoàn Kiếm:
                Ba chục năm trời cảnh vắng ta,
                Hồ Gươm dấu cũ đã phai nhoà...
                Chiếc én tìm về quên lối cũ,
                Đàn cò tối đậu lẫn sương mờ.
                              ( Hồ Hoàn Kiếm )
      Vũ Trấn Quốc cùng thời với cụ Cao Bá Quát, đã ngợi ca cảnh phường Bích Câu:
                Thành Tây có cảnh Bích Câu,
                Cỏ hoa góp lại một bầu xinh sao,
                Đua chen thu cúc xuân đào,
                Lựu phun lửa hạ, mai chào gió đông.
                               ( Cảnh Bích Câu )
      Nhưng kinh đô Thăng Long trong tâm khảm các nhà thơ thời trước không chỉ được ngợi ca phong cảnh đẹp, mà còn ghi nhiều dấu ấn chống ngoại xâm - Trần Quang Khải (1241-1294) viết trên đường đưa vua về kinh đô:
                Bến Chương Dương cướp giáo giặc
                Cửa Hàm Tử bắt quân Hồ.
                                ( Phò tá về kinh )
      Lý Thường Kiệt (1019-1105) - Ông từng làm thơ, vừa để huấn dụ vừa khích lệ lòng tự hào dân tộc của ba quân:
                Nam Quốc sơn hà Nam đế cư,
                Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
      Thời tiền chiến - Hình ảnh Hà Nội cũng rất gắn bó trong nỗi tình thơ của các thi nhân. Họ ghi lại những tâm trạng, những kỷ niệm vui, buồn... trong cuộc đời ở nơi phố phường. Nhà thơ Vũ Hoàng Chương sau bao năm tháng phiêu bạt trở về phố cũ, lòng ông vẫn xốn xang:
                Ôi chốn ngày xưa vai sánh vai...
                Hồ Gươm sóng lụa bờ tơ liễu...
                Thấp thoáng hè qua đài phượng rụng,
                Lào rào thu muộn lá xoan rơi.
                Nửa kiếp lênh đênh dừng phố cũ,
                Tình thơm mộng nhỏ tóc buông vai.
                                          ( Phố cũ )
      Tản Đà thì mô tả trong đêm ở hồ Tây:
                Hiu hắt hồ Tây chiếc lá rơi
                Đêm thu vằng vặc bóng theo người,
                Mảnh tình xẻ nửa ngây vì nước
                Tri kỷ trông lên đứng tận trời.
                               ( Tây Hồ vọng nguyệt )
      Trần Huyền Trân thả nỗi niềm về những ngày tháng sống lận đận trong cái túp lều bên hồ Cống Trắng, ở phố Khâm Thiên. Lòng tri kỷ với phố mà vẫn buồn man mác:
                Tôi ở lều gianh Cống Trắng này
                Chạnh lòng cá nhảy với chim bay,
                Đêm sầu kẽo kẹt ngư bà thức
                Giăng phải hồn tôi một lưới đầy.
                               ( Mưa đêm lều vó )
      Nhà thơ Thế Lữ đứng giữa đêm giao thừa Hà Nội trước năm 1945, than cho kẻ phải sống lang thang bụi đời:
                Lê gót mòn trên đá,
                Ngẩng đầu trông cơn gió thổi
                Lá vàng rơi lác đác
                Cùng rơi theo loạt nước đọng trên cành,
                Những cây khô đã chết cả mầu xanh...
                Hỡi người bạn! Anh định về đâu đó?
                                 ( Con người vơ vẩn )
      Nhà giáo và cũng là một nhà thơ Vũ Đình Liên lại hoạ cảnh một Ông Đồ thường ngồi bên phố, viết câu đối thuê cho khách:
                Nhưng mỗi năm mỗi vắng,
                Người thuê viết nay đâu?
                Giấy đỏ buồn không thắm,
                Mực đọng trong nghiên sầu.
                                 ( Ông Đồ )   
     Nguyễn Bính nói về cảnh chia ly của những người trên sân ga:
                Những cuộc chia lìa khởi tự đây...
                Những chiếc khăn mầu thổn thức bay
                Những bàn tay vẫy những bàn tay
                Những đôi mắt ướt tìm đôi mắt
                Buồn ở đâu hơn ở chốn này?
                              ( Những bóng người trên sân ga )
      Nhưng Hà Nội trước kia không phải chỉ có buồn như thế. Nữ thi sỹ Anh Thơ đã mô tả về nỗi lòng rạo rực về một cảnh đêm Hà Nội:
                Căn phòng ta thênh thang hai cửa sổ
                Mây trắng đi qua, sông Hồng thả gió,
                Mỗi năm mùa hè, tắt điện đón trăng khuya...
                               ( Căn phòng ta )
      Thơ ngợi ca về Hà Nội trong hai cuộc kháng chiến cũng rất nhiều. Hồi đánh Pháp, Nguyễn Đình Thi đã không nén nổi xúc động khi đứng giữa Thủ đô đã được giải phóng:
                Hà Nội chiều nay mưa tầm tã
                Ta lại về đây giữa phố xưa...
      Ông reo lên như muốn vỡ tung tim:
                Ta đứng khóc giữa trời mưa hắt
                Leng keng chuông xe điện đổ hồi
                Lòng ta bỗng như dòng suối mát
                Ta đã về đây Hà Nội ơi!
                                   ( Ngày về )
      Những năm đánh Mỹ nhà thơ Nguyễn Mỹ đã viết về cảnh chia ly ở Hà Nội nhưng khác hoàn toàn cảnh sầu thảm xưa kia, bởi vì cuộc chia ly này Hà Nội đã tiễn người đi chiến đấu để giữ nước:
                Đó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ
                Tươi như cánh nhạn lai hồng
                Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ
                Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa...
      Và nhà thơ kết luận:
                Như chưa hề có cuộc chia ly!
                              ( Cuộc chia ly màu đỏ )
      Vũ Quần Phương mô tả về Hà Nội trong những ngày tháng chống chiến tranh phá hoại của Giôn Xơn, để sau 12 ngày đêm lịch sử Hà Nội đã trở thành lương tri và phẩm giá loài người:
                Cả Hà Nội rung lên, xe xích chạy rung đường,
                Đêm ấy tôi nghe những em bé qua tôi
                                                            vẫy bàn tay sơ tán.
                Bé lên mười dắt bé lên năm,
                Hà Nội toả đi xa những cô giữ trẻ,
                Bệnh nhân đi và thầy thuốc đi theo.
                Hà Nội nhận vào lòng những cỗ pháo phòng không,
                Những cỗ xe tên lửa.
                                    ( Tâm sự một căn nhà )
      Dù xưa hay nay, chiến tranh và hoà bình, đến thời buổi kinh tế thị trường mở cửa này... Hà Nội quay chóng mặt - Nhưng Thủ đô của chúng ta vẫn mãi là một thành phố trữ tình, như nhà thơ Xuân Diệu đã viết:
                Em đưa anh vào trong bóng trăng
                Anh đưa em cành liễu thung thăng
                Đường Láng thơm bạc hà kinh giới
                Xuống đây, đi với anh đêm trăng.
                                 ( Đêm trăng đường Láng )
      Thanh Thảo viết:
                Gia đình mình đã sơ tán chưa em,
                Chiều thứ bảy em có về phố nhỏ
                Có ngập ngừng trước khi mở cửa,
                Lá sấu rơi xúc động bên thềm...
                Gốc sấu này mòn dấu em chờ anh.
                                 ( Dòng chữ cho em )
     Nỗi tình của nhà thơ Tế Hanh thì lại được ông diễn tả đầy thi vị:
                Thế là Hà Nội vắng em...
                Người qua lại tưởng anh tìm bóng cây?
                                 ( Hà Nội vắng em )
      Tôi cũng có nhiều kỷ niệm về Hà Nội. Dù Hà Nội đã có bao thay đổi, nhưng vẫn mãi mãi là những hồi ức như thuở còn thơ, tựa thể một ngoại ô xưa. Hơi hiu hắt mà thơ mộng, có lá sấu rụng, lá me rơi. Tối tối những đôi trai gái dắt nhau ra tình tự bên hồ. Những tiếng xe điện leng keng thưở xa xưa, những chuyến tàu chạy xình xịch vào ga Hàng Cỏ. Người tiễn kẻ đi xa, người đón kẻ trở về:
                Hà Nội cứ suốt đời nghe lá rụng
                Những ngọn đèn ô cửa mùa đông
                Trái sấu nhỏ bàng hoàng như kỷ niệm
                Nước hồ xanh rêu bám kín Tháp rùa.
 
                Hà Nội cứ rầm rì trang tình tự
                Của những đôi trai gái bên bờ...
                Tà áo trắng em bay một thời thiếu nữ
                Theo anh hoài đến tận lúc già nua.
 
                Hà Nội mới mà như là cổ tích
                Phía nhà ga đoàn tàu đến rồi đi,
                Những giọng nói lẫn vào lời gió thổi...
                Ai trở về... và ai sắp chia ly?
 
                Đêm tóc trắng lại nghĩ về Hà Nội
                Nằm thở dài, nhớ quá! Bóng em xưa...
                               (Nghĩ về Hà Nội - Phạm Ngọc Thái)
      Hà Nội mãi mãi sống trong lòng và trái tim tôi.
 
      PNT.  
                           
Thơ Phạm Ngọc Thái 
Những năm tháng bèo dạt mây trôi 
Trích "Phê bình & tiểu luận thi ca", 
Nxb Văn hoá Thông tin 2013 
Khánh Hòa 
                                                                                                            
              NỖI TRĂN TRỞ
               NGƯỜI ĐI TÌM VÀNG
Tôi sống âm thầm trong một đoàn người hỗn hợp
Rời quê qua bên kia biển sóng
Kẻ tìm vàng - Người vì cảnh nghèo đi
Đạo lý có hoá thừa đành giả dại làm ngơ
Đứa mách qué lại vân vi dễ sống.
Hạt muối xót tháng năm và lòng ai đắng?
Tôi nhận chìm tôi vào những lãng quên!

Ai mang bán vàng mười giữa phiên chợ đông? (1)
Tôi tìm chắt những bụi vàng như anh lính lê-dương
                                           lọc sàng từng đống rác...(2)
Dầu kẻ bán - Người tìm vàng có khác
Nhưng giá vàng tính cũng như nhau.
Nhìn cánh dơi đen xao xác trời chiều
Cứ để cho tất cả lãng quên!

Cây lý chiều xưa gió còn đưa lại
Bông đại ở quảng trường hương vẫn giăng tơ…
Chút thơm thảo đoá phù du ngắn ngủi
Giả dại ở đời thường mà khôn lại trong mơ.

Rồi một ngày, sẽ có một ngày qua
Những năm tháng không bẩn đấy,
                                     cũng rộm vàng khói cột
Nhưng tôi đã có một thỏi vàng, thứ vàng rất thật!
Đánh một đoá hồng vàng tôi trao đứa con thơ
Người vợ quê hương mỏi mắt đợi chờ
Một chút nữa với bạn bè thân hữu
Và khi đó tóc có ngả mầu chút xíu
Dù cho tất cả đã quên tôi !?

                                
  Phạm Ngọc Thái
                            Nước Đức- Đêm 11/9/1989


(1) Mượn ý trong câu thơ của Nguyễn Duy: " Còn chút vàng mười mang ra bán nốt"
(2) Phỏng theo tích truyện Bông Hồng Vàng của nhà văn Nga Pau-Tốp-xki.


  
LỜI BÌNH:  Vào những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, các đoàn người xuất khẩu lao động ồ ạt đổ ra nước ngoài. Bối cảnh trong nước hỗn độn. Nền kinh tế xã hội sa sút. Đời sống dân tình, nhất là nhiều vùng quê rơi vào cảnh nghèo khổ đáng báo động. Thế giới thì đảo loạn. Sang thập niên 90 Xô Viết Nga tan vỡ, rồi hàng loạt các nước trong phe XHCN Đông Âu bị sụp đổ. Sương mù chủ nghĩa bao phủ bầu trời. Như ở trong bài "Trở Về" của tập thơ Người Đàn Bà Trắng, tác giả đã viết:  
                        Đông Âu bão giật xiêu Thành Mác
                        Bốn bể chân trời lạc khói sương...

       Bấy giờ nhà thơ còn là một cán bộ ngành ngoại thương  quốc tế. Anh được điều động từ trong nước ra nước ngoài tham gia công tác quản lý một đơn vị xuất khẩu lao động. Đó chỉ là thực cảnh của các đám dân dã đi tha phương kiếm sống. Những trăn trở riêng chung của tác giả trước một thực tế đầy phức tạp, để vào một đêm Nỗi Trăn Trở Người Đi Tìm Vàng đã ra đời:
                        Tôi sống âm thầm trong một đoàn người hỗn hợp
                        Rời quê qua bên kia biển sóng
                        Kẻ tìm vàng - Người vì cảnh nghèo đi

      Bài thơ phác lên một bức tranh được khai thác cả bề diện lẫn bề sâu. Những lớp người này phần lớn đều thuộc con em các gia đình nghèo khổ, tình cảm quê hương gắn bó cũng rất tha thiết. Song cảnh tượng diễn ra nơi đất khách quê người thì thật kinh khủng, đến mức đạo lý sống tưởng chừng như không còn chỗ để dung thân. Nhiều nơi, nhiều chỗ tranh giành, dối lừa nhau làm ăn không kém gì cảnh chợ giời. Nó đã thuộc vào hàng là những lớp chúng sinh tận cùng đáy xã hội rồi:
                        Đạo lý có hoá thừa đành giả dại làm ngơ
                        Đứa mách qué lại vân vi dễ sống...

     Lòng anh luôn bị dày vò, xa xót:
                        Hạt muối xót tháng năm và lòng ai đắng?
                        Tôi nhận chìm tôi vào những lãng quên!

       Sử dụng những cụm từ như: giả dại, làm ngơ, mách qué, vân vi... mà vẫn giữ được phong cách của dòng thơ trữ tình chính thống, bản sắc thêm đậm đà chất văn học dân gian. Người đã phải hoá mình thành giả dại, ngây ngô, cười cợt... mà sống. Nén mình nuốt cái "đạo lý có hoá thừa" kia đi, tự nhận chìm bản thân như là không tồn tại để lãng quên.

      Tiếng thơ từ trong trái tim đau bật ra mặn đắng hơn cả dòng nước mắt.  Đó là sự mở đầu bi hài của cuộc sống trong Nỗi Trăn Trở Người Đi Tìm Vàng này. Ta hãy nghe xem cái giá phải trả của những kẻ đi xuất khẩu lao động đó như thế nào?
                        Ai mang bán vàng mười giữa phiên chợ đông? (1)
                        Tôi tìm chắt những bụi vàng như anh lính lê-dương
                                                             lọc sàng từng đống rác...(2)
                        Dầu kẻ bán - Người tìm vàng có khác
                        Nhưng giá vàng tính cũng như nhau.

         Câu (1) - Sử dụng ý thơ của nhà thơ Nguyễn Duy: Còn chút vàng mười mang ra bán nốt/-  "vàng mười"ở đây chính là thứ vàng của lương tâm. Nghèo cực quá thì đến cả tâm hồn cũng phải mang mà bán cho quỉ sứ! Nền tảng xã hội quá thấp thì cá nhân làm sao có thể giữ cho mình trong sạch được? Huống hồ quan hệ cuộc đời còn có cả gia đình và những người thân. Nếu nhà thơ kia có lúc còn phải mang cả "một chút vàng mười" còn sót lại trong mình ra phiên chợ người mà bán? thì hẳn cái thứ vàng kiếm được của đám người lao động tha phương, giá đổi chua chát hơn nhiều.
      Còn câu (2):
                        Tôi tìm chắt những bụi vàng như anh lính lê-dương

                                                                                   lọc sàng từng đống rác...
       Phỏng theo tích truyện Bông Hồng Vàng của nhà văn Nga Pau-Tốp-xki: Có người lính lê-dương làm cận vệ cho một viên tướng Pháp. Trong chuyến sang chiến trường Đông Dương, viên tướng ấy mang theo một cô con gái nhỏ. Trước khi bị tử trận, viên tướng còn kịp dặn lại người lính cận vệ của mình: Hãy mang cô con gái của ông về trao lại cho mẹ nó ở Pa Ri!

     Trên đường về Pháp lênh đênh qua đại dương, bé gái ngây thơ cứ thầm ao ước có một Bông Hồng Vàng. “ Bông hồng vàng “ chính là biểu tượng cho ước mơ hạnh phúc của cuộc đời bé gái. Những tháng năm sau đó, cuộc sống cực khổ đã xô đẩy anh lính trở thành một người quét rác nghèo hèn, sống trong một túp lều xiêu vẹo dưới gầm cầu ngoại ô Pa Ri. Ngày ngày khi quét qua các cửa hiệu kim hoàn, người quét rác lại chắt vét lấy những nắm cấn rác có dính chút bụi vàng mang về nơi mình ở. Năm này qua năm khác, dần dà anh ta cũng tích được một ít vàng đủ để nhờ người thợ kim hoàn làm cho cô bé gái một bông hồng vàng nhỏ. Cô bé ấy giờ đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp ở Pa Ri!

      Trớ trêu, bông hồng vàng chưa kịp gửi đi cho cô gái, thì người quét rác đã chết trong đói nghèo và tủi nhục. Xác anh nằm trên một manh chiếu mục, đầu vẫn gối lên bông hồng vàng nhỏ, sau đó bị người thợ kim hoàn đến lấy đi mất… không đến được tay cô gái.
       Vậy là - Thứ vàng mười lương tâm mà nhà thơ kia đã phải mang ra chợ người để bán, cũng như vàng của kẻ quét rác lăn lộn kiếm từ trong rác bẩn cuộc đời, với loại vàng mà đám người lao động làm thuê ở nước ngoài kiếm được:
                        Dầu kẻ bán - Người tìm vàng có khác
                        Nhưng giá vàng tính cũng như nhau.

       Nó đã phải đổi bằng cả sự tủi cực và nhục nhã. Đem cả ba thứ vàng đó đặt lên chiếc bàn giá của lương tri, thì chúng đều phải trả cái giá đổi như nhau mà thôi. Ý thơ thật xót xa. Nó phục lại một bối cảnh xã hội đầy mâu thuẫn, nền đạo lý bị tha hoá, dung lượng thơ có sức chứa tính thời đại rất lớn. Đây là những câu thơ hay nhất bài, như lời một nhà bình thơ đã nhận xét: Nó có thể đạt đến những câu thơ trở thành kinh điển!
       Thông qua sự trăn trở bản thân, tác giả đã khai thác vào nỗi lòng tâm linh của những người lao động, đưa tính nhân bản thơ lên đến tột cùng:
                        Cây lý chiều xưa gió còn đưa lại
                        Bông đại ở quảng trường hương vẫn giăng tơ
                        Chút thơm thảo: đoá phù du ngắn ngủi

        Sự khao khát những chiều hương lý trong kỉ niệm, nhớ đến những bông đại nơi quảng trường quê hương - Nỗi đau và tình thương yêu giằng xé trong lòng những con người ấy, càng thấy sự phũ phàng thực tế mà những kẻ đi tìm vàng đã phải chịu đựng. Kịch tính biết bao khi chính họ lại phải sống với nhau như hài kịch:
                        Giả dại ở đời thường mà khôn lại trong mơ...
       Câu thơ điệp trở lại hai lần để nhấn mạnh, thật là một màn bi hài của xã hội và cuộc đời. Bài thơ tuy là tự sự bản thân, nhưng đã trở thành đại diện cho một lớp dân sinh đông đảo nhất xã hội. Cuối cùng tác giả lý giải về mục đích mà những nỗi đời trớ trêu ấy đã phải chịu đựng:
                      Nhưng tôi đã có một thỏi vàng, thứ vàng rất thật!
                      Đánh một đoá hồng vàng tôi trao đứa con thơ
                      Người vợ quê hương mỏi mắt đợi chờ
                      Một chút nữa với bạn bè thân hữu...

      Vậy nếu khi nhà thơ Phạm Ngọc Thái có phải tự chất vấn về mình:

                     Những năm tháng không bẩn đấy, cũng rộm vàng khói cột 

      Thì cũng giống như cảnh mà Nguyễn Duy đã viết: Còn chút vàng mười mang ra bán nốt/-  Làm sao ta có thể lên án được, bởi những con người đó đã phải đổi cả một phần nhân cách cần thiết chỉ vì lương tri. Những việc làm của họ là xuất phát từ lương tri của lương tri.      
       Chỉ với hơn hai mươi câu thơ: Nỗi Trăn Trở Người Đi Tìm Vàng phục lại không khác gì một pho tiểu thuyết, một tấn đời! Bài thơ có ý nghĩa hiện thực sâu sắc, giá trị nhân văn cũng như tính điển hình xã hội ở trong một giai đoạn nhiều biến động thời đại phức tạp, xẩy ra cả trong nước và trên thế giới.


    KH.      


 Lê Đình Cánh 
và bài thơ tình Thị Nở - Chí Phèo của Phạm Ngọc Thái

                                          

                    TRĂNG NỞ NỤ CƯỜI

Đâu Thị Nở, đâu Chí Phèo,
Đâu làng Vũ Đại đói nghèo Nam Cao ???
Vẫn vườn chuối gió lao xao
Sông Châu vẫn chảy nôn nao mạn thuyền...

Ả ngớ ngẩn. Gã khùng điên.
Khi tình yêu đến bỗng nhiên thành người!
Vườn xuông trăng nở nụ cười
Phút giây tan chảy vàng mười trong nhau.

Giữa đời vàng lẫn với thau
Lòng tin còn chút về sau để dành
Tình yêu nên vị cháo hành
Đời chung bát vỡ thơm lành lứa đôi!

                              Lê Đình Cánh

 












        Nhà thơ Lê Đình Cánh
                             Lời bình Phạm Ngọc Thái

   Vào một đêm trăng. Gã Chí Phèo đi ăn vạ về say khướt vì rượu, khật khưỡng qua vườn chuối. Ả Thị Nở dở người đang nằm ngủ say sưa ở đó. Gió đêm từ bờ sông thổi về mát rượi. Ánh trăng dọi xuống soi lên người ả, trật cả chiếc yếm cùng lớp da trắng hởn. Chí Phèo, một gã điên khùng từ lâu đã tưởng không còn ý thức gì về sự vui thú, bỗng lúc này lòng khát khao được sống đầy đủ lại bùng lên trong gã? Gã mê man nhìn Thị Nở và tiến đến... Thế rồi, cả người gã đè lên thân thể ả. Ả kêu, nhưng Chí Phèo lại còn kêu to hơn| Thì trong làng, ngoài nước, ai còn lạ gì cái thằng Chí Phèo hay ăn vạ? Nên nghe tiếng kêu của gã chẳng ai buồn đến. Mới lại, tiếng kêu của Thị Nở cũng chỉ là tiếng kêu của một mụ đàn bà đang thỏa mãn, thích thú vì... được yêu! Để rồi sau đó, người ta nghe thấy cả hai giọng cười sung sướng đã phát ra từ cái vườn chuối ấy...
    Gặp lại vườn chuối xưa, trong một chuyến về thăm quê hương của cố nhà văn Nam Cao - Ở làng Đại Hoàng ( tức làng Vũ Đại trong chuyện ), thuộc huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Vẫn bên con sông Châu ngày đêm thao thiết chảy. Tâm hồn nhà thơ Lê Đình Cánh đã rung lên. Cứ như anh đang hồi tưởng lại một tình sử nào đó, chứ không phải là cuộc tình của " Ả ngớ ngẩn. Gã khùng điên. " kia!? Cảnh quê trong thơ anh trào ra bồi hồi, tha thiết:
                   Vẫn vườn chuối gió lao xao
                  Sông Châu vẫn chảy nôn nao mạn thuyền...
     Đó chính là cảm tác dẫn dắt nhà thơ viết lên "Trăng nở nụ cười " này. Anh không đi vào diễn tả tấn bi kịch xã hội như trong chuyện Chí Phèo, chỉ xoay quanh cuộc tình trăng gió... mà đề cập về giá trị tình yêu đối với đời sống con người.
    Nếu đoạn thơ đầu mới chỉ là cảm xúc khi nhà thơ gặp lại tình và cảnh cũ - Thì sang đoạn thứ hai, đoạn thơ cốt lõi, trung tâm của toàn bài. Tác giả đã khoáy sâu vào  để khẳng định về chân giá trị của tình yêu ấy:
                  Ả ngớ ngẩn. Gã khùng điên.
                  Khi tình yêu đến bỗng nhiên thành người!
     Hai chữ "thành người" ở đây có thể hiểu: Tình yêu đã biến đổi kẻ xấu trở nên người tốt, ác hóa thiện, thằng điên loạn Chí Phèo trở nên hiền lành, ả ngớ ngẩn dở hơi như Thị Nở cũng thành phúc thảo, thiết tha. Đó chính là ý nghĩa hoàn lương sâu sắc của tình yêu gái trai, trong mối quan hệ xã hội và con người. Đọc đến câu thơ:
                  Vườn xuông trăng nở nụ cười...
    Ta thấy rõ thái độ cảm đồng của nhà thơ về cuộc tình Thị Nở - Chí Phèo đó. Thời ấy, tầng lớp thống trị đã đẩy chúng ra khỏi lề cuộc sống như một quái thai. Một cuộc tình không luật pháp công nhận. Ấy vậy mà, với tính chân thiện và lương tri... nhà thơ đang ca ngợi chúng. Hai chữ " vườn xuông..." mà thật đầy hương vị. Cả đến bóng trăng còn... " nở nụ cười" . Cảnh tình trở nên huyền ảo, rung rinh.
                  Phút giây tan chảy vàng mười trong nhau...
    Cùng với câu thơ: Khi tình yêu đến bõng nhiên thành người! - Tạo thành hai câu thơ hay nhất bài.
     " Tan chảy vàng mười trong  nhau..." là thứ vàng thực sự của lương tri, thảo thơm và thanh khiết tựa thiên thai. Là một tình yêu không vụ lợi, không tính toán.  Chúng trao nhau hết thảy, trái tim cùng thể xác lẫn linh hồn. Tình yêu ấy tự nguyện và khát vọng!
     Bài thơ viết theo thể lục bát được chia ngắt làm ba đoạn, mỗi đoạn bốn câu, chuyển đoạn là chuyển tứ. Các tứ tuy vẫn nhất quán trong chủ đề tình yêu, nhưng được phát triển từ chuyện đến đời một cách khái quát, hàm súc.
     Đoạn thơ cuối được tác giả đúc rút ra qua thực tiễn, những ý nghĩa về tình yêu - cuộc sống:
                   Giữa đời vàng lẫn với thau
                   Lòng tin còn chút về sau để dành
                   Tình yêu nên vị cháo hành
                   Đời chung bát vỡ thơm lành lứa đôi!
     Ngẫm ra: thì đời nào, thời buổi nào... "vàng lẫn với thau " cũng có. Nhưng anh vẫn tin, lòng tin ấy không đặt vào bất cứ một giá trị vật chất nào, mà vào tình yêu của trái tim! Chỉ có "tình yêu trái tim" mới đầy đủ khả năng hoàn thiện, dẫn dắt nhân tính con người cùng xã hội tốt đẹp hơn! Đó chính là nhân sinh quan của nhà thơ và cũng là tính nhân bản trong thi ca. Khi ta đã có một tình yêu thực sự trong nhau... thì:
                   Đời chung bát vỡ thơm lành lứa đôi!
      Bài thơ "Trăng nở nụ cười" đã được kết thúc ở đó, một cách rất... "hương vị cháo hành", mà thấm đầm nghĩa tình chốn nhân gian.
  
PHẠM NGỌC THÁI 
VỚI TẬP " PHÊ BÌNH & TIỂU LUẬN THI CA "  
Nxb Văn hoá - Thông tin 2013
                                                                
                                                                                                      Cô giáo Hoàng - giới thiệu
                                                                                                               
             Đó là tác phẩm thuộc loại phê bình văn học của nhà thơ Phạm Ngọc Thái đã chính thức ra mắt bạn đọc - Nxb Văn hoá  Thông tin 2013, dày gần 300 trang với 49 bài viết - kể cả những bài bình trong chùm. Tập sách gồm hai phần:
-   PHẦN I :   Phạm Ngọc Thái bình thơ & tiểu luận.
-   PHẦN II:   Thơ Phạm Ngọc Thái với lời bình
     Dẫu tôi đã đọc khá nhiều thơ và những bài bình của ông đăng trên văn đàn mạng từ mấy năm nay, thế mà khi cầm quyển sách ông tặng, tôi cứ lan man đọc hết trang này đến trang khác một cách say mê, cuốn hút. Một tập phê bình và tiểu luận thi ca sâu sắc, thực hay. Kể cả mảng ông bình thơ các thi nhân xưa - nay, cũng như thơ của chính ông đã được chọn lọc qua những bài bình từ các văn nghệ sĩ, nhà giáo cùng các trí thức khác. Đúng theo lời nhà bình luận văn học Nguyễn Đình Chúc đánh giá:

     " Thi ca Phạm Ngọc Thái dù là thơ tình hay thơ đời, những bài đã đạt độ viên mãn về ý tưởng nhân văn cũng như ngôn ngữ nghệ thuật là rất nhiều. Mức độ hay của mỗi bài khác nhau, song những tình thi đó đều có thể làm rung cảm trái tim ta... Chưa từng có thi nhân nào sáng tác được nhiều thơ tình hay đến thế!... Rồi mai sau ông sẽ có cả trăm bài thơ tình đứng trường cửu với đời và nền văn học nước nhà".
 
    Hoặc nghệ sĩ sân khấu và điện ảnh -  Anh Trần trong "Lời nói đầu" tác phẩm, đã viết:
 -   Dù đó là bài ông bình cho đời hay đời bình thơ của ông, đều hiện lên một thi nhân Phạm Ngọc Thái tài hoa. Không chỉ sáng tác được nhiều thơ hay, ông còn là một tay bút bình luận thi ca sắc sảo. Văn của ông súc tích cũng như thơ ông, nó có hồn và giàu cảm xúc để lôi cuốn lòng người. Bạn sẽ thấy cả một thế giới thơ huyền diệu với những lời bình sắc sảo đã được chau chuốt, gọt giũa rất đáng chiêm ngưỡng.
 
    Nói riêng về mảng thơ hay Phạm Ngọc Thái được nhiều tác giả bình, như:
    Nguyễn Đình Chúc bình Váy Thiếu Nữ Bay, là bài thơ mang tính nhân loại có phong cách rất Hồ Xuân Hương, với một bài bình luận về chân dung thi nhân rất nổi tiếng của anh, tiêu đề "Phạm Ngọc Thái có chân dung một nhà thơ tình lớn của dân tộc". Cả hai bài ấy đều được in trong tập sách này.
     Đến những tác giả khác bình đăng trên các trang mạng Việt toàn cầu trong mấy năm qua:
    Hoàng Thị Thảo - Cảm nhận về một bài thơ tình hay "Anh vẫn ở bên hồ Tây";  Nhà giáo Đình Bồng - Phạm Ngọc Thái với chùm thơ áo trắng;  Chuyên viên Trần Tứ Đức - Phạm Ngọc Thái với chùm thơ hay về tình yêu & đàn bà. Trong đó tác giả đánh giá Người Đàn Bà Trắng là một đỉnh cao thi ca;  NS.Anh Trần - Xem Tranh Bán Loã Thể, một kỳ tác thi ca!  Trần Việt Thịnh - Phạm Ngọc Thái người hai lần thi sĩ...

      Riêng tôi cũng đã bình hai bài thơ hay của ông: "Cảm xúc về Con Đường Phượng Đỏ" "Em ơi! Thành phố lại mưa", mà tôi cho rằng tình thơ hay vào hàng tuyệt tác. Bởi vậy, cũng nghệ sĩ Anh Trần mới có nhận xét trong bài viết giới thiệu tập sách, rằng:
-   Đọc tập "Phê bình & tiểu luận thi ca", tác phẩm sẽ mở ra cánh cửa để bạn đọc có dịp khám phá một tâm hồn sâu sắc, một trí tuệ tài năng và mang đến cho mọi người sự đam mê, hấp dẫn trên từng trang sách...
     Tuy nhiên, ở mảng thơ của thi nhân với lời bình qua nhiều tác giả - Có tới vài ba chục bài bình chưa hề xuất hiện trên văn đàn các trang mạng. Phần lớn tiểu phẩm của những tác giả ấy chỉ đăng trên báo, tạp chí hoặc in trong một tuyển văn thơ nào đó.
    Thí dụ, Tạp chí Tháp Bút Thủ đô, Sông Hương, Hồn Việt, tạp chí Nhà văn, báo Người Hà Nội... cùng các trang văn học trong cả nước.  Những bài bình hay đã được nhà thơ chọn lọc cho in vào tập "Phê bình & tiểu luận thi ca" vừa xuất bản này. Chẳng hạn:

     Nhà thơ Trúc Thông bình Chiều Hoàng Hôn của Phạm Ngọc Thái đăng trên báo Đài Tiếng nói Việt Nam, đồng thời in trong Tuyển "100 bài thơ hay có lời bình", Nxb Thanh niên;  Phương Tuấn bình Em Về Biển;  Hoàng Ngọc - Cô Quét Lá Đêm Hồ; Tuyết Thuý - Sáng Thu Vàng;  Xuân Hùng - Biển Hát;  Phạm Thành Công - Tiếng Hát Đời Thường;  Trần Ngọc - Em Bán Xoài;  Trương Vũ Tiến - Trước Núi Mỹ Nhân;  Như Ý - Một Góc Hồ Tây;  Ngọc Trâm - Thông Và Biển;  v.v...

     Trong bài giới thiệu ở đây, tôi xin trích từ trong tập "Phê bình & tiểu luận thi ca" hai bài bình thơ: một bài thơ đời, một thơ tình... của hai tác giả - Đó là nữ nhà giáo Diễm Loan và nhà văn Đào Viết Minh, để bạn đọc bốn phương thưởng lãm thêm cái hay cùng sự phong phú, sâu sắc trong bàu trời thi ca Phạm Ngọc Thái.


THAI hình ok
                      Nhà thơ Phạm Ngọc Thái 

    1- Trước hết nói về thơ Đời - Một bài thơ khóc tang sâu sắc:

             LÀM MA EM VỢ               
 Kính viếng hương hồn cụ Nguyễn Du

Em kết liễu, tự giải thoát mình khỏi " kiếp" !
Chết thật hèn, nhưng sống thế càng ôi...
Anh thắp cho em một nén nhang đời
Và lễ tạ: Nam-mô-di-phật!

Người sống đưa chân người chết đây
Đầu bạc làm ma mái xanh này
Mẹ, cha... queo quắt còn ham thọ
Em nhởn thanh xuân lại vội quay.

Em ơi: chữ “kiếp” trước chữ “người”!
Sống cần cố gắng. Chết rồi thôi
Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ... (*)
Anh ở vì chưng trả nợ đời.

                                 Phạm Ngọc Thái
                        (Trích tập Rung Động Trái Tim)

(*) Ý câu thơ dựa theo thuyết bản mệnh ở Phật giáo - Trong tác phẩm Kiều của Nguyễn Du: Nàng Kiều trẫm mình trên dòng sông Tiền Đường muốn quyên sinh nhưng lại được Giác Duyên vớt cứu. Nàng chưa thể chết vì chưa trả hết nợ đời!

                 Lời bình ĐÀO VIẾT MINH:

     "Làm ma em vợ" là một bài thơ khóc. Đứng trước bao cảnh đời khốn khổ trên bờ bến nhân gian, với tâm khảm xót xa một người em vợ, nhà thơ đã viết ra bài khóc tang này:
                        Em kết liễu, tự giải thoát mình khỏi "kiếp" !
                        Chết thật hèn, nhưng sống thế càng ôi...

    Hai câu mở đầu cách thức cảm xúc của tác giả, giọng điệu tựa như những lời khóc van khi đưa đám trong dân gian. Ta xem trong câu hai, nửa vế đầu viết: " Chết thật hèn", nửa vế sau lại nói:"... nhưng sống thế càng ôi" - Như thế là ngay trong một câu thơ đã đưa ra hai nhận định về cả lẽ sống và cái chết của người em vợ. Chết như nó thì dở, thì hèn - Còn sống mà sống kém, sống tệ như vậy cũng…? Bởi đây là bài thơ khóc trước vong linh em, có thể trách nó về sự chết uổng, chết phí... thì còn được, nhưng nếu đem cả cách sống tệ ra trách móc trước mồ mả em, e sẽ trở thành bất nhẫn?


      Tôi xin trích những lời của Hoài Thanh khi nói về cái chết của Hàn Mặc Tử trong Thi Nhân Việt Nam, ông đã viết: " Một người đau khổ nhường ấy, lúc sống ta hững hờ bỏ quên, bây giờ chết rồi ta xúm lại kẻ chê người khen. Chê hay khen tôi đều thấy có gì bất nhẫn".
      Trở lại với bài Làm Ma Em Vợ  -  Thế là lòng nhà thơ mâu thuẫn. Muốn viết một bài thơ khóc tang sâu sắc thì phải nói đến cả nghĩa sống và cái chết. Huống hồ tính nhân bản trong thi ca, nó đòi hỏi phải đặt ra một giác độ nhìn nhận trách nhiệm của một con người trước xã hội cũng như cộng đồng, mà ở đoạn cuối tác giả có nói:
                        Sống cần cố gắng. Chết rồi thôi...
       Bởi vậy để đỡ cho hai câu thơ khóc rất thật đầu tiên ấy, nghĩa tử là nghĩa tận, lệ của nhà thơ đã nhỏ xuống, anh xót xa thắp nén hương lòng khấn cầu cho vong hồn em  sớm được siêu thoát:
                        Anh thắp cho em một nén nhang đời
                        Và lễ tạ: Nam-mô-di...phật!

       Trách là trách những người thân đang sống quanh không cứu vớt được nó? Trách thực tế cộng đồng không đủ sự nhân ái cần thiết đưa nó ra khỏi bờ vực thẳm? Nhưng thôi, dù sao thì em cũng đã chết rồi! Hãy để cho vong hồn em được an ủi, yên nghỉ nơi suối vàng. Nhưng ý tưởng bao trùm tình thi đã được tác giả khai phá ngay từ câu thơ đầu. Tôi quay lại để bình xét về câu thứ nhất ấy:
                      Em kết liễu, tự giải thoát mình khỏi "kiếp" !
      Ba chữ "tự giải thoát" là tiếng kêu trong trời đất và xã hội, từ dưới đáy hạ tầng của lớp chúng sinh. Cuộc đời đến mức phải tự kết liễu để giải thoát mình ra khỏi "kiếp sống", thật là bi thương. Nhìn theo quan điểm nhân đạo, suy cho cùng nó cũng chỉ là một nạn nhân đáng thương của xã hội mà thôi. Tiếng kêu chúng sinh đó đòi hỏi, thậm chí chất vấn...cả thượng tầng kiến trúc kia?
      Đến câu thơ thứ chín, ta thấy nhà thơ còn nhắc lại chữ "kiếp" ấy một lần nữa:
                          Em ơi: Chữ “kiếp” trước chữ “người”!

     Huống hồ cảnh đời còn bao thương tâm, oan nghiệt, phi lý, bất công vẫn đè nặng lên lớp nhân quần lương thiện. Chữ "kiếp" đã được vọt trào ra chính vì nỗi đau đời đó! Tôi bình sang đoạn thơ hai:

                         Người sống đưa chân người chết đây
                         Đầu bạc làm ma mái xanh này
      Cái lời tiễn người đã chết ở đây nó ngược cảnh: đầu bạc lại làm ma mái đầu xanh, nghe rền rĩ như tiếng kèn đám ma. Đó là sự bi ai của cuộc sống. Trong dân gian lắm khi cảnh gia đình lục đục, cha mẹ già hay ông bà tính khí trái nắng giở giời...thường rít lên rỉa rói con cháu: Đến con giun, con dế nó còn muốn sống nữa là con người? Tâm lý cảnh đời thường ấy đã được tác giả vận vào hai câu sau của đoạn thơ hai, để nói lên nỗi xót xa đối với người em:

                        Mẹ, cha...queo quắt còn ham thọ
                        Em nhởn thanh xuân lại vội quay.
       Quay là quay lơ, lăn ra chết... đi liền với "nhởn thanh xuân" (nhởn nhơ tuổi thanh xuân): nghĩa thơ có ý trào lộng. Ngôn ngữ, nhịp điệu hợp với sự cúng điếu của cảnh khóc tang. Lời than ấy giống như những người đi theo xe tang khóc viếng, đưa linh hồn kẻ chết về nơi chín suối. Nghĩa là, một cái chết tội tình đáng thương thay! Mẹ, cha đã phải chịu đựng bao nhiêu khốn khổ, tủi nhục, đắng cay mà vẫn sống đó? Em còn trẻ, dù có cảnh đời thế nào đi nữa, cũng việc gì phải phẫn chí tìm cách quyên sinh!
      Bài thơ tuy cũng dựa trên một nỗi đời cụ thể, nhưng nó có cấu trúc của một bài thơ tượng trưng, nhuốm đầm sắc thái theo quan điểm của nỗi kiếp đoạn trường,  nơi bể khổ dân tình của cụ Nguyễn Du. Cho nên tác giả đã kết:
                        Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ...
                        Anh ở vì chưng trả nợ đời.

      Để cho rõ ý nghĩa hàm súc của hai câu cuối đó, xin liên hệ đôi nét về thân phận nàng Kiều: trải qua bao khổ ải, nhục nhã ê chề phải trẫm mình xuống dòng sông Tiền Đường để chết, nhưng lại được Giác Duyên vớt cứu - Nàng chưa thể chết vì chưa trả hết nợ đời! Như thế món nợ Kiếp của Kiều, dù đã phải trải qua hai lần thanh lâu, mấy lần muốn tự vẫn không thành:
                        Làm cho sống đoạ thác đầy
                        Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi!

                                                                  ( Kiều )
      Còn cái việc nàng đã được cụ Nguyễn Du cho tái hợp lại với chàng Kim Trọng để cuộc đời bi thảm của Kiều có phần kết hậu, âu đó cũng chỉ là món nợ đời cuối cùng mà nàng phải trả nốt đó thôi: món nợ tình! Bởi 15 năm khổ ải định chết, chết không xong. Tới khi được Giác Duyên cứu sống lại rồi, Kiều chỉ muốn đem tấm thân đã "dơ" của mình:
                        Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru?
      Để mà yên thân nơi cửa chùa:
                        Đã đem mình bỏ am mây...
                        Mầu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng
      Thế mà phận cũng có được yên đâu? Khi Kiều từ chối duyên tái hợp với chàng Kim kia, từng thốt ra than:
                        Nói chi kết tóc xe tơ
                        Đã buồn cả ruột mà nhơ cả đời...
      Thế mà Vương Ông vẫn còn trì triết , mắng con gái rằng:
                        Tình kia, hiếu nọ ai đền cho đây?
      Vì "hiếu" đã phải bán cả tấm thân trong trắng, ngà ngọc của mình để chuộc cha. Với "tình" lòng vẫn thuỷ chung son sắt, cũng đành phải dứt duyên nhờ em là Thuý Vân thay mình!... Hiếu, tình sâu nặng đến thế, mà vẫn chưa đủ trả? Cuối cùng Kiều vẫn cứ phải đem cái tấm thân mình, như nàng đã nói:
                        Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa...
      Để mà đền nốt cho chàng Kim. "Món nợ kiếp người" tưởng cũng chỉ khổ đến thế là cùng. Trở lại với bài Làm Ma Em Vợ, câu thứ ba của đoạn thơ này:

                         Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ...
     Cái nạn kiếp người nơi hạ tầng của chúng sinh thời nào mà chẳng khổ? Trải qua những thăng trầm bể ải trong nhân tình thế sự, chiêm nghiệm trong thẳm sâu tâm linh cuộc đời mình, thấm đẫm về chữ "kiếp" luân hồi ấy để nỗi xót thương từ trong lòng tác giả trào ra: Em chết, là coi như đã trả hết nợ đời đó em!

     Vì muốn nó cũng có sống lại được nữa đâu? đồng thời đó cũng là lời an ủi, xoa bớt nỗi đau cho vong hồn người em nơi chín suối. Mặt sau của bản thơ là tiếng kêu cứu xã hội, tiếng khóc nấc bật ra từ trong khối cộng đồng của thời đại hiện đại này!
   Ta trở lại với câu thơ đầu tiên:
                        Em kết liễu, tự giải thoát mình khỏi "kiếp" !
    Lời khóc tang của bài Làm Ma Em Vợ này là tiếng khóc bật ra từ trong nỗi kiếp nhân gian:
                        Anh ở vì chưng trả nợ đời.
       Anh còn phải sống tiếp, cũng chả sung sướng gì đâu? Bao khổ nạn ê chề, chẳng qua vì đời chưa hết nợ, trả hết nợ rồi anh cũng đi thôi. Bài thơ chỉ như một lời khấn cầu từ bi nơi cửa phật, để thắp cho đứa em tội nghiệp cùng những kẻ đáng thương đã sinh ra ở trên cõi sống trần ai, một nén nhang đời!
                                                                                         ĐVM.
                                                            Trích "Phê bình & tiểu luận thi ca - Phạm Ngọc Thái"
                                                                      

  Cô giáo Nguyễn Thị Hoàng 

         2-   Một bài thơ tình khúc triết:
     KHÓC BÊN HỒ NÚI CỐC

Anh đã đến bên Hồ Núi Cốc
Gửi hồn theo dòng nước trôi thây...
Gió gào thét trong lặng chìm tim óc
Em khoả thân nằm trên bóng bến xưa bay.

Nước mắt nàng Công khóc tan ra suối
Cốc chết bên sồi lại hoá thành non...(*)
Nhưng để làm gì khi tình vô vọng?
Chút hương nàng vẫn ấm khoảng đời con.

Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ
Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu!
Ôi, hồ núi cứ xanh rì muôn thuở
Máu ta đổ đầy cho tạo hoá tạc phù điêu.

Anh đến bên Hồ Núi Cốc giữa chiều
Thơ rỏ đôi hàng, lệ tràn một chén
Khóc chuyện tình xưa là khóc mình lắm lắm
Mai chết rồi làm nước tắm cho em...
                                   Phạm Ngọc Thái
                           Hồ Núi Cốc – Đêm 9/7/1997

(*)  Huyền thoại kể: Nàng Công (con gái quan lang dân tộc) thương nhớ chàng Cốc khóc mà chết. Nước mắt nàng chảy thành suối nay biến ra hồ. Chàng Cốc (chỉ là một tiều phu đốn củi), thương nàng Công cũng chết dưới gốc cây sồi, hoá thành non bao bọc lấy hồ - nên mới có tên gọi: Hồ Núi Cốc!
                       Lời bình DIỄM LOAN:
       Tác giả kể lại: Vào một đêm mưa gió, không gian hồ núi huyền thẳm, hoang dại và vô tận. Con người cô đơn! Từng làn gió rít vút qua ngàn, mưa táp trên mặt hồ nước mênh mang màu xanh thẫm. Niềm hạnh phúc lớn nhất của đời anh là được sống bên nàng, một niềm đam mê man dại. Có phải chăng con người sinh ra trên thế gian này, chỉ có tình yêu gái trai là bất diệt? Toà Thượng Đài ngự trị cả trên triết học và chính trị. Tâm hồn và thể xác hoà quyện nhau đưa anh về cõi cực lạc vô biên. Bài thơ Khóc Bên Hồ Núi Cốc được dựng bên câu chuyện tình cổ của nàng Công, chàng Cốc bất hủ trong truyền thuyết vọng về - Chính giữa đêm mưa gió, tình thi diễm lệ ấy đã ra đời!
      Gọi là Khóc Bên Hồ Núi Cốc nhưng bài thơ không phải là tiếng khóc, nó là một khúc tình ca. Nhà thơ viết thế cho có vẻ đượm màu sắc lâm ly mà thôi:

                    Anh đã đến bên Hồ Núi Cốc
                    Gửi hồn theo dòng nước trôi thây...
      Hồn chàng theo dòng nước cuốn đến với nàng. Thiên nhiên đang bao trùm sự lạnh lẽo, hoang vắng. Giờ anh đứng đây nhìn ra dòng nước mênh mang trôi dạt kia, chỉ còn lại một thế giới trong anh vô vi và trống rỗng. Mà cái "thây" nó cũng đang trôi về phía vĩnh cửu đấy chứ? Biểu tượng "trôi thây" đã dược thăng hoa từ trong cảm xúc mãnh liệt của nhà thơ, để mở đầu cho bản tình luyến ái gái trai ngàn năm vô bến, vô bờ. Xin bình tiếp câu ba:
                     Gió gào thét trong lặng chìm tim óc
     Trong cái tiếng gió mưa cào xé đất trời kia
(bên ngoài) , lại đang bao bọc cả một thế giới tĩnh lặng đến rùng mình của tim óc con người (bên trong), cùng chứa đựng một khát vọng mãnh liệt tột cùng cả thể xác và tâm hồn tình yêu trong nó. Đẩy nỗi thơ đi đến điểm cực đại, mà bắn vọt ra một bức tranh hoành tráng, hoàn bích nhất về nàng:
                    Em khoả thân nằm trên bóng bến xưa bay...
      Ta chạnh nhớ tấm thân nàng Kiều được Nguyễn Du mô tả:
                    Rõ màu trong ngọc trắng ngà
                    Dầy dầy sẵn đúc một toà thiên nhiên.
      Nhưng bức tranh Nguyễn Du mô tả là bức tranh mĩ miều có thật của Kiều đang khoả thân trong khi tắm, còn bức tranh khoả thân của Khóc Bên Hồ Núi Cốc chỉ là bức tranh ảo, bởi ấn tượng từ kí ức, sự cồn cào trong trái tim nhà thơ mà bật ùa ra. Ta thấy tác giả không tả một nét gì trên thân thể, thế mà nàng vẫn hiển hiện lên vẻ đẹp không kém kiêu sa. Tình thơ tuy có bạo loạn nhưng trong sáng. Rõ ràng đây là một khúc tình ca chứ đâu phải là một bi kịch tình?
 
     Những yếu tố cảm xúc của bài thơ này đều theo thi pháp dòng thơ tượng trưng hiện đại Pháp cuối thế kỉ XIX sang đầu thế kỉ XX, nhưng đã được hoà phối với dòng thơ lãng mạn, để hình ảnh ngôn ngữ, ý tình được hàm súc, cô đọng. Không viết chảy tràn theo tình cảm như các thi nhân trong phong trào "thơ mới" thời tiền chiến ở nước ta đã viết.
      Sang đoạn thơ hai là sự gắn bó giữa câu chuyện huyền thoại xưa với câu chuyện tình nay, nói về cái chết chung tình của một đôi trai gái:
                    Nước mắt nàng Công khóc tan ra suối
                    Cốc chết bên sồi lại hoá thành non...
      Mối tình đôi trai gái ấy đã bị các quan lại và lễ giáo phong kiến ngăn cấm. Họ quyết quyên sinh để giữ trọn lòng chung thuỷ sắt son. Nàng thì biến ra hồ nước, còn chàng lại hoá thành non. Không có tình yêu tất cả trở nên vô nghĩa. Tình yêu là nơi trú ngụ, ý nghĩa tồn tại của đời ta:
                    Nhưng để làm gì khi tình vô vọng?
                    Chút hương nàng vẫn ấm khoảng đời con!
     Ba chữ "khoảng đời con" ở đây mang theo ý ẩn dụ. Nói rằng, không có sự ấm áp trong tình yêu của người đàn bà mang lại cho những "khoảng đời con" ấy, thì thử hỏi: Sự sống tồn tại trên trái đất này để làm gì? Không có sáng tạo hay tiến bộ xã hội nữa. Không có ý nghĩa của cái "khoảng đời con" thì cũng không có những vĩ đại. Cho dù tác giả có đặt câu hỏi:
                    Nhưng để làm gì khi tình vô vọng?
      Chẳng qua là người than cho câu chuyện tình của nàng Công, chàng Cốc trong trời đất và cũng than cho chính mình. Mượn người xưa để nói nỗi đời nay, ý tình cứ rền xiết lên nhau như hai câu trong đoạn thơ cuối đã viết:
                    Thơ rỏ đôi hàng, lệ tràn một chén
                    Khóc chuyện tình xưa là khóc mình lắm lắm
      Cảm xúc thơ tràn ứa mà đẫm lệ. Tôi bình sang đoạn ba, là đoạn thơ máu thịt nhất của bài:

                    Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ
                    Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu!
                    Ôi, hồ núi cứ xanh rì muôn thuở
                    Máu ta đổ đầy cho tạo hoá tạc phù điêu.
      Khi mưa gió phủ táp xuống miền hồ núi, ta nghe như tiếng câu chuyện tình xưa nghiền xé vang lên: Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ /-  Tình đời là một dải băng tang trắng ư? Tình yêu gái trai cho ta nguồn suối yêu thương hạnh phúc, song cũng gieo lên cuộc đời những bất hạnh đớn đau.
      Nghĩa là, trời đất cũng để tang cho những linh hồn và trái tim son sắt của tình yêu! Nói về thủ pháp nghệ thuật sáng tác của tác giả trong đoạn thơ ba này, lấy ba câu thơ ảo (câu 1-3 và 4) là thơ trừu tượng, để nuôi một câu thơ thật, thật và rất đời. Chính là câu thơ hai trong đoạn:
                    Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu!
      "máu ta đổ đầy..." là biểu tượng nói về tình yêu. Thơ ngả sang màu siêu thực. Cái bóng xanh rì muôn thuở của non ngàn, với "bức phù điêu" đã được tạc trong thiên nhiên kì vĩ kia, là bởi máu và nước mắt tình của những đôi trai gái tắm vào trong nó. Nghĩa là cả trong bất hạnh đau thương tình yêu cũng tô đẹp, là bản tình ca bất hủ trong vũ trụ cũng như cuộc sống con người. Đoạn thơ ba như một bức hoạ dựng sững giữa trời.
        Bằng một cách định nghĩa thi ca Chế Lan Viên đã viết:
                    Anh phải mang tiếng hát từ bờ này sang bờ kia đấy
                    Bờ bên kia hư ảo - Bờ thơ.
                                                         (trích di cảo CLV - Bờ bên kia )
      Nhưng sự hư ảo ở đây phải là cái hư ảo thấm đầy huyết, đầy hồn, đầy sự sống và ma lực trong thế giới thơ của nó.

      Xin trở lại để nói tiếp về câu thơ hai trong đoạn. Nếu không có "vú người yêu" thì thử hỏi: Hồ núi có xanh thắm hơn thế nữa, thiên nhiên có đẹp hơn thế nữa, để làm gì? Cả chiến tranh và hoà bình trong thế giới này, nếu không có vú người yêu thì loài người gây ra nó cũng để làm gì? "cắn vú người yêu" là một hình tượng rất đời được đưa vào trong thơ, hình ảnh thơ đọc vẫn không thô, không sượng. Viết được câu thơ như thế là một thành công trong thi ca, đưa bài thơ đi xa trên bến-bờ-thi...
      Đến đây tôi chỉ xin nói thêm một chút nữa về câu thơ cuối cùng của bài:
                    Mai chết rồi làm nước tắm cho em...
      Xuân Diệu thì nói rằng:
                    Anh không xứng là biển xanh
                    Nhưng cũng xin làm bể biếc
      Còn đây, tác giả lại viết: "mai chết rồi…" - Phải, con người có thể làm bao chuyện phi thường, lên cả vũ trụ mà chinh phục sao Hoả, sao Kim, sáng tạo những phát minh khoa học vĩ đại, chế ra cả tên lửa xuyên lục địa, bom nguyên tử, đầu đạn hạt nhân để tiêu huỷ hoàn cầu v.v... Ấy thế mà, liệu còn gì có thể cao xa hơn là làm một dòng suối mát, một hồ nước xanh, hay chỉ là một bồn nước trong nho nhỏ tắm cho cuộc đời và thân thể của người yêu?
      Đấy, nhà thơ của bài Khóc Bên Hồ Núi Cốc này chỉ muốn kết tình thơ ở đó, để cho đời suy ngẫm?
                                                                                               DL.
                                                             Trích "Phê bình & tiểu luận thi ca - Phạm Ngọc Thái"
                                                           
    Hà Nội, tháng 1 -  2014
       Nguyễn Thị Hoàng
    Cô giáo ĐH Sư phạm


Phạm Ngọc Thái với 
"Chùm thơ hay về tình yêu & đàn bà"
Trần Tứ Đức

Cái tên gọi "tình yêu & đàn bà" không phải do tôi đặt ra, mà là nhan đề một chùm thơ của nhà thơ Phạm Ngọc Thái đã đăng nhiều trên các trang mạng. Trong bài của một văn nghệ sỹ ở Việt-Nam-thư-quán "Về một huyền thoại thi ca", khi bình phẩm thơ ông - có đoạn viết:

- Phạm Ngọc Thái là một nhà thơ của tự do. Thơ ông thẳm sâu như bể cả mà rung rinh tựa lá hoa ngàn. Ông viết về nỗi đời dân gian, về tình yêu và đàn bà... Đọc thơ ông như đi vào trong động tích, càng vào sâu càng huyền thẳm vô biên.
Hiện ông đang sống cùng gia đình trong một ngôi nhà gác nhỏ. Phía trước trông ra khu quảng trường thành phố, mặt sau soi bóng xuống hồ Tây quanh năm sóng vỗ. Cõi trần ai ông đã nếm đủ mùi khổ hạnh, đắng cay... cũng từng có những tháng năm phiêu du qua hải ngoại, rồi trở về vui thú trong cảnh sống phong trần của một thi nhân - Viết để lại cho đời một Bộ-thi-ca-thời-đại tầm vóc với bao nhiêu áng thơ tình huyền diệu, sẽ còn sống mãi với sơn hà...

Thơ tình hay ở các cung bậc khác nhau của Phạm Ngọc Thái thì nhiều, tôi chỉ chọn ra đây ba bài theo ý riêng mình và chưa có ai bình. Gọi là để đàm đạo ở tao đàn cùng vui trong chốn văn chương:
1. "Người đàn bà trắng" - Một đỉnh cao trong thi ca.
2. "Cây thầm tiếc bóng"
3. "Dưới hàng sấu đêm và con phố nhỏ".
Xin đi thứ tự từng bài một:
A. NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG
Người đàn bà đi trong mưa rơi
Chứa một trời thầm như hoa vậy...

Chiếc mũ trắng mềm em đội bầu trời
Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc
Đôi mắt em đong những áng mây
Người đàn bà trắng!

Em đi, về... chao những hàng cây
Hồ gió thổi lệch vành mũ đội
Thấm đẫm mình em cả thềm nắng gội
Xoã ngang vai mái hất tơi bời.

Nỗi niềm thao thức
Những đêm trăng nước...
Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai!
Người đàn bà ai mà định nghĩa?

Đường xưa đó về đây em ơi!
Những con đường đã đầy xác lá rơi
Xác ve, xác gió và xác của mưa.

Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu
Anh cũng không làm chàng Trương Chi
suốt đời chèo sông vắng
Ta không đi theo Con Đường Lông Ngỗng Trắng
Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau.

Vết thương lòng không dễ đã lành đâu
Những đêm sao buồn, những đêm gió khát
Khúc thơ tình anh lại viết về em!
Người đàn bà ngậm cả vầng trăng...

Thơ - Phạm Ngọc Thái
.
Lời bình: Theo như bình luận ở giới văn chương, báo chí: "Người đàn bà trắng" là bài thơ tình hay nhất của nhà thơ Phạm Ngọc Thái. Trên con đường vô định của tình yêu, những đêm hoang vắng và sâu thẳm trong không gian mênh mông, lòng nhà thơ vẫn âm thầm khắc khoải nhớ về mối tình đã qua:
Những đêm sao buồn, những đêm gió khát
Khúc thơ tình anh lại viết về em!
Người đàn bà ngậm cả vầng trăng...

Những ngôi sao trên vòm trời xa xôi kia, ngọn gió đêm vô tình... nó cũng hiu hắt như nỗi vắng vẻ, trống lạnh của lòng chàng. Tác giả gọi em là "Người đàn bà trắng", thực ra khi ấy em vẫn còn là một thiếu nữ. Từ chiếc mũ vải trắng mềm một thuở nào người yêu thường đội lệch trên đầu, lẫn vào trong khóm mây. Khóm mây đó lại vờn bay trên mái tóc nàng - Tất cả đã trở thành ấn tượng để nhà thơ mô tả về hình ảnh người đẹp:
Chiếc mũ trắng mềm em đội bầu trời
Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc
Đôi mắt em đong những áng mây
Người đàn bà trắng!

Đó là đôi mắt của mùa thu huyền diệu và xa thẳm. Bích Khê cũng từng mô tả về đôi mắt đẹp của người mỹ nữ trong bài thơ "Tranh loã thể" nổi tiếng của ông, rằng:
Mắt ngời châu rung ánh sáng nghê thường...
Nó chìm ngập một thế giới, chiếu rọi vào ngõ nghách tâm hồn của thi nhân sáng bừng lên. Hay như Xuân Diệu tả về đôi mắt người yêu cũng thật kỳ ảo:
Mắt em thăm thẳm như màu gió
Thơ cũng vàng trong như nắng hanh
Ta trở lại với bài Người Đàn Bà Trắng: Đôi mắt em đong những áng mây /- Như thể đã bao lần nhà thơ từng phiêu du trong đôi mắt ấy. Nó bộc lộ một sự hiền hoà, nhân ái. Tác giả lấy hình ảnh của vũ trụ qua cảm xúc mà mô tả, quyện với mái tóc nàng trong mây bay, gió cuốn... hiển hiện dưới bầu trời cao vời vợi. Bầu trời ấy vừa để nói về tình yêu của người đàn bà ở cõi nhân sinh, vừa là bầu trời của quê hương đất nước ta vậy.

Sang khổ thơ thứ hai - Hình bóng người thiếu nữ hiện lên trong một khung cảnh thiên nhiên rực rỡ:
Em đi, về... chao những hàng cây
Hồ gió thổi lệch vành mũ đội
Thấm đẫm mình em cả thềm nắng gội
Cả thềm nắng hắt lên mình em như tơ lụa đất trời, có gió thổi, cây đưa... Vẫn chiếc mũ vải trắng mềm xưa mà em thường đội lệch, che lên khuôn mặt đẹp như một vầng trăng. Cái bờ hồ gió thổi ấy chứng kiến bao nhiêu kỷ niệm, những tháng năm anh đã sống êm đềm trong hạnh phúc tình yêu. Giờ đi lại trên con đường đã qua, anh như nghe thấy cả khúc tình ca đang sống lại. Mái tóc người con gái xưa vẫn xoã bay trên đôi vai trần trắng của nàng:
Xoã ngang vai mái hất tơi bời
Bồi hồi trong kí ức, hồn nhà thơ tựa con đò mộng lạc vào nơi bến vắng. Chỉ còn nghe thấy tiếng gió táp, mưa sa... cùng những chiếc lá vàng rơi phủ xuống trong trời đất:
Đường xưa đó về đây em ơi!
Những con đường đã đầy xác lá rơi
Xác ve, xác gió và xác của mưa.
Tiếng lòng nhà thơ cất lên để gọi vọng tình em. Con đường giờ đây hoang dã trong qui luật bụi cát của thời gian. Con đường mà người con gái đã đến với cuộc đời anh. Năm tháng cứ trôi nhưng hình bóng em không phai nhoà. Hình ảnh đoạn thơ nghe như trong giấc mộng: xác gió, xác mưa, đã đầy xác lá, xác ve... trôi. Tưởng như cái bờ hồ gió thổi đó ngàn năm sau vẫn còn quyến luyến bóng hình người yêu ở đấy, mãi mãi trong trái tim thương nhớ của nhà thơ.

Xin trở lại để phân tích sâu thêm về khổ thơ thứ ba:
Nỗi niềm thao thức
Những đêm trăng nước...
Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai!
Người đàn bà ai mà định nghĩa?
Hình ảnh đã được cách điệu hoá: Chùm trinh em hát: đấy chỗ thiên thai! /- Biểu tượng thơ mô tả tuy mang màu sắc trừu tượng nhưng vẫn rất gợi cảm.
"Chùm trinh em hát...": Nó đã mang cái của nàng bay lên! Suy cho cùng vũ trụ và thế giới đều tồn tại, sinh ra ở đó. Nó vừa vĩ đại và man dại. Nếu không có cái chỗ thiên thai ấy của người đàn bà thì không có cả linh hồn lẫn sự sống, cũng không có ý nghĩa gì về lịch sử của thế giới này. Còn câu thơ:
Người đàn bà ai mà định nghĩa?
Đại văn hào Lép-Tônxtôi - Ông là một thiên tài xây dựng hàng trăm tính cách về đàn bà có những mẫu mực khác nhau. Người từng nói những câu đại ý rằng: Không thể đưa ra những nguyên lý có tính khuôn mẫu nhất định đối với người đàn bà, chỉ có những sự tìm tòi, tìm tòi và tìm tòi mãi...

Nàng không thể nào định nghĩa được trong sự tồn tại của đời ta? Câu thơ treo trên đầu ta như một câu hỏi vĩnh cửu, lại như thể một định mệnh.
Tôi bình khổ thơ thứ năm:
Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu
Anh cũng không làm chàng Trương Chi
suốt đời chèo sông vắng
Ta không đi theo Con Đường Lông Ngỗng Trắng
Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau.
Là một mảng thơ đời, đã triết lý về những mâu thuẫn giữa tình yêu và cuộc sống của nhà thơ với người-đàn-bà-trắng. Đó cũng là một nghịch lý cuộc đời: Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu /- Còn anh cũng không đầy mình để làm mãi cái anh chàng Trương Chi suốt đời chèo thuyền trên con sông quạnh vắng, cô đơn, rồi tương tư nàng Mỵ Nương mà chết. Hay, cái con-đường-lông-ngỗng-trắng mà nàng Mỵ Châu đã rắc cho chàng Trọng Thuỷ theo, thần tượng thì rất đẹp, nhưng để cuối cùng chàng cũng nhảy xuống biển mà chết, hoá thành ngọc trai giữ tình son sắt với nàng. Nó bi ai quá!

Cái hay của khúc triết lý trong bài thơ Người Đàn Bà Trắng là nó đã được viết như đời. Dẫu mối tình bị tan vỡ phải chia lìa năm tháng, nhưng tình thơ đã không kết thúc bằng sự bi thảm. Đôi trai gái vẫn phải sống và tồn tại, dù là theo chiều gió cuốn cuộc đời. Phải chăng đó cũng là một cuốn tiểu thuyết "cuốn theo chiều gió" như bao bi kịch tình-đời trên bờ bến nhân gian? Cả đoạn thơ thấm đẫm máu tim, được bật ra trong đời sống đầy mất mát và đau đớn của tình yêu.
Đây là một trong hai mảng thơ xương cốt nhất - Mảng thơ thứ nhất như trên đã nói, chính là khổ thơ thứ ba:
Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai!...
Cùng với khổ thơ thứ năm này - Làm thành nền tảng, như tim óc, tuỷ sống cho cả tình thi. Nhà thơ vẫn thiết tha khao khát gặp lại người thiếu nữ:
Những đêm sao buồn, những đêm gió khát
Ngọn lửa tình đã từng sưởi ấm trái tim anh. Để rồi bài thơ được kết thúc bằng một câu thơ đẹp nhất về nàng:
Người đàn bà ngậm cả vầng trăng...
Đây là một câu thơ siêu thực chứa đầy trầm tích đã được thăng hoa. Một thiên tạo vĩ đại đang nép trong tấm thân người đàn bà trẻ hay chính nàng là một vầng trăng? Cái vầng trăng ấy của nàng nó cứ nguyên thuỷ như hang động thời tiền sử, lại huyền bí như thánh linh. Nhưng chao ôi! Dù gì thì nàng cũng "ngậm" cả cái vầng trăng của nàng rời bỏ nhà thơ để đi rồi! Những tháng năm buồn nhớ người yêu, anh đã viết ra thiên tình ca Người Đàn Bà Trắng bất hủ này để lại cho thế gian.

"Người đàn bà trắng" là một bài thơ tình hay thuộc vào hàng đỉnh cao trong thi ca, với sự viên mãn và hoàn bích của nó. Tình thi sẽ còn sống mãi với thời gian cũng như nền văn học nước nhà.
TTĐ.

.

B. CÂY THẦM TIẾC BÓNG

Nàng đi mãi mà không trở lại
Gió bên đường kéo liễu hát trong mưa
Và mặt nước bi bô lời than thở
Chiều buông rèm tàn tạ nắng buồn mơ.

Anh ngắm liễu bên hồ càng nhớ bóng
Ai ru mình trong trăng sáng nép vào anh
Làn da trắng, vòm ngực nàng hưng phấn
Tan tành rồi! Ôi, mộng thuở ái ân...

Người đàn bà ra đi không trở lại
Để cây thầm tiếc bóng hoá bơ vơ
Và gió nữa cũng giông cuồng rồ dại
Hồn thi nhân tan tác giữa hư vô.

Đôi mắt đẹp nàng dịu dàng đong trời biếc
Thân hoa thơm mà lại ủ bão dông
Anh tê dại cõi hồn hoang biền biệt
Bao sầu tư vương vấn các nẻo đường.

Người đàn bà ra đi không trở lại
Bãi-cuộc-đời cát bụi, gió mưa
Hoa sẽ úa, nhị sẽ tàn và lụi
Một đời trôi theo năm tháng xô bồ...

Phạm Ngọc Thái
Trích tập "Rung động trái tim" 2009

.
Lời bình: Một bài thơ tình mà lại có cái tên "Cây thầm tiếc bóng"? Ta thấy trong khổ thơ thứ ba đã viết:
Người đàn bà ra đi không trở lại
Để cây thầm tiếc bóng hoá bơ vơ
Và gió nữa cũng giông cuồng rồ dại
Hồn thi nhân tan tác giữa hư vô.
Hình ảnh cây âm thầm tiếc bóng - Không phải là bóng của nó, mà là bóng của người đàn bà đã ra đi không trở lại ấy! Tác giả chỉ lấy thiên nhiên, trời đất làm biểu tượng cho sự chia ly tình yêu đó thôi. Đến gió cũng phải "giông cuồng rồ dại", hồn thi nhân thì tan tác, năm tháng hoá hư vô.
Tôi sẽ quay trở lại nói thêm về những câu thơ này - Giờ ta đến với khổ thơ thứ nhất:
Nàng đi mãi mà không trở lại
Gió bên đường kéo liễu hát trong mưa
Và mặt nước bi bô lời than thở
Chiều buông rèm tàn tạ nắng buồn mơ.

Khung cảnh: liễu đứng hát trong mưa và những lời thở than của nước, mỗi khi tiếng sóng vỗ xô bờ khe khẽ, xôn xao... vào trong cảm xúc nhà thơ như là những tiếng lòng thương nhớ, thuở nàng vẫn thường cùng anh đến bên hồ. Giờ sóng vẫn vỗ mà em thì mãi mãi không trở về. Rồi cái ánh hoàng chiều của một ngày tàn như bức rèm buông xuống phủ trùm lên mặt đất, để vào những giấc mơ đêm tưởng nhớ đến người yêu. Cách diễn tả tâm trạng hoà trong hình ảnh thiên nhiên đồng vọng tạo nên sự huyền thẳm của thi ca, chứa chất ý tình. Giọng điệu, ngôn ngữ thơ đọc lôi cuốn như lời hát mà vẫn sâu. Tuy không nói về người nhưng cảnh vật được nhân sinh hoá - Nghĩa là những cảnh vật ấy biết nói, thể hiện sự vui buồn, thương nhớ từ trong tâm tư, tình cảm của nhà thơ.
Về hình ảnh câu đầu:
Nàng đi mãi mà không trở lại
Hay là: Người đàn bà ra đi không trở lại /- Được điệp khúc nhiều lần bộc lộ một tình thương yêu da diết, song cũng là nhằm nhấn mạnh tình ý, chủ đề của cả bài.
Sang khổ thơ thứ hai:
Anh ngắm liễu bên hồ càng nhớ bóng
Ai ru mình trong trăng sáng nép vào anh
Làn da trắng, vòm ngực nàng hưng phấn
Đó phải là một người đàn bà đẹp và nhà thơ rất yêu nên lời thơ mới say sưa, hình ảnh duy mỹ như vậy. Mỗi khi ngắm những nhành liễu ru bên hồ, thi nhân lại nhớ tới bóng xưa. Những đêm trăng sáng hồi ấy, như vẫn còn đây cả tấm thân, hơi thở của nàng... lòng Người lại bồi hồi, da diết: Làn da trắng, vòm ngực nàng hưng phấn /- Thế mà nay chỉ còn là kí ức?... rồi tác giả buông xuống một câu thơ đầy xa xót:
Tan tành rồi! Ôi, mộng thuở ái ân...

Ta tưởng như chính lòng mình tan vỡ. Về mặt cấu trúc đã đạt được độ viên mãn ngay của khổ thơ. Sang đoạn thơ thứ ba mà tôi đã nói ở phần đầu cũng thế - Cuối đoạn đã được gieo một câu thơ rất mạnh:
Hồn thi nhân tan tác giữa hư vô
Cho nên, tuy viết tung hứng theo sự thăng hoa của tâm hồn mà thơ vẫn súc tích, không rơi vào sự dàn trải tràn theo cảm xúc thường thấy của dòng lãng mạn trước kia. Hình tượng thơ giàu chất sống và đầy ắp nội tâm. Có khi những hình ảnh đó còn mang theo cả tính triết lý về tình yêu và đàn bà. Thí dụ, ta xem tiếp khổ thơ thứ tư:
Đôi mắt đẹp nàng dịu dàng đong trời biếc
Thân hoa thơm mà lại ủ bão dông
Anh tê dại cõi hồn hoang biền biệt
Bao sầu tư vương vấn các nẻo đường.

Thi nhân mô tả đôi mắt đẹp của người yêu... "đong cả trời biếc" - Còn khi tả về tấm thân nàng lại đưa ra một biểu tượng rất triết học:
Thân hoa thơm mà lại ủ bão dông
Để nói cả hai mặt: Người đàn bà vừa nồng nàn, êm ấm lại vừa là trái gió, trở giời và dông bão... làm trái tim ta đau đớn. Tấm thân đàn bà thật huyền diệu cũng như sức mạnh của tình yêu là vô bờ bến. Câu thơ sinh động mà tích tụ cả một đời sống tâm lý bên trong. Vì tha thiết nên lòng thi nhân mới: "... tê dại cõi hồn hoang biền biệt" - Nghĩa là khi người yêu xa, lòng thì sầu, tâm hồn thành hoang vắng, cô đơn.
Giọng thơ hay lại hàm chứa, tạo nên vẻ đẹp và tấm vóc của thi phẩm. Đến khổ thơ cuối cùng:
Người đàn bà ra đi không trở lại
Bãi-cuộc-đời cát bụi, gió mưa
Hoa sẽ úa, nhị sẽ tàn và lụi
Một đời trôi theo năm tháng xô bồ...

Hình ảnh câu thơ: Người đàn bà ra đi không trở lại /- Được điệp thêm một lần nữa để khắc sâu vào lòng người sự nuối cảm. Một đặc điểm thơ Phạm Ngọc Thái khi nói về chốn dân gian, nhà thơ thường dùng hình tượng "bờ bãi...". Thí dụ như trong bài Váy Thiếu Nữ Bay:
"Bờ bãi con người" em trổ hoa trái ngọt
Đến đế vương cũng khum gối cầu mong
Hay tình thơ Em Về Biển:
Bờ-bãi-đời-người cuộc sống tình yêu
Trái tim nhỏ em dựng cả toà sen chân phật tổ!
Còn bài Cỏ Hoang sáng tác ở nước ngoài, nói về hình ảnh một cô gái cùng những người xuất khẩu lao động sống trôi dạt trên đất khách quê người, tác giả viết:
Ôi, cuộc bèo hoang trời đất trầm luân
Và bản chất muôn đời còn muông thú
Nhà chính khách cùng đứa du côn tranh thủ chơi thánh nữ
Em vũ ba lê trong thế giới hỗn mang gieo hoa cấy linh hồn...
Đó chính là chốn bể dâu của đời người, bèo dạt mây trôi... với những sướng khổ, buồn vui, hạnh phúc và mất mát. Trong khổ thơ cuối của bài này, người đàn bà ấy cũng đang trôi dạt ở nơi đó. Như câu:
Bãi-cuộc-đời cát bụi, gió mưa
Theo qui luật thời gian - Năm tháng cứ trôi... tất cả sẽ úa tàn, bụi cát. Thơ đưa ta vào cõi vô định của cuộc sống con người, chỉ có tình yêu trường cửu mãi không già. Giờ đây chỉ còn lại khoảng trời xưa, những nhành liễu, bờ hồ, trăng sao cùng những cơn mưa gió của lòng anh, của đất trời và cuộc sống với bao xô bồ, vật vã.

Điều đặc biệt bao trùm trong bài thơ là hầu hết đều dùng cảnh họa lòng. Những cảnh vật đó được tắm trong hồn, đầm đìa tình ý. Như trên đã nói, nào là: Liễu hát trong mưa, hồ nước than thở, chiều buông rèm mơ, nàng ru mình trong trăng sáng, cây thầm tiếc bóng, gió lại giông cuồng rồ dại, trái tim thì tan tác, cuộc sống hoá hư vô, đôi mắt người yêu dịu dàng đong cả bầu trời, tấm thân nàng tắm hoa thơm nhưng lại ủ cả cuồng phong dông bão, v.v...
Một tình thơ làn điệu du dương được tác giả sáng tác cũng chính ở trên "bãi cuộc đời..." đầy cát bụi, gió mưa ấy - Nơi thi nhân cùng với người đàn bà đẹp từng tha thiết yêu nhau. Tình yêu của họ đã một thời đơm hoa, kết nhụy. Dù nay đã xa vời, nhưng tình thi vẫn đang truyền cảm, cuốn hút ta trầm sâu hơn vào ý nghĩa của thi ca. Như nhiều văn nghệ sĩ khi thưởng thức thơ anh vẫn nói: Thơ Phạm Ngọc Thái càng đọc càng hay! "Cây thầm tiếc bóng" là một bài thơ tình nhiều hương sắc, khá độc đáo và hấp dẫn của văn đàn.

TTĐ.

.

C. DƯỚI HÀNG SẤU ĐÊM VÀ CON PHỐ NHỎ
Phố vẫn phố hàng sấu xưa rụng lá
Ngỡ yên rồi... còn lạc bước canh khuya
Nên câu thơ anh theo đông về vội vã
Tình của đôi ta dòng sông chảy man mê...

Đêm đã lạnh, vầng trăng còn thao thức
Trăng bay trên trời, anh cứ thương em
Xưa mộng nguyệt này, nay sao thấy khác
Gió nhắc thầm thì, em có nhớ không?

Em ngủ bên chồng. Thôi, cũng đừng tiếc nữa...
Mấy ai yêu trọn vẹn đâu em?
Thuở đó đẹp nhiều mộng mơ, em nhỉ!
Thơm mát cõi thơ, hồn ta ru êm.

Anh lưu giữ chút tình trên trang giấy
Đi hết phố xa về khắc khoải bên thềm
Rồi tự trách với mình sao buổi ấy
Lại giục em lấy chồng để đau mãi con tim?

Phạm Ngọc Thái
Mùa đông 2010
Trích tập "Hồ Xuân Hương tái lai" 2012

.
Lời bình: Đi lại những đường phố đêm dưới hàng sấu xưa, lòng nhà thơ bồi hồi nhớ về một thuở:
Phố vẫn phố hàng sấu xưa rụng lá
Ngỡ yên rồi còn lạc bước canh khuya
Nên câu thơ anh theo đông về vội vã
Bài thơ được viết vào mùa đông năm 2010, khi anh đã ngoài tuổi lục tuần, nhưng tâm hồn thi nhân thì còn trẻ mãi. Con sông tình ngày đêm vẫn xao xiết chảy trong trái tim anh, như câu thơ đã viết:
Tình của đôi ta dòng sông chảy man mê...

Chưa thấy ai đảo ngược chữ "mê man" để viết thành "man mê..." như Phạm Ngọc Thái, để cho âm điệu thơ không rơi vào sự cũ càng. Cũng thấy là lạ, hay hay. Có một nhà giáo khi khi bình thơ anh đã viết:
Ngôn ngữ thi ca Phạm Ngọc Thái là ngôn ngữ của hình tượng hội hoạ. Khi đọc những thi phẩm hay của ông, giống như bức tranh hoàn bích, càng đằm sâu vào trong tranh càng chứa chất ý, tình.
Theo con gió đông nhà thơ "lạc bước" lang thang, hồn vía đang bay về một phương nào?... thuở em yêu vẫn cùng anh đêm đêm dưới hàng sấu phố khuya này. Cái phố nhỏ với hàng cây xưa thật thân thiết. Bao năm qua tưởng tình cũ đã yên, nào ngờ đêm nay thi nhân lại chạnh lòng thổn thức, rồi bài thơ "Dưới hàng sấu đêm và con phố nhỏ" ra đời.
Mặc dù nhà thơ đã nói với mình và khuyên người yêu:
Em ngủ bên chồng. Thôi, cũng đừng tiếc nữa...
Mấy ai yêu trọn vẹn đâu em?

Ai mà chẳng có lúc bồi hồi vương vấn tới tình xưa? Nói rằng: "Em đang ngủ bên chồng..." - Nhưng đọc thơ không thấy sượng, còn tăng thêm sự cảm khoái, diễn đạt ý tình thấm thía hơn. Khi nhà thơ tự vấn: thôi, đừng tiếc nữa! /- Tức là lòng anh đang... mong nhớ. Anh còn biện hộ cả với người xưa: Mấy ai yêu trọn vẹn đâu em? /- Có nghĩa, đây là mối tình dang dở mà sự tiếc nuối của cả hai người chứ không chỉ đơn phương về phía thi nhân.
Khuyên thế thì khuyên: Rằng, đừng nhớ thương, đừng tiếc nữa em yêu! Song, chính nhà thơ vẫn hoài vọng, tự ru mình trong giấc xa xăm:
Thuở đó đẹp nhiều mộng mơ, em nhỉ!
Thơm mát cõi thơ, hồn ta ru êm.
Tình yêu không chỉ là sự êm ái và niềm vui sướng, còn mang lại cho hồn thơ anh biết bao cảm xúc ngọt ngào. Trong cuộc sống xô bồ, cát bụi... mỗi khi nhớ về thuở ấy, thi nhân như được tắm trong niềm hạnh phúc của tình yêu, như lời thơ đã viết: Thơm mát cõi thơ, hồn ta ru êm /- Tôi trở lại phân tích về khổ thơ thứ hai:
Đêm đã lạnh, vầng trăng còn thao thức
Trăng bay trên trời, anh cứ thương em
Xưa mộng nguyệt này, nay sao thấy khác
Gió nhắc thầm thì, em có nhớ không?

Thao thức cùng với nhà thơ, vầng trăng trong đêm đông giá lạnh kia có ngủ được đâu, như lòng người hiu hắt bay vơ vẩn trên trời. Vẫn nguyệt đó mà sao nay thấy lạ? Hồi cùng em tắm trong trăng êm đềm và mơ mộng, giờ trở nên xa vời và lòng anh càng cô quạnh. Cơn gió khuya cũng không ngủ, cứ thầm thì bên tai: Liệu em có còn nhớ đến thuở của đôi ta? Cả đoạn thơ với hình ảnh gió, trăng... thấm đẫm hồn, xao xiết một nỗi tình. Như câu thơ trên đã nói:
Em ngủ bên chồng. Thôi, cũng đừng tiếc nữa...
Nhà thơ Phạm Ngọc Thái ơi, đọc thơ anh mà tôi thấy nao lòng. Người ta đã ngủ với chồng rồi, anh còn nghĩ đến làm gì? Nhưng phải chăng chuyện tình, khi lòng đã tương tư, mấy ai gỡ ra được? Như Nguyễn Bính từng viết:
Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng

Bài thơ có sức truyền cảm, như thể ngòi bút thi nhân hoà lẫn máu tim mà viết ra. Trong canh khuya yên tĩnh, dưới trăng sao, gió thổi và vòm trời. Khi cả thành phố đã chìm vào giấc ngủ đêm. Chỉ còn nhà thơ lặng lẽ đi dưới hàng sấu xưa và con phố. Chúng đang thì thào tâm sự với anh. Dòng thơ cứ nhè nhẹ, dìu dịu tuôn trào ra như vậy. Lời thơ như mơ và đầy chất mỹ học. Hình tượng thơ không kiêu sa mà thanh thoát, tình thơ thấm đượm sự thương yêu.
Như những tiếng đàn tình gảy lên trong không gian sâu thẳm, mênh mông. Tiếng đàn ấy ru theo bước chân người thi sỹ, cùng những cánh lá sấu nhỏ đang rụng xuống tâm hồn mộng mơ của thi nhân, để những lời thơ say đắm bay ra:
Phố vẫn phố hàng sấu xưa rụng lá
Ngỡ yên rồi... còn lạc bước canh khuya
Đây là hai câu thơ hay nhất chăng? không hẳn vậy - Những câu thơ khác cũng rất hay, thí dụ:
Đêm đã lạnh, vầng trăng còn thao thức
Trăng bay trên trời, anh cứ thương em
Vầng trăng kia thao thức hay chính tiếng lòng của chàng đang thao thiết dưới trăng? Bóng nguyệt thì trôi mãi vào cõi vô biên, còn hồn thi nhân bay theo những áng thơ đến tận bến xa vời...

Đấy, thi ca Phạm Ngọc Thái là thế! Đọc câu thơ nào cũng thấy đầy chất sống và sâu lắng. Mỗi câu lại có một hương sắc và sự hay riêng. Tiếng thơ mỏng mảnh tựa dây đàn, như trái tim của thi nhân khẽ bật lên là rung. Nghe êm đềm và tha thiết, nhưng lại có chút gì đó khắc khoải ở bên trong.
Tôi xin bình vào đoạn kết:
Anh lưu giữ chút tình trên trang giấy
Đi hết phố xa về khắc khoải bên thềm
Rồi tự trách với mình sao buổi ấy
Lại giục em lấy chồng để đau mãi con tim?

Vậy, lý do vì sao nhà thơ lại giục người yêu đi lấy chồng? Không ai biết cả. Nhưng như thế cũng đã hé mở ra căn nguyên của mối tình bị đứt đoạn này: Hai người cùng yêu nhau nhưng hoàn cảnh éo le không thể lấy nhau được. Một bi kịch tình đời chăng? Biết không thể lấy được nhau, sao lại còn yêu để giờ phải khắc khoải nhớ thương? Nhưng cuộc sống vốn dĩ cũng thường hay nghịch lý như vậy mà. Nếu không thế thì đã không có thi ca!...
Nhà thơ vì quá yêu nên tự dằn vặt với mình đó thôi. Đoạn thơ kết lại như lưu giữ một tấm tình kỷ niệm trong ảo mộng, rồi những đêm lang thang trong phố hay về khắc khoải bên thềm, thi nhân lại cảm xúc sáng tác ra những vần thơ tình chan chứa yêu đương, để thêm nhiều áng thi ca hay cho nền văn học nước nhà.
"Dưới hàng sấu đêm và con phố nhỏ" là một bài thơ tình gan ruột: Rất Phạm Ngọc Thái! Phong điệu nhẹ nhàng, lời thơ súc tích, hoà quyện tình yêu - cuộc sống với hình ảnh thân thiết của thành phố quê hương mà rung cảm trái tim những người yêu thơ.


Trần Tứ Đức
Nguyên CB Viện ngôn ngữ & Văn hoá dân gian

Phạm Ngọc Thái 
bình một bài thơ lục bát hay

                 BỜ SÔNG VẪN GIÓ

Lá ngô lay ở bờ sông
Bờ sông vẫn gió
                           người không thấy về

Xin người hãy trở về quê
Một lần cuối... một lần về cuối thôi
Về thương lại bến sông trôi
Về buồn lại đã một đời tóc xanh
Lệ xin giọt cuối để dành
Trên phần mộ mẹ nương hình bóng cha
Cây cau cũ, giại hiên nhà
Còn nghe gió thổi sông xa một lần

Con xin ngắn lại đường gần
Một lần... rồi mẹ hãy dần dần đi...
 
Trúc Thông
                                          
     Đây là bài thơ mà nhà thơ Trúc Thông khóc mẹ. Mới đọc ngỡ như anh đang đứng trước hương hồn người mẹ của mình đã khuất nơi chín suối, để trào ra những dòng thơ thương cảm. Nhưng không, bài thơ này Trúc Thông đã viết vào năm 1983 trong một lần trở về thăm quê, khi đó người mẹ của anh vẫn đang cùng anh sống ngoài Hà Nội. Một năm sau đó (1984) mẹ của nhà thơ mới qua đời. Nghĩa là, linh cảm về cái mất của bà mẹ già yếu đang gấp gáp đến gần, nên lời thơ nghẹn ngào xúc động, thấm đầy lệ.
   Đứng bên con sông Châu chảy qua tỉnh Hà Nam, cũng chính là dòng sông chảy qua quê hương của cố nhà văn Nam Cao, đồng tỉnh với quê hương của nhà thơ. Bên bờ sông ấy nhà thơ than thở:
                  Lá ngô lay ở bờ sông
                  Bờ sông vẫn gió
                                                người không thấy về
    Hình ảnh bờ sông, bãi ngô rất thân thiết, gần gũi với một làng quê Việt Nam. Đọc câu thơ ta liên tưởng tới bài thơ nổi tiếng "Đây thôn Vỹ Dạ" của thi nhân Hàn Mặc Tử, có câu Người đã viết:
                  Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
    Thông qua hình ảnh "... hoa bắp lay": âm hưởng lay lắt, chuyển động yếu ớt của những bông hoa bắp như thể hơi thở trút ra mỏng manh, cô quắt đồng hoạ với cảnh "dòng nước buồn thiu" để diễn tả tâm trạng cô đơn, buồn nản vì thương nhớ người yêu cách biệt trong mối tình đơn phương của thi nhân.
    Nhưng cái từ "lay" của những lá ngô trong bài thơ Bờ Sông Vẫn Gió của Trúc Thông thì lại diễn tả tâm trạng xao động, xót thương nghĩ về mẹ chứa chất một cái gì đó đang dâng lên ở trong lòng. Đồng vọng với tiếng "lay" kia thì tiếng gió thổi: Bờ sông vẫn gió.../- cũng dào dạt mạnh mẽ,  để rồi tác giả hạ nốt nửa vế của câu thơ: ...người không thấy về/- Vậy là, dù cùng một từ "lay" với hình ảnh gió ven sông nhưng ở hai bài thơ đã diễn tả hai trạng thái tình cảm khác nhau, đều xúc tích đạt đến hiệu quả của mỗi tình thơ riêng.
   Đoạn giữa là khổ thơ chính của bài, liền mạch tám câu nhưng ý thơ được cấu tứ thành bốn cặp. Cứ mỗi cặp hai câu nối tiếp nhau đan kết một cách khái quát quanh tình cảm và cuộc đời người mẹ cùng với quê hương:
                 Xin người hãy trở về quê
                 Một lần cuối... một lần về cuối thôi
   Ta thấy sự gắn bó giữa quê cha đất tổ, nơi chôn nhau cắt rốn với tình thân mẫu của nhà thơ. Cái điệp khúc "một lần cuối" hơi thơ dồn dập, bởi nỗi lòng mong mỏi, khắc khoải của người con, điệp với ý cụm từ "một lần" ở khổ thơ giữa:
                Một lần cuối... một lần về cuối thôi
    và:
                Còn nghe gió thổi sông xa một lần
    Đến câu kết được điệp lại một lần nữa, thả dần tình thơ... như việc xây dựng cao trào xong rồi cởi nút kết thúc một vở kịch vậy:
                  Một lần... rồi mẹ hãy dần dần đi...
    Nỗi thơ thêm quặn thắt, tạo thành tụ điểm của tình cảm, tư tưởng nhà thơ. Nhưng nhà thơ mong mỏi người mẹ của mình kịp về quê một lần nữa để làm gì?
                  Về thương lại bến sông trôi
                  Về buồn lại đã một đời tóc xanh
    "Bến sông" nghĩa là quê hương. Còn "bến sông trôi..." - Chữ "trôi" ở đây để nói về năm tháng chìm nổi của mẹ đã trải cả "một đời tóc xanh...". Hai câu thơ không chỉ nói về nghĩa gian truân, mà còn hàm ý sâu sắc sự gắn bó máu thịt giữa quê hương với cuộc đời của mẹ. Hai chữ "thương""buồn" dùng thật đắt. Nó không phải chỉ để gợi lại nỗi sầu khổ của cuộc đời, mà nếu có thì cũng quyện trong những tình cảm thân thương da diết, làm cho tình thơ cảm kích một cách lạ thường.
    Thực ra khi tác giả viết:
                  Lệ xin giọt cuối để dành
    Chỉ là cách nói trào ra do cảm xúc thơ, chứ còn cả bài thơ đã đầy lệ rồi! Cái giọt lệ cuối ấy để đến khi:
                  Trên phần mộ mẹ nương hình bóng cha
    Câu thơ này Trúc Thông đã đề cập đến mối quan hệ, tình cảm phu thê gắn bó không thể tách rời trong cuộc đời của mẹ. Trong thời hiện đại chúng ta ngày nay, nền giáo lý bị xàm xỡ quá nhiều. Nghĩa phu thê nhiều lúc, nhiều nơi bị phá vỡ từng mảng. Đạo vợ chồng cũng không còn giữ được một quan hệ đạo đức cần thiết. Chồng thì thiếu sự mực thước, vợ lại quá trớn không có được đức tính tốt đẹp của người phụ nữ. Có lẽ do tác động của cả bề mặt xã hội làm cho lòng tác giả nhức nhối. Nhưng căn bản chính đạo nghĩa sâu sắc của cha mẹ đã in sâu trong ý thức, trái tim nhà thơ để anh khắc họa lên.
    Thành thử bài thơ tuy viết khái quát mà vẫn đa diện: gia đình và xã hội, tình cảm, đạo đức gắn bó với tình yêu quê hương tha thiết. Trong thơ những hình ảnh cụ thể nhưng lại có ý nghĩa biểu tượng như "cây cau cũ", "cái giại" ở hiên nhà (là tấm bình phong đan bằng tre thường thấy ở một số làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ), được tác giả đưa vào trong thơ. Nó gắn bó cả cuộc đời của mẹ và gia đình anh.
    " Bờ sông vẫn gió" của Trúc Thông là một bài thơ lục bát đạt đến độ chuẩn mực, kết hợp với lối  gieo thơ theo cảm xúc phóng khoáng của thơ hiện đại. Hình tượng ngôn ngữ giầu chất dân gian, phong thái thanh tao, âm hưởng nhẹ nhàng thường thấy ở dòng thơ cổ phương Đông. Nhịp điệu khi thì đều đều theo nhịp hai, như:
                  Lá ngô/
                                 lay ở/
                                              bờ sông...
    Khi thì dồn nén, hối hấp theo sự thôi thúc của tình cảm, chuyển sang nhịp bốn ở câu sau:
                  Bờ sông vẫn gió/
                                                người không thấy về
    Hoặc là chuyển thành nhịp ba ở câu bốn:
                  Một lần cuối/
                                          một lần về/
                                                               cuối thôi...
    Tạo thành mạch liên hoàn từ đầu đến cuối.  Những câu chữ, hình ảnh được lựa chọn khá tinh tế, gần gũi, chân thực với đời sống mà ý tứ vẫn sâu sắc. Giọng thơ trong tiếng nhạc lòng trầm, buồn... nhưng thơ vẫn mới, vẫn tươi. "Bờ sông vẫn gió" là bài thơ hay nhất của nhà thơ Trúc Thông - Theo như Ông nói: Ông viết thể nghiệm và đã thành công khi sáng tác bài thơ lục bát này.  
Phạm Ngọc Thái
 
Liệu "Em ơi! Thành phố lại mưa" 
đã phải là một tuyệt tác thi ca? 
Cô giáo Hoàng
                                                                                                                         
  
   EM ƠI! THÀNH PHỐ LẠI MƯA

Nghe không em lại mưa lên phố
Bao năm rồi, chiều ấy cũng mưa rơi...
Gió se sắt đưa anh vào nỗi nhớ
Mối tình thời trinh nữ xa xôi.

Thưở xưa ấy, em ơi! Như hoa nở
Say như mơ và mộng như thơ
Anh đã gặp em những tháng năm cát bụi
Khi trái tim yêu trong cõi vắng vật vờ.

Thành phố lại mưa…
Có nghe không em? Con chim trời, cá nước
Khúc nhạc chiều dìu dặt bay qua
Tình êm dịu bên em mơ màng quá
Thôi hết rồi! Tan vỡ bến bờ xa.

Tiếng mưa rơi não nề thao thức
Bóng hoàng hôn đỏ cũng xua tan
Bèo dạt sông trôi buồm anh không bến đỗ
Chân trời vương vấn dải mây lan.

Ôi, cuộc sống! Tình chỉ như màn kịch
Nào phải lỗi do anh? Đâu phải lỗi do em?
Anh đứng giữa trời mưa làm những vần thơ xao xác
Người con gái năm nào về như một bóng chim hoang...

                                                       Phạm Ngọc Thái


    Nhà thơ Phạm Ngọc Thái có "chùm thơ tình trong mưa" rất có tiếng. Ở chùm thơ đó, tôi thích nhất bài Em Ơi! Thành Phố Lại Mưa này:         
                          Nghe không em lại mưa lên phố
                          Bao năm rồi, chiều ấy cũng mưa rơi...

    Ta đã nghe thấy tiếng mưa rơi mà là mưa rất mau... với bóng người con gái từ thuở nào đó. Nói về hình ảnh người yêu trong thơ mưa, một bài khác anh cũng viết:

                        Em bước nhẹ, những tháng năm hoang dại

                        Về bên anh mái tóc rối tơi bời

                        Anh hôn mãi những giọt mưa em thuở ấy

                        Dẫu chỉ thấy còn bong bóng vỡ đầy môi...

                                                         (trong mưa)
     Đọc thơ mưa Phạm Ngọc Thái sao mà nhớ da diết về thuở ấy. Thời của tình yêu, mưa rơi lên tóc, ướt vai và ướt cả áo em. Tôi cũng thấy bồi hồi không khỏi chạnh lòng khi nghe giọng thơ anh:

                        Gió se sắt đưa anh vào nỗi nhớ

                        Mối tình thời trinh nữ xa xôi.

      Theo ý trong bài thì thiếu nữ đó tác giả đã gặp vào những năm tháng phong trần dâu bể cuộc đời, chứ không phải thuở anh vẫn còn mộng mơ trên giảng đường đại học:

                        Anh đã gặp em những tháng năm cát bụi

                        Khi trái tim yêu trong cõi vắng vật vờ...

      Nhưng những thông tin về đời tư tác giả bộc lộ qua các tác phẩm và dư luận, thời trai trẻ nhà thơ từng trải qua cả cuộc chiến tranh ngoài chiến trường. Vậy phải chăng cô thiếu nữ của bài Em Ơi! Thành Phố Lại Mưa này, anh đã gặp và yêu sau cuộc chiến tranh, khi  đã rời bỏ đời lính trở về? Có thể người con gái, mối tình đầu của anh ở quê hương đã đi... lấy chồng. Để lại một nỗi buồn trống vắng, cô đơn trong lòng người lính... như lời thơ đã viết: Khi trái tim yêu trong cõi vắng vật vờ/-  Một người lính trận lăn lộn qua cả cuộc chiến, tuổi trẻ phải vùi trong bom đạn, lại có tâm hồn lãng mạn của một nhà thơ, hẳn khi gặp một nàng thiếu nữ duyên dáng, trẻ xinh... trái tim ắt phải rung động mãnh liệt lắm! Tình yêu ấy giúp cho tuổi trẻ nhà thơ tưởng đã cỗi cằn, nay sống lại:

                         Thuở xưa ấy, em ơi! Như hoa nở

                         Say như mơ và mộng như thơ

    Theo năm tháng được biết thì bài thơ tác giả sáng tác đã vào cái tuổi cập kề lục tuần rồi. Nghĩa là đến mấy mươi năm sau, vào một chiều thành phố mưa rơi lại đánh thức trái tim anh trở về với mối tình xa xưa đó:

                         Thành phố lại mưa...

                         Có nghe không em? con chim trời, cá nước

                         Khúc nhạc chiều dìu dặt bay qua

     Hình ảnh "con chim trời, cá nước" ở đây ý muốn nói về sự xa cách, tình yêu đã trôi vào dĩ vãng... như con chim bay trên bàu trời mênh mang vô định, con cá ở ngoài sông xa tít tắp. Dẫu thế, bên tai anh vẫn văng vẳng tiếng yêu thương ngày nào tựa khúc mưa chiều dìu dặt. Em có nghe thấy, hay còn nhớ tới không? Trái tim thi nhân thổn thức hoà lẫn trong tiếng mưa thành phố, để cõi lòng bật lên thảng thốt như thể tình vừa mới mất:

                        Thôi hết rồi! Tan vỡ bến bờ xa...

      Những dòng thơ trào ra nỉ non, tha thiết:

                        Tiếng mưa rơi não nề thao thức

                        Bóng hoàng hôn đỏ cũng xua tan

                        Bèo dạt sông trôi buồm anh không bến đỗ

                        Chân trời vương vấn dải mây lan.

     Hàng loạt các hình ảnh được tác giả đưa vào làm biểu tượng: Từ tiếng mưa rơi não nề thương nhớ, đến cái bóng hoàng hôn đỏ trong cảnh chiều tà trời đất hay chiều cuộc đời của nhà thơ cũng đang nhạt nhoà, tan tác... như cánh buồm trên con sông tháng năm trôi dạt lênh đênh, không bờ bến đỗ. Lòng người thì hoang vu với vài đám mây trôi... Tất cả hoà quyện nhau để khắc hoạ tình yêu người ở trong mưa.

     Tôi xin phân tích đoạn cuối cùng:

                        Ôi cuộc sống! Tình chỉ như màn kịch

                        Nào phải lỗi do anh? Đâu phải lỗi do em?

     Các văn nghệ sĩ thường hay nói: Cuộc sống như một cái sân khấu lớn, ở trên đó mỗi con người là một nhân vật hay một vai diễn? Có phải vậy nên nhà thơ Phạm Ngọc Thái mới viết: Ôi, cuộc sống! Tình chỉ như màn kịch/-  Tôi nghĩ, chẳng qua chỉ vì mối tình đã tan và tiếc nuối nên tác giả mới buông ra lời ca thán như thế? Bởi vì, nếu mối tình xa xưa ấy cũng chỉ như màn kịch thật, nhà thơ và người con gái kia cũng chỉ là vai diễn... thì sự chia tay là tất nhiên khi cái sân khấu đã đóng màn và tình yêu đã hết. Đằng này, mấy chục năm trôi qua mà lòng nhà thơ vẫn còn lưu luyến đến thế? Tưởng như máu tim anh đang rỏ xuống mỗi dòng thơ. Anh đã quá yêu người con gái đó nên mới buông ra lời qui tội cho cuộc sống đó thôi! Với những dòng tri kỷ ở trong thơ thì hẳn cô gái cũng đã rất yêu anh. Vậy vì sao cả hai người cùng yêu nhau mà mối tình lại tan? Ta không biết. Tác giả đã phân bua:

                       Nào phải lỗi do anh? Đâu phải lỗi do em?

     Tôi còn nhớ bài thơ "Hoa huệ" của nhà thơ Bế Kiến Quốc (1949-2002), đã viết:

                      Hoa huệ trắng và bức tường cũng trắng

                      Sao bóng hoa trên tường lại đen?

                      Em đừng nhìn đi đâu thế em

                      Anh không biết vì sao, ai có lỗi...

     Ở đây hình ảnh của bông hoa đã trở thành biểu tượng của tình yêu. Bông hoa huệ trắng và bức tường cũng trắng kia là thật. Nhưng tất nhiên bóng của nó hắt lên tường sẽ thành... đen. Ý nhà thơ muốn nói: Tình yêu có hai mặt - Nếu mặt trước của nó là hạnh phúc, niềm vui sướng và đam mê say đắm - Thì mặt sau của tình yêu lại là nỗi đau khổ vô hạn khi tan nát. Sẽ trở thành bi kịch, thất vọng của cuộc đời. Nhưng chính nhà thơ Bế Kiến Quốc cũng không lý giải nổi mối tình của mình đẹp thế sao lại vỡ? Ông xa xót mà thốt lên:

                      Anh không biết vì sao, ai có lỗi...

                      Nhưng mãi mãi vẫn còn câu hỏi

                      Sao bóng hoa trên tường lại đen?

     Xin trở về với bài thơ Em ơi! Thành Phố Lại Mưa, khi mối tình không thành mà cũng chẳng lý giải nổi vì sao? nhà thơ cũng chỉ biết than:

                     Nào phải lỗi do anh? Đâu phải lỗi do em?

     Phải chăng bởi duyên trời, hai người không có phúc phận được sống bên nhau? để cho con tim năm tháng phải dày vò mà tiếc nuối? để những chiều mưa rơi thành phố, anh thi sĩ lại thổn thức vì  thương nhớ người yêu mà sáng tác lên những áng tình ca bất hủ để lại cho đời?... và bài thơ đã được kết:

                    Anh đứng giữa trời mưa
                                                        làm những vần thơ xao xác

                   Người con gái năm nào về như một bóng chim hoang...

    Cũng không phải người con gái kia là cánh chim hoang đâu mà chính là lòng nhà thơ vất vưởng, vô vi như một bóng chim hoang. Tư duy thơ sâu lắng, ngôn ngữ hình ảnh thi ca sinh động, làn điệu nhụy nhàng mà không rơi vào sự bóng mượt nhàm chán. 
    Tôi cảm nhận Em Ơi! Thành Phố Lại Mưa là một bài thơ tình rất hay. Dầu thế vẫn chưa dám buông ra lời khẳng định nó đã trở thành một tuyệt tác thi ca hay chưa? mặc dù trong thâm tâm, ý nghĩ của tôi đã tin như vậy.
   Cô giáo Hoàng ( Tên thật : Nguyễn Thị Hoàng
 
ĐH Sư phạm Hà Nội 

  * Với Trang chủ & Toà soạn:
Tên thật của tôi là: Nguyễn Thị Hoàng
 (Trên là danh xưng tôi vẫn thường dùng)

 TẬP THƠ
 "ĐÔI HỒN" VÀ MỘT THIÊN DIỄM TÌNH
Phạm Ngọc Thái
http://mpflorist.files.wordpress.com/2011/04/hanmactu.gif
                                                                    
     Tập thơ "Đôi hồn" là sản phẩm thi ca của một mối tình đã được thăng hoa giữa thi nhân Hàn Mặc Tử (HMT) cùng nữ sỹ Hoàng Yến - Mai Đình (MĐ), mối tình ấy diễn ra cũng như thơ của cả hai người đều đã được viết từ trước đây hơn nửa thế kỷ.
      Bây giờ ở trên đỉnh cao Gành Ráng, Qui Nhơn bên bờ biển Đông, mộ của thi nhân HMT quanh năm sóng phủ. Thơ của Người đang được nhân gian truyền tụng như những vì sao sa sáng láng. Đúng như lúc đương thời Người viết:
                Với sao sương, anh nằm chết như trăng
     Nhưng khi còn trong cõi sống, Người đã phải chịu bao nhiêu khổ hạnh vì bệnh tật. Tạo hoá đã cướp đi một tài hoa lúc đương độ rực rỡ, khi cuộc đời Ông mới chỉ vừa 28 tuổi. Ngẫm thế: kiếp người có khác gì kiếp nợ! Phải chăng muốn hoá siêu nhân... thì trước hết con người phải chịu đựng những sự đầy đoạ ở phàm trần? Nhưng thế giới sinh linh này cũng thật huyền diệu và bí ẩn, chính thiên diễm tình ấy lại nẩy nở trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất của cuộc sống. Khi mà thi nhân lâm vào căn bệnh phong ác nghiệt, thì nàng Mộng Cầm (người con gái quê Phan Thiết đã từng một thời yêu thi nhân) lại bỏ đi lấy chồng... đẩy thi nhân thêm vào cảnh đau đớn, cô đơn.
Hình bên :Nữ sĩ Mai Đình  (lúc gặp Hàn Mặc Tử) 
 (trên báo Phụ nữ Việt Nam số 28 ra ngày 11-1-1994 ), thì ái nữ ấy:
    
"Xuất thân trong một gia đình quan lại quê Nông Cống, Thanh Hoá. Thân phụ nhận chức tại Phan Thiết, mười sáu tuổi sống bên cha, sau này vào ở Sàigòn. Cô thiếu nữ ngây thơ xinh đẹp, rất được cưng chiều...)
   Chính là nữ sỹ Hoàng Yến - Mai Đình. Nàng lại còn thông tuệ về văn thơ cùng với Người để tạo nên một thiên bi tình khả ái, với tập thơ "Đôi hồn" lai láng yêu đương. Tập thơ ấy được thi nhân cùng người nữ sỹ giao lưu trong mối tơ duyên và viết suốt ba năm (1937-1940): gồm 54 bài
(kể cả hơn chục bài thơ mà bà Mai Đình viết sau này, khi HMT đã qua đời ngày 11-11-1940)
 
     Đến nay năm tháng trôi qua, cuộc đời riêng chung biết bao biến đổi, nhưng lòng người nữ sỹ vẫn:

                Nói sao cho xiết nỗi buồn?
                Một trời binh lửa, một hồn cô liêu.
                Hồn tôi theo đám mây chiều,
                Tìm chàng trong một túp lều tranh con.
                                        ( Âm thầm - MĐ )
      Đó chính là cái túp lều tranh ở Gò Bồi trên một khu cát rộng phía Tây thành phố Qui Nhơn. Cách đây trên nửa thế kỷ (1939) người nữ sỹ đã đến thăm thi nhân khi ông mắc bệnh hiểm nghèo, phải sống lẩn tránh cả chính quyền địa phương. Vì bệnh lây nên chính quyền buộc gia đình phải đưa HMT vào bệnh viện "cùi" Qui Hoà để chữa bệnh và ẩn náu, cách biệt tất cả mọi người. Đó cũng là lần đầu tiên Nàng mới gặp mặt người yêu, vì trước đó đôi năm tình yêu của hai người chỉ trao đổi qua các áng thơ, như Nàng kể lại:
 -    Đến trước túp lều tranh xơ xác, xiêu vẹo... vén tấm mành che cửa... một người đàn ông nhỏ bé, gầy yếu, ngồi trên chiếc giường chõng, cạnh bàn viết. Bàn là một tấm gỗ thùng đặt trên khung chân cũ. Người đàn ông ngước đôi mắt đen sáng long lanh nhìn tôi dò hỏi. Tôi đứng lặng đi. Hàn Mặc Tử đấy ư? ...

     Nàng tả về đôi mắt trong sáng như hai ngôi sao của thi nhân, tấm thân thì ốm yếu tàn tạ, nhưng thông minh và cám dỗ. Vâng, nàng đã yêu trong hoàn cảnh ấy:

                Em theo mây gió anh ơi,

                Em đi đi mãi vào nơi vô hình...
                Yêu anh trên bước phiêu linh,
                Để lòng bớt khổ, để tình bớt đau.
                                        ( Biệt ly - MĐ )
      Mặc dù chỉ là một nữ nhi khuê các nhưng sức mạnh tình yêu của nàng không gì ngăn cản nổi, hoàn cảnh càng khắc nghiệt thì tình nàng càng đằm thắm, thiết tha:
                Yêu anh trong lúc anh lâm chung,
                Mới thấy tình em yêu lạ lùng.
                                  ( Anh hứa đi anh - MĐ )
     Vượt lên trên tất cả sự chỉ trích của người đời:
                Kịp nghĩ miệng đời hay mỉa mai,
                Tảng lờ ngừng bước và im hơi,
                Mộng hồn em gửi theo chiều gió
                Để được gần anh ngỏ ít lời.
                                    ( Biết anh - MĐ )
 
Ta cảm thấy rợn tóc gáy, không thể không khâm phục ý chí quyết liệt trước lời tuyên bố của nàng:
                Tôi chẳng sợ cảnh nghèo hèn đói khổ,
                Tôi không kiêng thứ da thịt khác người
                                        (vì HMT mắc bệnh hủi)
                Vì lòng tôi, tôi chỉ biết yêu thôi !...
                                           (Tuyên bố - MĐ)
      Hoàn cảnh bi ai, sầu thảm thế nhưng tình nàng không chỉ đằm đìa mà còn trong sáng, mộng mơ một cách lạ kỳ:
                Yêu anh chết nửa cõi lòng,
                Gửi hồn bay bổng mấy tầng mây xanh.
                                            (Tơ sầu - MĐ)
      Còn thi nhân HMT, người yêu của nàng cũng mộng mơ không kém:
                Dưới túp lều tranh, trên chõng tre,
                Tứ bề cửa khép với phên che,
                Kéo mền ủ kín toàn thân lại,
                Để thả hồn bay gửi mộng về.
                               (Hãy đón hồn anh - HMT)
      Cảnh ngộ thì khổ sở, nghèo hèn nhưng tâm hồn họ thật thanh tao, hoành tráng biết bao. Đúng là: "Một túp lều tranh, hai trái tim vàng"! Mai Đình đáp lại:
                Bây giờ em đã bên anh
                Đói nghèo em chịu, rách lành cũng vui.
                               (Em vẫn bên anh - MĐ)
      Tuy vậy, nhưng nào họ có được ở bên nhau! Chỉ thăm người yêu ít ngày rồi nữ sỹ lại phải chia tay về gia đình tận Sàigòn. Hàn Mặc Tử với bệnh tình đành nằm lại trong túp lều tranh ở Qui Nhơn, người phương Bắc kẻ phía Nam. Hoàn cảnh đã khắc nghiệt mà không gian ly biệt thì xa vời, nhớ nhau cũng chỉ biết:
                Anh đứng cách xa hàng thế giới
                Lặng nhìn trong mộng miệng em cười.
                               (Lưu luyến - HMT)
      Nhưng theo dõi hồn thơ ta có cảm nhận như đang gặp một cuộc tình duyên nơi chốn cung động thiên thai nào đó, chứ không phải ở trần tục đời thường. Thi nhân viết:
                Đây Mai Đình tiên nữ ở Vu Sơn
                Đem mộng xuống gieo vào muôn sóng mắt.
      Hay là:
                Quí như vàng, trọng như ngọc trên đời
                Mai! Mai! Mai! Là Nguyệt Nga tái thế...
                                (Thắm thiết - HMT)
      Nàng thì ví mình như Ngọc Nữ còn chàng là Kim Lang: vì để rơi chén vàng cho nên Ngọc Hoàng đẩy xuống trần thế, mặc dù nay đã hết hạn họ vẫn quyết ở lại bên nhau không về tiên giới:
                Ta đã ở bên chàng nơi cõi tục,
                Quyết không về điện ngọc sống cô đơn!
      Để rồi:
                Bốn bàn tay cùng chung xây hạnh phúc,
                Túp lều tranh hơn cõi thiên đường.
                                 (Hạnh phúc - MĐ)
      Và tình yêu ấy đã đạt đến độ say đắm, giông bão khôn cùng:
                Tôi ôm nàng, muốn cắn chết nàng đi!
                                 (Thắm thiết - HMT)

      Nữ sỹ Mai Đình kể lại khi họ gặp nhau:

-   Vì sợ lây bệnh cho người yêu, nên Hàn Mặc Tử không dám đụng vào người Mai Đình...
      Nàng nói:
-   Những phút ấy mặt Hàn Mặc Tử đỏ rần lên rồi tím đi, còn Mai Đình cũng chết cả ruột gan không biết phải xử trí làm sao?
      Thật là đau khổ và hy vọng:
                Anh lành anh sẽ tặng em chi ?
                Tặng cả đời anh cả hồn thi,
                Với tất những gì anh ước vọng,
                Cả hồn, cả xác, cả tình si.
                              (Anh hứa đi anh - MĐ)
      Nhưng cũng như tình thường của bao đôi trai gái khác, tình yêu không chỉ có quấn quít "đôi hồn" mà cũng có lúc ghen tuông:
               Em muốn thu anh thành vật nhỏ
                Để em nắm kín ở trong tay...
                Cho các cô nường hết ngất ngây.
                                           (Ghen - MĐ)
      Trong bài "ghen với Mộng Cầm" ta còn nhận thấy mặc dù Mộng Cầm là người con gái đã đến trước, được hưởng đầy đủ khoái lạc của tình yêu lúc thi nhân đang lành lặn, mà lại ruồng bỏ khi Người lâm bệnh. Nhưng với tư cách của Mai Đình vẫn tỏ ra là người tao nhã, trang trọng: ghen đấy mà không phỉ báng còn cảm thông với lẽ đời thường của một tấm lòng nhân hậu, khoan dung độ lượng:
                Mộng Cầm hỡi, nàng là tiên rớt xuống,
                Hay là vì tinh tú giáng trần gian?
                Diễm phúc thay, sung sướng biết bao vàn,
                Đầy đủ quá, nàng thương chăng kẻ thiếu?
                                  (Ghen với Mộng Cầm - MĐ)
      Đã bộc lộ tình cảm day dứt của một người con gái tha thiết yêu mà tâm sinh lý không được thoả mãn. Hàn Mặc Tử có lúc cũng không ra khỏi sự nghi kỵ, dằn vặt đời thường. Có lúc ông nghi oan người yêu có tình ý với người khác, buông ra những lời thơ hờn giận:
                Mai tiên nữ! Đọc hồn ta cho rõ:
                Đau không rên, chết cũng mặc mình thôi!
                Mối tình si đã lỡ vỡ tan rồi,
                Ta chỉ biết lặng nhìn thiên hạ khóc...
      Hay là:
                Tim hồn ta quằn quại giữa lầm than
                Để trở lại những ngày đầy huyết lệ!
                                   (Thầm lặng - HMT)
      Sự mặc cảm đó cũng dễ hiểu: bản thân ông bệnh tật, người yêu thì trẻ đẹp lại ở cách xa...
      Hôm nay trong lẽ sống thường tình trước mọi sự đổi thay, thăng trầm nhân thế... ta thưởng thức những tri âm, tri kỷ ấy càng thấy thiên tình duyên trác tuyệt này như một sự lạ cõi đời. Trong thời buổi kinh tế thị trường chi phối cả trong tình yêu trai gái và những mối quan hệ xã hội khác, thì cuộc tình xưa hẳn như một đài thơ diễm lệ, cho ta ngưỡng mộ và cảm phục!
   
Có phải chăng duyên ấy, phận này cũng đã là tiền định như khi nữ sỹ khóc bên mộ Người vào tháng 4-1941 (khoảng nửa năm sau khi thi nhân tạ thế):
                Em đã về đây bên mồ cát trắng
                Túp lều tranh muôn thưở đã chung đôi
                Tự nghìn năm thượng đế định cho rồi...
                                     (Em đã về đây - MĐ)
      Hay cảm vì phận mỏng, tình dở dang, nàng than:
                Anh ơi, xin hãy chờ em với!
                Hết nợ rồi em sẽ trở về.
                                    (Chắp lại đôi hồn - MĐ)
      Ta chạnh nhớ tới câu thơ của cụ Nguyễn Du khi nàng Kiều than ở sông Tiền Đường:
                Này thôi hết kiếp đoạn trường là đây!

      Về thơ của thi nhân HMT thì chúng ta đã biết nhiều. Ở đây, qua tập thơ đôi hồn" còn cho chúng ta thưởng thức tài hoa của nữ sỹ Hoàng Yến - Mai Đình... như Kiều Văn đã nhận xét trong lời giới thiệu tập thơ:

-   Đó là một giọng thơ giản dị, chân thực mà sâu sắc, nồng nàn... Là thứ thơ huyết lệ. Hàm chứa những tình cảm cao quí thiêng liêng, thuỷ chung...Xứng đáng là tiền bối của thơ tình Xuân Quỳnh và các nữ sỹ khác sau này.
      Nói thế có lẽ vẫn chưa đủ, bút pháp thơ của nữ sỹ Mai Đình có lúc quặn thắt, đau đớn như Nàng viết:
                Nguyện để tang anh suốt một đời!
      Nhưng trước tình yêu non sông đất nước, ta lại còn chứng nhận một phong cách cũng thật hào khí
:
                Chút nợ ân tình trả chưa xong
                Đành mang tâm sự mãi bên lòng
                Sắt son đã chẳng cùng nhau trọn
                Em phải đem mình gửi núi sông.
                                     (Trăng cũ - MĐ)
       Gợi ta nhớ tơi âm hưởng những câu thơ đầy hùng khí, trác tuyệt của nữ sỹ Ngân Giang trong bài "Trưng nữ vương":
                Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa
                Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi,
                Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá!
                Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi.

      Vào năm 1996 - Báo chí đã đưa tin về nữ sỹ Mai Đình... khi đó Bà bước vào tuổi thọ 80, Bà đã đến Gành Ráng, Qui Nhơn một lần nữa để thăm lại mộ của cố nhân. Một lần nữa, những giòng lệ xót thương lại chảy tràn trên đôi mắt Bà như thưở còn con gái, như câu thơ Bà đã viết:

                Tóc trắng, tình xanh mộng chửa tàn.
      Khi đó tuy tuổi đã già, cũng theo lời kể của Đắc Trung:
-   Nữ sỹ Mai Đình vẫn giữ được những nét đẹp kiêu sa, quí phái. Mái tóc dài bạc trắng chải rất mượt, búi rất gọn. Da hồng, mắt sáng, miệng tươi. Giọng nói nhỏ nhẹ mà đầy âm hưởng. Khăn hoa áo lụa hảo hạng...
     Để kết thúc bài viết về thiên tình ca trác tuyệt có một không hai này, tôi xin trích dẫn những lời thơ trăng trối của thi nhân Hàn Mặc Tử viết để lại cho người yêu. Đấy cũng là những bút tích cuối cùng, trong thi phẩm cuối cùng của Ông lưu lại cõi trần gian - Người đã "Trút linh hồn" trước lúc đi xa:
                Ta trút linh hồn giữa lúc đây
                Gió sầu vô hạn nuối trong cây,
                - Còn em, sao chẳng hay chi cả?
                Xin để tang anh đến vạn ngày!

                     

   Đài tưởng niệm Hàn Mặc Tử ở Gành Ráng - Qui Nhơn
MẤY VẦN THƠ XƯƠNG VÀ HỌA
VIẾNG MỘ HÀN MẶC T

VIẾNG MỘ HÀN MẶC TỬ
(Bài họa:1)
Ngàn khơi dậy nhạc trước Mồ Hàn

Thi sĩ trăng thâu gió thở than

Liễu rủ khuôn vàng mơ thác đứng

Dương che mặt ngọc mộng triều ngang

Gò Bồi cát lặn thơ văn trãi

Ghềnh Ráng sóng gào chữ nghĩa mang

Hồn gởi trên cao tiên tục hội

Thân nằm nghe lá rụng lìa hàng.
Nha Trang,23.10,2012 
Võ Sĩ Quý
                     
                 
 Mộ Hàn Mặc Tư ở Gềnh Ráng-Quy Nhơn

THƠ TRĂNG HÀN MẶC TỬ
(Bài họa:2)
Tiếng ai rao bán cả cung Hàn

Ray rứt, kêu gào lẫn oán than !

Sự nghiệp thênh thang quay ngã hẹp

Tình duyên suông sẻ rẽ sang ngang

Đớn đau thân xác, tâm đầy đọa

Bế tắc tinh thần, trí hỗn mang

Rút ruột gởi vào từng câu chữ

Thơ trăng- máu lệ nhỏ hai hàng ...
Sông Thu
                                    
DUYÊN THƠ  

 Bài họa:3)
Bàn Thành tứ hữu tiếng thi Hàn,

Ghềnh Ráng ai nằm núi - suối than!

Trăng thả bóng mờ soi nẻo lối,

Sương là tà loáng tỏa mành ngang.

Phong Trần bút kết Mai Đình* lụy,

Công Luận thơ lên Mặc T mang...

Duyên nợ Mộng Cầm ai nỡ kết!

Nửa xuân gương vỡ lệ tuôn hàng... 
Quảng Trị,23/10/2012 
Văn Thiên Tùng
*  tình đầu với tập "duyên quê"
                                           
KHÓC HÀN THI NHÂN
(Bài họa:4)
Trăng lạnh lùng soi lịm tiết hàn

Ru vần tuyệt tác lững lờ than!

Dư âm còn dấu thời hoa bướm

Vết tích vẫn hằn thuở dọc ngang

Sắc sảo tài hoa vương mệnh yểu

U hoài phận bạc phải thân mang

“Ba sinh duyên nợ âu là thế”(*)

Để lại ngàn sau lệ nhỏ hàng!
            Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
(*) Trích thơ Hàn Mạc Tử (Chuyến Đò Ngang
 
VIẾNG MỘ HÀN MẶC TỬ 
(Bài họa:5)
Đệ Huynh đến viếng mộ phần Hàn
Thương tiếc ngậm ngùi tiếng thở than!
Nghi ngút khói hương trời xuống thấp
Đìu hiu nghĩa địa mây giăng ngang
Qui Nhơn phảng phất hồn thơ vọng
Mặc khách tiêu sầu bầu rượu mang
Tưởng niệm thi tài thân mệnh yểu
Bâng khuâng giấy bút viết dăm hàng.

                        Ngô Văn Giai
                        Virginia Oct 23/2012

KÍNH VIẾNG MỘ HÀN
 (Bài họa:6)
Tận cùng thăm thẳm vọng thơ Hàn

U uẩn hồn trăng tiếng oán than

Ngao ngán tình đời cơn mộng ảo

Lỡ làng duyên nợ chuyến đò ngang

Tài hoa phận mỏng nhiều oan trái

Nghiệp chướng đa đoan một kiếp mang

Trước mộ cúi đầu xin bái tạ

Thành tâm kính viếng một đôi hàng. 
Hoanggiado
                                      
NHỚ THƯƠNG HÀN MẶC TỬ
(Bài họa:)
Từ nhỏ lòng em mến mộ Hàn
Lời thơ đắm đuối lẫn sầu than
ĐÂY THÔN VỸ DẠ-hồn thanh tịnh
RƯỚM MÁU ĐAU THƯƠNG-dạ ngỗn ngang
Một mảnh thuyền trăng soi bát ngát
Đôi bờ bến mộng trãi mênh mang
Tình duyên lận đận
nhiều oan trái
Bạc mệnh, thương ai lệ mấy hàng 
THY LỆ TRANG
MASSACHUSETS 

TRĂNG SÁNG MỘ HÀN
(Bài họa:)                  
Chưa được đến thăm chốn mộ Hàn

Hòa đồng cảm tác mấy lời than

Văn đàn ướt lệ  thuyền trôi dạt

Thi sĩ đẫm dòng bến rẽ ngang

Hoàng Cúc, tình hài duyên ảo vọng

Mộng Cầm, nghĩa phụ kiếp vương mang

Mộ "Hàn" trăng rọi nơi Ghềnh Ráng

"Mạc Tử" người ơi!  gửi  mấy hàng. 
Ngọc Ẩn Nhi Huyền 
TP.Nha Trang                        .                          

THƯƠNG NHỚ HÀN MẶC TỬ
(Bài họa:)
Bia chữ còn đây-nhớ cụ Hàn

Sóng xô bờ đá, vọng lời than !
Chàng đi vĩnh viễn lòng tan nát

Cầm ở trăm năm dạ ngỗn ngang

Giông bão trời gieo đành gánh chịu

Oan khiên đất gán phải cưu mang

Thương thay dâu bể đời Thi Sĩ
Sự nghiệp, tình yêu chóng rã hàng
.
 Oct. 23rd. 2012
motthoi                                                     
VIẾNG MỘ HÀN MẶC TỬ
(Bài họa:)
Triều vang Ghềnh Ráng phổ thơ Hàn

 Hợp khúc Cô Liêu như thở than

Có phải mơ hoa nhiều bất hạnh 

Hồng trần xuân chín vội quy ngang 

Tương tư cát bụi buồn đau cảnh 

Mây nước vô thường khổ hận mang 

Mặc Tử đau thương tình chửa khép!

Hồn thơ huyền ảo xếp đầu hàng.
Lê Văn Thanh                                     
VIẾNG MỘ HÀN MẶC TỬ
(Bài họa)  
Nào ai dám trách nỗi ôn Hàn
Một cõi đi về chẳng oán than
Mặc Tử ôm lòng trăng lẻ bạn
Mộng Cầm giấu lệ buổi sang ngang
Tình xa mãn kiếp thơ còn nợ
Mệnh bạc muôn đời phận phải mang
Sóng biển Quy Nhơn tràn cát trắng
Tha nhân viếng mộ cảm đôi hàng

Phieuvan_Thlangdu 

PHẠM NGỌC THÁI

có chân dung một nhà thơ tình lớn của dân tộc

Nguyễn Đình Chúc


Qua hai tập thơ đã xuất bản: "Rung động trái tim", Nxb Thanh niên 2009 & "Hồ Xuân Hương tái lai", Nxb Văn hoá Thông tin 2012, có thể nói đó là cả một tuyển thơ dầy dặn có tầm vóc của anh. Để minh chứng cho luận điểm trên mà tôi đã nêu ra, trước hết mời Quí vị hãy đọc một số bích phẩm của anh trong bản viết  "16 bài   thơ tình hay của Phạm Ngọc Thái" đã được đăng trên nhiều trang mạng trong nước và thế giới. 
Mở theo link sau 
-http://datvietjsc.net.vn/index.php?act=newsdetail&pid=8&cid=32&id=2220


Xem hình
Chưa kể nhiều bài thơ tình khác của anh cũng rất hấp dẫn và súc tích, như: Thành phố mưa rơi, Thời áo trắng, Trước núi Mỹ Nhân, Người con gái sông xưa, một góc hồ Tây, Em về biển, Đêm tóc đá, Trăng lặn, Sáng thu vàng, Anh vọng nghe tiếng em hát bên hồ... hay những bài thơ đời sâu sắc: Cô quét lá đêm hồ, Làm ma em vợ, Em bé cầu bơ, Chiều hoàng hôn, Nỗi trăn trở người đi tìm vàng...
    Chưa từng có thi nhân nào viết được nhiều thơ tình hay đến thế! Để có thể khái quát được vóc thơ tác giả, lại xin mời hãy tham khảo một trang với tiêu đề: "49 tình thơ sâu sắc của Phạm Ngọc Thái", qua link:
                         http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=764723
  
          Nhà thơ Phạm Ngọc Thái 
      Thi ca Phạm Ngoc Thái dù là thơ tình hay thơ đời, những bài đã đạt độ viên mãn về ý tưởng nhân văn và ngôn ngữ nghệ thuật, mức độ hay của mỗi bài khác nhau nhưng những tình thi có thể cảm hoá được trái tim những người yêu thơ là rất nhiều.
      Về bút pháp nhiều bài thơ tình của anh đã được hoà trộn trong khuynh hướng của dòng thơ tượng trưng hiện đại châu Âu cuối thế kỉ XIX  đầu thế kỉ XX, mà điển hình là thuyết "tương ứng cảm quan" của nhà thơ tượng trưng bậc thầy  Charles Baudelaire (1821-1867) lúc đó chủ xướng. Thí dụ trong bài thơ Người đàn Bà Trắng ở tập "Rung động trái tim", anh viết:
                             Chiếc mũ trắng mềm em đội bàu trời
                             Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc
                             Đôi mắt em đong những áng mây
                             Người đàn bà trắng!
     Hay là:
 
Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu /   Anh cũng không làm chàng Trương Chi suốt đời chèo sông vắng
  Ta không đi theo Con Đường Lông Ngỗng Trắng /  Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau! /  Vết thương lòng không dễ đã lành đâu
  Những đêm sao buồn, những đêm gió khát /  Khúc thơ tình anh lại viết về em! /  Người đàn bà ngậm cả vầng trăng...
           
   Như trong lời bình của chính tác giả ở tập Rung Động Trái Tim:
-   Mối tình  của nhà thơ với NĐBT cũng chỉ là một bi kịch tình. Vết thương trái tim đôi trai gái ấy tháng năm vẫn không hàn gắn lại được,  nhưng cái "Con Đường Lông Ngỗng Trắng..." mà nàng Mỵ Châu đã rắc cho chàng Trọng Thuỷ theo, thần tượng thì rất đẹp... để cuối cùng chàng cũng nhảy xuống biển mà chết, hoá thành ngọc trai giữ tình son sắt với nàng. Nó bi ai quá! Cái hay của khúc triết lý  trong bài thơ NĐBT là nó đã được viết như đời.
      Trong tấn bi kịch tình yêu ấy: dẫu mối tình bị tan vỡ phải chia lìa năm tháng, nhưng tình thơ đã không kết thúc bằng sự bi thảm một định mệnh - Đôi trai gái vẫn phải sống và tồn tai, dù là theo chiều gió cuốn của cuộc đời!... Phải chăng đó cũng là một cuốn tiểu thuyết "cuốn theo chiều gió" như bao bi kịch Tình - Đời trên bờ bến nhân gian? Cả đoạn thơ thấm đẫm tình bật ra trong đời sống đầy mất mát và đau đớn của tình yêu.

     Hoặc như bài
Sáng Thu Vàng, có những đoạn thơ tượng trưng tả về người đàn bà  đẹp, hay tới mức điển hình:
    
Phảng phất trên đầu đôi nét phôi pha /   Đôi mắt em bóng trúc bay xoà...
  Đường phúc hậu vầng trăng đầy nở... /   Nghe không gian đổ vỡ cả mùa thu!
      Nghĩa là, đôi mắt nàng huyền diệu mơ màng như bóng trúc phủ và nàng phúc hậu dịu dàng tựa vầng trăng, đến cả mùa thu cũng phải đổ vỡ dưới chân nàng. Hay là:

                       Môi em cười, hoa lá nát đau thêm...
     Đến hoa lá còn phải nát đau dưới đôi môi của người đàn bà, thì mới biết nàng đẹp và có sức cám dỗ đến thế nào. Khi anh tả về nỗi cô quạnh vì vắng bóng người yêu:
                      Thiếu vắng em nên anh lẻ bóng
                      Lá vàng rơi thay vào chỗ em ngồi...
                                                     (Một góc hồ Tây)
    Hình ảnh chiếc lá vàng rơi đúng vào chỗ ngồi của người con gái năm xưa, nó đằm thắm mà xót xa, gợi về một mối tình đã qua. Cảnh rất đời và chứa chất để tạo thành câu thơ hay. Còn trong bài "Em về biển" thì hình tượng về tình yêu đã đạt đến điểm đỉnh của sự thánh thiện và mang tính triết học:
                      Bờ bãi đời người - Cuộc sống tình yêu
                      Trái tim nhỏ em dựng cả toà sen chân phật-tổ!
     Nghĩa là tình yêu đã đưa ta đến cõi nát- bàn. Anh đề cao tình yêu trong chốn dân gian, nơi
"bờ bãi đời người..." - xét tưởng khó có thể tìm thấy một biểu tượng tình yêu nào cao hơn thế, để rồi thơ được kết thúc trong nỗi khắc khoải của cuộc đời:
                     
  Tóc nửa bạc rồi chỉ thấy gió mưa bay...
                       Tóc nửa bạc rồi tình vẫn đó, em ơi!
     Hình ảnh đầy xúc cảm đó đưa ý nghĩa của bài thơ viên mãn đến tột điểm.
     Trong bài thơ tình
"Hàng cây lá đổ" chỉ bằng hai câu mở đầu đã ôm trọn cả một khoảng không gian, thời gian cùng với nỗi niềm ly biệt của tình yêu:
                       
Thế là hết! Em đi, chôn chiều vào gió
                        Ta lang thang qua lá đổ hàng cây....
     Hình tượng
"chôn chiều vào gió..." nó biểu thị một nỗi tình sâu lắng với bước chân lang thang của người thi sĩ dưới một bàu trời hoang vắng, cô đơn. Ngôn ngữ thi ca có thể đặt ngang những câu thơ hay trong thi đàn.
     Còn bài thơ
"Thời áo trắng", tác giả nhớ về mối tình thuở ban mai. Có lẽ đó là tình yêu của anh trong thời còn sinh viên, vào một đêm trăng nào đó cùng ngồi học bên người bạn gái:
                 
  Ôi, yêu dấu cái thời còn cắp sách /  Mắt em cười mùa thu xanh lên
                   Những buổi chúng mình tìm ánh trăng để học /  Tà áo trắng động vào... khe khẽ nát tim anh!
     Đó là những cảm giác yêu đầu tiên trong cuộc đời. Tâm trạng vừa xao xiết, bồi hồi, trái tim lại như muốn... vỡ tan!
          
  Tà áo trắng động vào... khe khẽ nát tim anh! /-  Là hình ảnh của câu thơ hay, gợi cảm... lắng sâu vào âm hưởng trong đó có thể làm tâm hồn ta run rẩy, để rồi với nỗi lòng khắc khoải, quặn xiết của tác giả muốn níu kéo lại cái thời xa vắng ấy:
                         
  Trả lại cho anh một thời áo trắng
                           Em đi rồi, mai thành phố cô đơn!
     Những âm thanh ta không nghe thấy nhưng nó lại rền xiết trong trí não ta, như bão gió tình yêu của buổi đầu  đời.  Hầu như bài thơ nào của Phạm Ngọc Thái cũng muốn đẩy tình thơ đến tột cùng.
    Ở bài
"Thành phố mưa rơi" - Thành phố mưa thì ít nhưng lòng tác giả lại mưa nhiều hơn, thậm chí còn bão nữa... khi trái tim anh nhớ đến người yêu:
                 
  Gió nhè nhẹ! Em ơi, mưa nhè nhẹ! /  Chỉ riêng lòng anh bão không thôi
                    Cứ để hồn anh trong nước lạnh /  Với màu mây hoang trôi đến xa vời...
    Trong
"chùm thơ tình mưa" anh còn có cả bài sáng tác vào một đêm... không mưa
- Nhà thơ nhớ lại một mối tình "gió mây", xúc cảm trong lần gặp gỡ cuối cùng trước khi người yêu đi... lấy chồng! Anh viết:
    
Mùa thu đã qua ta nghe lá rụng /  Buổi cuối cùng em đến để chia tay
     Ngày mai em lấy chồng phải xa vĩnh viễn /  Chẳng sao mà, trời có mưa đâu, em ơi?

      Đó là bài "Đêm nay trời lại không mưa" -  Dẫu là tình gió mây... nhưng thơ rất trong sáng và tha thiết:
         Kìa không mưa mà áo anh lại ướt /  Mùa thu đi sao nắm mãi bàn tay?
         Ai nói tình gió mây sẽ quên trong chốc lát /  Bao năm trời hồn anh vẫn mưa bay...
     Nhưng hay nhất là đoạn thơ cuối, chỉ cần đọc những câu thơ này cũng đã làm ta yêu say thơ Phạm Ngọc Thái rồi:                                                               Ta lại bước lang thang trên phố ấy /  Đến mỗi gốc cây có vệt cũ em ngồi /  Tiếng hát xưa đưa bờ hồ gió thổi           
    Bóng với mình đi mãi tới ban mai /   Cứ tưởng buổi cuối cùng em đến… đã chia tay?
    "Chùm thơ tình mưa" là một chùm thơ khá nổi tiếng của anh. Xin giới thiệu lại với bạn đọc cùng với hàng loạt các chùm thơ khác  như: Chùm thơ áo trắng, chùm thơ tình mùa thu, Thơ tình sông hồ, Thơ tình thời con gái, Thơ tình viết dưới cây, Tình yêu và đàn bà, Thơ tình trong trăng, Chùm thơ tình biển, Tình chiều hoàng hôn... Hầu như chùm nào của anh cũng có bài thơ hay xuất sắc. Bạn đọc có thể thưởng lãm một số chùm thơ đó qua link sau:
                               http://www.haiphong.net.vn/forum.php?mod=viewthread&tid=23247

     Phần lớn thơ tình của Phạm Ngọc Thái là tình chia ly và tan vỡ, tác giả nuối lại những kỷ niệm xưa. Cũng chẳng rõ với hàng trăm bài thơ tình như thế xuất phát từ bao nhiêu mối tình, với bao nhiêu thiếu nữ hoặc những người đàn bà trẻ?... Chỉ biết là bài thơ tình nào, dù là kí ức về thuở ban mai hay tình buổi hoàng hôn khi nhà thơ đã bước vào buổi hoa niên, cũng thật tha thiết và tiếc nuối. Có lẽ có thể nói thế này:
     Nếu thời tiền chiến ta đã có một Xuân Diệu, thì nay lại có một Phạm Ngọc Thái -  Anh có chân dung một nhà thơ tình lớn của dân tộc, một nhà thơ tình hiện đại sâu sắc.





   Xin trở lại với một số bài thơ tình hay của anh in trong tập "Hồ Xuân Hương tái lai" vừa mới xuất bản - Nếu ở trong bài Con Đường Phượng Đỏ là bài thơ mà tác giả nhớ về mối tình với một người sinh nữ đã xa xưa, dù chỉ là hoài niệm nhưng vẫn chứa chan tình đời:
            Con đường tình đẫm giọt sương rơi /Gió vẫn xạc xào vi vút thổi
            Giá hồi ấy chúng mình lấy nhau rồi sinh năm đẻ bảy / Thì đâu còn phượng để anh ru?
       Một nữ nhà giáo khi bình bài thơ này của anh, đã viết:
    "Bài thơ rất đáng yêu... Tôi hình dung thấy bước chân anh đang lang thang trên cái hè phố nhỏ có hàng phượng vĩ, con đường mà anh vẫn cùng người thiếu nữ năm nào dạo bước bên nhau:
       Em mang màu phượng đỏ ra đi...
       Anh tha thẩn dọc hè phố nhỏ
           Nơi kỉ niệm của mối tình sinh nữ
           Xác ve còn bám ở thân cây
      Hẳn đó là những ngày tháng tươi đẹp và hạnh phúc của đời anh. Cô sinh nữ kia chắc cũng phải xinh xắn lắm? Nghe anh mô tả, những kỷ niệm êm đềm từ thưở còn con gái, dù đã xa xôi cứ dồn về làm nghẹn trái tim tôi... " 
       Và chị kết luận: " Bài thơ giàu cảm xúc, ý tình thanh nhã, hình ảnh rất mộng mơ. Bút pháp tuy bình dị nhưng ngôn từ vẫn mang vẻ đẹp mỹ học, cùng với ý nghĩa thi phẩm mà tạo thành bài thơ hay, có thể làm rung cảm trái tim người".
    
    Bài thơ Cô Áo Trắng - tác giả còn đi sâu vào tả cả thế giới bên trong thân thể người thiếu nữ mà thơ vẫn không kém phần hoa mỹ:
  Đêm Sài Gòn khi ấy sẽ như mơ /  Em bọc trong anh không cần quần áo /
  Ôi! Nguyệt của em đây một động sâu huyền ảo /  Chứa cả thiên đường và vũ trụ bên trong
                     Em đừng hỏi vì sao anh yêu em!
     Rồi anh dùng cả thiên nhiên làm hình ảnh tượng trưng cho vẻ đẹp và đầy sức cám dỗ của nàng:
     Anh lại có một cô áo trắng /  Vào buổi hoàng hôn hoang vắng cuộc đời
     Đôi mắt nàng cả trời thu đẹp lắm /  Bàu vú nàng mùa hoa trái sinh sôi...
     Đôi mắt thiếu nữ như một trời thu còn bàu vú thì sinh sôi cả một mùa hoa trái - Cảm xúc trong thơ Phạm Ngọc Thái vẫn đời mà sinh động của thứ ngôn ngữ hình tượng mang màu sắc triết học, như có ma lực có thể làm xao động trái tim người.
          Phạm Ngọc Thái có nhiều bài thơ tình đẹp được viết ở hồ Tây. Hầu như bài nào cũng có một hương sắc riêng hoà trộn giữa cảnh sắc thiên nhiên và dấu ấn của tình yêu vào đó. Như ở bài "Một góc hồ Tây" đã nói trên, anh còn viết:
  Chiều lễnh loãng bóng đa gù bên phố / Mõ chùa buông thay tiếng nói của tình yêu /
     Trong sân gạch sư già quét lá / Bước người đi thầm lặng cõi hư hao...
   Chiều hồ Tây - Chiều Tây hồ lộng gió / Ta và Người cõi mộng khác chi nhau
 Ngưòi quên hết! Còn ta yêu tất cả / Trong tiếng lá bay chầm chậm bóng ta theo...
    Cái cảnh chiều lễnh loãng cùng với nỗi lòng chơi vơi, hiu hắt của con người đang bước vào tuổi hoa niên quạnh vắng, bên cây đa gù cùng với bóng nhà sư đang quét lá ở sân chùa... làm cho bài thơ tình chiều phố đầy mùi kinh kệ. Đúng như câu thơ anh đã viết: Mõ chùa buông thay tiếng nói của tình yêu /- Cũng như chính tâm hồn hư hao của tác giả trong những tiếng lá rơi chầm chậm, buồn buồn...
     Bởi vì anh cùng với gia đình sống ở ngay bên hồ Tây đó, cho nên những sớm hồ lung linh ánh nước và những chiều sóng vỗ... đã gắn bó trái tim nhà thơ với những kỷ niệm yêu thương trong cuộc đời. Một bài khác anh viết:
  Anh ở hồ Tây mênh mông sóng vỗ / Vẫn thấy bóng em trong màu hoa thương nhớ
  Ôi, màu hoa son sắt trái tim em /  Cái màu tím buồn của những cuộc ly tan!
                                                      (Anh vẫn yêu màu hoa tím buồn)
    Nhưng bài mà tôi muốn nói nhiều hơn ở đây là bài Anh Vẫn Ở Bên Hồ Tây, một bài thơ tình hay của tập "Hồ Xuân Hương tái lai",  tuy hình ảnh thơ rất chân thực nhưng vẫn cô đúc, dường như trên mỗi dòng thơ đều có máu tim của nhà thơ đang rỏ xuống:                           
    Thế đó, em ơi! Tình qua không trở lại /  Xế chiều rồi mà máu tim chảy mãi không thôi
    Em có nghe gió Tây Hồ đang thổi /  Anh ở đây, vẫn bên hồ Tây mây trôi...
     Bài thơ chỉ có 16 câu với 4 khổ thơ, được viết vào lúc cuộc đời tác giả đã về chiều. Cũng là mối tình nhớ lại với một người sinh nữ.  Có lẽ lúc đó vết thương tình đã làm cho lòng anh đau nhói, anh viết:
              Ta cũng già rồi, em ơi! Vết thương còn đau buốt /  Hạnh phúc qua như một cánh chim bay
  Nông nỗi đời người để đâu cho hết / Tình thơ ngây... tình sao mãi thơ ngây...
     Và anh đứng bên bờ hồ Tây gió thổi, mây bay... bồi hồi nghe tiếng của lòng mình đang trỗi dậy thưở còn tình yêu tuổi trẻ. Hình tượng thơ khắc họa trong câu cuối cùng: Anh ở đây, vẫn bên hồ Tây mây trôi.../- Những làn mây trôi kia không chỉ là cảnh vật thiên nhiên mà nó còn  biểu thị cho cả khoảng thời gian đang qua và không gian hoang vắng - Đó chính là thứ ngôn ngữ thi ca rất hàm súc và giàu tính biểu tượng của Phạm Ngọc Thái. Hoặc như câu: Hạnh phúc qua như một cánh chim bay / -  Nói lên niềm vui ngắn ngủi, thoảng chốc đã không còn. Khi tả về hình bóng người con gái đã xa xưa nay chỉ còn trong ký ức, anh viết:
                   Người con gái anh yêu nay hoá khói sương tan
     Để biểu thị cho sự chìm lấp của thời gian đã trôi vào quá khứ.
       Trong những bài thơ tình hay, có một bài viết về người vợ trẻ vào những ngày tháng anh xa quê sống ở nước ngoài làm kinh tế. Đó là bài: Tiếng Hát Đời Thường - Cũng chính là bài thơ về quê hương.  Hình tượng mà người ra đi ở phương trời xa lòng thổn thức nhớ chốn quê. Bài thơ được viết như một truyền thuyết:                                                                                                                                                                                                         Trong một phố nghèo có người vợ trẻ/ Vẫn đón con đi, về...như thường lệ                            
  Vóc em thanh cũng thể mùa xuân /  Đôi mắt em, đôi mắt ấy màu đen   
      Những hình ảnh được gợi lên thân thuộc nhưng vẫn mang tính điển hình, khái quát mà thơ vẫn nhuần nhụy dễ thương. Thí dụ như khi anh tả về gia đình:           Ngôi nhà nhỏ bên đền /  Gốc đa, quán báo/   Nơi ngày xưa ai bán chiếu gon (*) Đêm hồ nước trăng soi /  Chiều lá me, lá sấu /  Cung thành xưa dấu đại bác còn... (*)                
        (*) Hình ảnh gợi lại câu chuyện của bà Thị Lộ thời con gái đi bán chiếu gon ở hồ Tây đã gặp ông Nguyễn Trãi... và những vần thơ đối đáp giữa hai người còn truyền tụng đến ngày nay. Hay là hình ảnh cả cung thành Thăng Long Cửa Bắc của cố đô xưa vẫn còn in dấu đạn đại bác từ thời giặc Pháp bắn vào, thành Thăng Long thất thủ, quan Tổng đốc Hoàng Diệu phải thắt cổ để tuẫn tiết.                           
       Một bức tranh quê, tiết tấu thơ đầy chất trữ tình đem theo những hình ảnh cuộc sống thường ngày xúc động trong kí ức nhà thơ :
                
Ôi quê hương! /  Cái phố nhỏ cứ mưa là lầy lội /  Cháu gái nhà bên tuổi không đoán nổi
                Chưa tối đã khêu đèn bê mẹt thuốc rao đêm /  Ngày hai bữa, bữa nào cũng vội.
     Chính ở nơi ấy, có người vợ trẻ và con anh đang chờ anh trở về. Bài thơ được kết thúc với tiếng lòng thao thiết trong chốn dân giã ở cố hương. Cái
"tiếng hát đời thường" của nhà thơ được cất lên là hình ảnh cuộc đời, hiện thực và chắt lọc:
         
Con sẻ hót mênh mông đồng nước /  Người hát rong hát vui sân ga 
                   Tiếng Hát Đời Thường thường lẫn vào bụi cát
                   Anh hát cho đời...
                   Anh hát em nghe...
     Nó như khúc dạo của người hát rong trên sân ga, tiếng rao của em bé bán báo. Nhà thơ ví như tiếng của con sẻ mênh mông trên đồng nước... để rồi lẫn vào trong cát bụi cuộc đời. Bài thơ hay, cảm xúc chân thực. Có thể nói, máu và nước mắt của nhà thơ đã rơi lên trang giấy khi viết bài thơ này. Anh tả về hình ảnh người vợ ở quê:
                   
  Ai biết chiều nay người vợ trẻ
                     Đứng mong chồng bên đứa con thơ
                     Giọt lệ cháy xót lòng mang sắc xanh thu...
     Để rồi tác giả tự nhắn nhủ với lòng mình và nói với đời, thơ như khúc hát đồng dao:
                   
  Tuyết bạc quê người... xứ sở mưa cau...
                     Đi đâu, đến đâu: Nhớ về phố ấy!
  
      Phạm Ngọc Thái đã để lại cho đời một tình thơ quê hương súc tích.
         Tôi định viết thêm một mảng thơ đời của anh, như thế thì bài viết sẽ dài. Hơn nữa, ở đây tôi tập trung nêu lên vấn đề
"Phạm Ngọc Thái có chân dung một nhà thơ tình lớn của dân tộc", cho nên chỉ xin bình thêm một bài thơ nữa của anh, đó là bài Em Bán Xoài - Một bài thơ nói là thơ tình cũng được mà thơ đời cũng được, tác giả viết đầy xúc cảm riêng tư song lại rất sâu sắc trong cõi trần ai, trước thân phận nổi trôi của các cô gái bán xoài mà anh đã gặp bên bờ biển Nha Trang. Những cô gái bán xoài ấy, đó là những kiếp đời cát bụi phải bán cả linh hồn lẫn thần xác mình để sống:                        
  Em bán xoài đi đêm trên cát vắng /  Bãi biển chập chờn kiếp đời các cô gái lang thang
     Dưới hàng dừa se sẽ gió ru êm / Dãy cột đèn đứng đêm côi lạnh...                               
      Những đoạn thơ diễn tả vừa đan xen thân phận bọt bèo vừa bao quát cả tính nhân tình thế thái. Ta hãy đọc một đoạn anh viết về em bán xoài đó:
 
Xoài em chín, đêm tàn canh em đón khách / Giọt thơ buồn như ngọc sương rơi
 Em bán xoài thơm!... Em bán xoài thơm!.../ Biển to lớn - Bóng em nhỏ thẫm
Linh hồn treo ngoài thế giới em đi /  Trên những cành dừa hay trong đám mây qua?
             Cái thế giới đó chính là chốn nhân quần, xã hội mà các cô gái đang đi, đang sống ở đó. Sao nó thật hãi hùng? Linh hồn của các cô thì vất vưởng ở ngoài thế giới con người, có thể nó vương trên những cành dừa quê hương hay vơ vất trong một đám mây nào đó - Những hình tượng thơ khắc hoạ để nói về nỗi kiếp bọt bèo. Đó cũng chính là những hình tượng cho thân phận thấp hèn chốn dân gian. Hoặc một đoạn khác:
 Thế giới em đi "vòng thiên la địa võng" / Tóc còn xanh em bán kiếp đời trôi         
Xoài em thơm, hương toả mát thân người/Ai mua xoài? Còn ai có mua em? 
          Có thể nói
"Em bán xoài" là một bài thơ tình khá điển hình về kiếp đời lang thang. Nó vừa trộn hoà tình yêu đồng loại của tác giả trong chốn nhân quần, vừa là cảm xúc của nhà thơ trước một cô gái bán xoài nào đó mà anh gặp gỡ. Thơ vừa thân yêu mà xa xót,  từ những hình ảnh hiện thực chuyển sang màu sắc tượng trưng và triết lý, thậm chí có chỗ ngả sang cả thơ siêu thực... như ở đoạn kết anh viết về thân phận của những người con gái đó:                                              Các cô gái đi đêm như các cột đèn                              
                             Bóng nuốt lẫn vào bờ cát ấy...
        Nghĩa là sự tồn tại của các cô gái bán xoài ấy cũng chỉ vật vờ như cát bụi. Đó là những thân phận lạc loài, linh hồn gần như là không có nơi bám víu, sống hôm nay không biết đến ngày mai. Sau đó tác giả trở về với lời ru của anh cùng hàng dừa quê hương quanh các cô gái bán xoài:                                                               
  Biển ru ta và ta ru em                    
                             Dưới hàng dừa xứ sở gió ngàn năm...
      
     Cảm xúc thơ được hoà trong mối giao cảm giữa đất trời và cuộc sống con người, khúc triết mà tạo thành bài thơ hay.
     Chỉ với thơ tình, rồi mai sau Phạm Ngọc Thái cũng phải có cả trăm bài đứng trường cửu được với đời, trong đó có tới vài chục tình thi của anh đạt vào những cung bậc của các tầm thơ hay vô giá. Phạm Ngọc Thái thực sự là một hiện tượng thơ ca hiếm có ở đương đại này.                                                               
         Tôi xin dừng bài bình luận của mình ở đây. Mong rằng với thời gian, chân dung và tầm vóc thi ca của anh sẽ được đời đánh giá đầy đủ hơn.                                               
                           Quí vị có thể thưởng thức 298 tình thơ với thi phẩm dày 400 trang sách của tác giả -                                                                                               Qua tập "Hồ Xuân Hương tái lai", Nxb Văn hoá Thông tin 2012 - theo link dưới đây:
Nguyễn Đình Chúc
Thăng Long, mùa đông năm Nhâm Thìn 2012.
ĐC: Ngõ 44 phố Hào Nam, Hà Nội.
        

THẾ GIỚI THƠ CA: 
PHẠM NGỌC THÁI  
 
                                                                                 Nguyễn Đình Chúc

    Tôi biết Phạm Ngọc Thái (PNT) từ thưở còn chiến tranh, cùng là anh lính chiến ăn rừng ngủ rú qua ba mặt trận Việt-Miên-Lào. Suốt chặng đường chinh chiến ấy Thái ham viết nhật ký và làm thơ! Nhiều đêm nằm với nhau bên võng giữa rừng, Thái vẫn thường hay đọc thơ cho chúng tôi nghe. Được biết những cuốn nhật ký đó đã bị mất trong chiến tranh, tác giả chỉ còn nhớ lại ít bài tản mạn, cũng là một điều đáng tiếc.


     Xem hìnhBọn lính Hà Nội cùng trong tiểu đoàn chúng tôi ra đi hồi đó, hết chiến tranh rồi kiểm lại cũng chỉ còn mươi đứa sống sót trở về. Chẳng ai có thể ngờ rằng cái anh chàng lính trận rất ham thích thơ thưở đó, nay đã trở thành một nhà thơ có tên tuổi trong làng ngoài nước. Thái cũng đã cho xuất bản 3 tập thơ, hay nhất là tập "Rung động trái tim" - Nxb Thanh niên 2009 rất có tầm vóc của anh.
    Tôi kể một chút kỷ niệm xưa cũng chỉ là bộc bạch đôi nét trước khi giới thiệu thơ anh! Phần nữa, qua những tập thơ đã xuất bản và nhiều chùm thơ anh cho quảng bá trên mạng - không khỏi ngỡ ngàng: tâm lý, tình cảm của PNT hôm nay đã khác với năm xưa ấy nhiều quá? Nếu đọc ở mảng thơ tình ta nhận thấy một tâm hồn tha thiết yêu nhưng hoang dã, mà phần nhiều đều là những mối tình dang dở hoặc tan vỡ, tác giả nuối lại những kỷ niệm đã xa xưa.
              Thí dụ như bài ĐÊM NAY TRỜI LẠI KHÔNG MƯA anh viết:
                            Ta lại bước lang thang trên phố vắng
                            Đến mỗi gốc cây có vệt cũ em ngồi
                            Tiếng hát xưa đưa bờ hồ gió thổi
                            Bóng với mình đi mãi tới ban mai...
                            Cứ tưởng buổi cuối cùng em đến... đã chia tay?
       Còn ở bài NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG:
                             Vết thương lòng không dễ đã lành đâu /  Những đêm sao buồn, những đêm gió khát
                             Khúc thơ tình anh lại viết về em /  Người đàn bà ngậm cả vầng trăng.
     Mảng thơ tình này tôi sẽ nói kỹ hơn ở phần sau. Trong số bài thơ khác ta lại thấy một cái bóng bảng lảng, quanh quất cõi thiền của một con người cập kề tuổi hoa niên. Có lẽ không phải chỉ là vấn đề tuổi tác, còn do khách quan cuộc sống và tâm trạng bởi thời thế đã làm thay đổi những suy nghĩ, tình cảm và tâm hồn tác giả. Như trong tựa đề của tập thơ Người Đàn Bà Trắng anh viết:
                             Tiếng chuông chùa bốn phía âm vang /  Mình lễ cả ba thiên toà phật
                             Người có vận! Thôi đừng oán trách /  Chuyện thơ văn vừa thực, vừa chơi...
     Một quan niệm rất thiền. Còn tựa đề cho tập Rung Động Trái Tim thì tâm tư của nhà thơ lại hoà trộn trong cát bụi cuộc đời:
               Con sẻ hót mênh mông đồng nước /  Người hát rong hát vui sân ga 
               Tiếng Hát Đời Thường thường lẫn vào bụi cát / Anh hát cho đời... /  Anh hát em nghe...
     Để có thể nhận thức được một phần nào đó về thế giới thơ Phạm Ngọc Thái, tôi tạm chia ra làm mấy tiêu đề lớn cho tiện phân tích.

                              A/- SỰ KHÁI QUÁT HÀM SÚC TRONG THƠ
          Tính hàm súc có thể nói bao trùm trong thơ PNT, kể cả những bài thơ viết dưới dạng triết lý đến nhiều bài chảy theo dòng cảm xúc tự nhiên. Xin bắt đầu từ bài CỬA QUÁN:
                               Bà chủ quán /  Bước lên xe mô-đéc /  Đeo kính gọng vàng
                               Mấy cô gái /  Ngồi ở lan can /  Mặc toàn váy ngắn
                               Mùa thu rơi /  Sau kính...
                               Anh thi sĩ/  Hoá thằng gù /  Nhà thờ - Đức Bà - Pa Ri!
                                                                ( Tập "Người đàn bà trắng" )
     Nó khái quát tới mức độ: Bài thơ được tạo thành từ 4 tứ thơ, mỗi tứ chỉ là một bức ảnh.
-   Bức ảnh thứ nhất chụp về sự giàu có sang trọng.
-   Bức thứ hai chụp về sự trẻ trung hoa mỹ, gợi cảm của các cô gái (mô típ rất thời đại), qua đó để nói lên sự quyến rũ, đam mê trong khát vọng con người.
-   Bức thứ ba chụp về thiên nhiên trinh bạch và êm ả: Con người còn hướng đến sự thanh tao, khoáng đạt của đất trời.
-   Để rồi tác giả rút ra triết lý, kết tất cả vào trong bức ảnh thứ tư: Đó là tấm chân dung thảm hại của thằng gù Nhà thờ Đức Bà, Pa Ri... trong tiểu thuyết của văn hào vĩ đại V.Huy Gô. Dựng lên cả tấn bi kịch cuộc đời - Rằng, nếu nghèo khốn quá thì đến chân dung một con người cũng chỉ như một con vật!
     Bốn bức ảnh ấy tự biến hoá, tác động lẫn nhau để lột tả chủ đề tư tưởng trong tác phẩm của anh.

     Tôi phân tích một bài thơ khác của tập Rung Động Trái Tim là bài  NỖI TRĂN TRỞ NGƯỜI ĐI TÌM VÀNG - Bài thơ vẽ cho chúng ta một bức tranh về những con người đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài:
                 Tôi sống âm thầm trong một đoàn người hỗn hợp /  Rời quê qua bên kia biển sóng /  Kẻ tìm vàng, người vì cảnh nghèo đi...
     Nó cũng giống như một đoàn quân ô hợp tha phương kiếm sống, nhiều mặt bị tha hoá... không khác gì lớp người ở dưới đáy xã hội:
                Đạo lý có hoá thừa đành giả dại làm ngơ /  Đứa mách qué lại vân vi dễ sống...
     Gia đình ở trong nước thường vui mừng khi nhận được tiền của mà người thân của họ từ nước ngoài gửi về, nhưng không thấy được những nỗi đời ê chề, thậm chí tới mức khốn nạn mà những người thân của họ đã gánh chịu. Ta hãy nghe xem tác giả đã nói về cái giá mà những con người tha phương đó phải chịu đựng thế nào?
                         Ai mang bán vàng mười giữa phiên chợ đông (*)
                        Tôi tìm chắt những bụi vàng như anh lính lê-dương lọc sàng từng đống rác (**)
                         Dầu kẻ bán - Người tìm vàng có khác /  Nhưng giá vàng tính cũng như nhau.
     Câu 1 (*) - Tác giả sử dụng ý câu thơ của Nguyễn Duy: "Còn chút vàng mười mang ra bán nốt" - nghĩa của hai chữ "vàng mười" đó ý nói là thứ "vàng của lương tâm". Trong mâu thuẫn hiện thực cuộc sống, nếu nghèo khổ quá thì có khi đến cả tâm hồn cũng phải mang ra mà bán cho quỉ sứ! Huống chi còn cả gia đình và những người thân trong nước đang chờ họ. Nền tảng xã hội xuống cấp thì cá nhân làm sao có thể giữ trong sạch được?
     Câu sau (**) - Tác giả phỏng theo tích truyện "Bông hồng vàng" của nhà văn Nga Pau-Tốp-xki: Có người lính lê-dương làm cận vệ cho một viên tướng Pháp. Trong chuyến sang chiến trường Đông Dương, viên tướng ấy đã mang theo một cô con gái nhỏ. Trước khi bị tử trận, viên tướng còn kịp dặn lại người lính cận vệ của mình: Hãy mang cô con gái của ông ta về trao lại cho mẹ nó ở Pa Ri! Trên đường về Pháp, cô bé ngây thơ cứ ao ước có một bông hồng bằng vàng ? "Bông hồng vàng" chính là biểu tượng cho hạnh phúc của bé gái!
     Những năm sau đó, cuộc sống xô đẩy anh lính lê-dương trở thành một người quét rác nghèo hèn, sống trong một túp lều xiêu vẹo dưới gầm cầu của ngoại ô Pa Ri. Tuy vậy, trong tâm trí của người lính ấy vẫn mong muốn sẽ thực hiện được ước mơ của cô bé. Ngày ngày khi quét qua các cửa hiệu kim hoàn, người quét rác lại chắt lọc lấy những nắm bụi vàng mang về nơi mình ở. Năm này qua năm khác, dần dà anh ta cũng tích được một ít vàng, đủ để nhờ người thợ kim hoàn làm cho cô bé một bông hồng vàng nhỏ. Khi đó cô bé ấy đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp ở Pa Ri!
     Trớ trêu, bông hồng vàng chưa kịp gửi đi cho bé gái thì người quét rác đã chết trong đói nghèo và khổ cực. Xác anh ta nằm trên một manh chiếu mục, đầu vẫn gối lên bông hồng vàng... sau đó đã bị người thợ kim hoàn đến lấy đi mất. Vậy là, loại "vàng mười" (vàng lương tâm) mà nhà thơ Nguyễn Duy đã phải đem ra chợ bán, với "vàng" mà người quét rác kia lăn lộn kiếm từ trong rác bẩn cuộc đời - nó cũng giống như cái thứ vàng mà những người lao động đi kiếm khi họ ra nước ngoài làm thuê:
                                  Dầu kẻ bán - Người tìm vàng có khác /  Nhưng giá vàng tính cũng như nhau...
     Khi mang ra thị trường thì vàng nào cùng loại mà giá chẳng như nhau?  Nếu đặt trên bàn giá của lương tâm ta cũng không thể chê trách những con người lao động ấy, bởi những tình cảm đó xuất phát từ lương tri của lương tri, như tác giả thổ lộ:
                                  Hạt muối xót tháng năm và lòng ai đắng? / Tôi nhận chìm tôi vào những lãng quên!
     Ý thơ thật xót xa. Kịch tính bao nhiêu khi chính những con người đó còn phải sống với nhau như giữa chốn chợ giời:
                                  Giả dại ở đời thường mà khôn lại trong mơ
     Bài thơ đã được khai thác cả bề diện lẫn bề sâu, nó hay lên vì "cái tôi" chảy trong máu tim tác giả hoà quyện với hiện thực của cộng đồng. Chỉ hơn 20 câu thơ tác giả đã phục lại không khác gì một pho tiểu thuyết, một bi kịch xã hội và con người.
     Thơ PNT giàu triết lý, đặc điểm của tính triết lý ấy là được vận từ đời sống vào thơ như được chắt từ trong óc, nên cảm xúc vẫn mạnh mà không bị gò ép. Thí dụ: 
Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu /  Anh cũng không làm chàng Trương Chi suốt đời chèo sông vắng
Ta không đi theo con-đường-lông-ngỗng-trắng /  Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau!
                                                                                   (Người đàn bà trắng)
Bờ bãi đời người "Cuộc sống - Tình yêu" /  Trái tim nhỏ em dựng cả Toà sen chân phật tổ!
Ta cũng thể loài cua còng nơi bể cả /  Yêu thương nhiều hưởng đã bao nhiêu?
                                                              (Em về biển) 
Cuộc cờ ấy theo thời như hội /  Vàng đỏ trắng đen... thay sắc luân hồi
Từ anh nhà thơ tới đứa ăn mày /  Mấy ai tránh nổi trò sấp ngửa.
                                                                    (Viết sau đám xe tang) 
Thế đó, em ơi! Tình qua không trở lại /  Xế chiều rồi mà máu tim chảy mãi không thôi
Em có nghe gió hồ Tây đang thổi /  Anh ở đây vẫn bên hồ Tây mây trôi...
                                                          (Anh vẫn ở bên hồ Tây)
 
                            B/-   PHẨM CHẤT VÀ TÍNH CÁCH NHÂN VĂN TÁC PHẨM
     Lưu ý một chút ta sẽ thấy nổi lên một đặc điểm rất rõ: Hầu như bài thơ nào của Thái cũng có thiên nhiên. Khi thì nó được viết dưới các hàng cây, lúc ở bên hồ, trong các quán xá của một chiều hoàng hôn hoặc dưới đêm trăng. Nhờ vào cảnh thiên nhiên bỗng một ký ức xa xăm nào đó vụt tới tạo thành cảm xúc thơ. Thiên nhiên không chỉ là chỗ dựa cho những tình cảm vui, buồn trong đời thường tác giả, nó còn là yếu tố quan trọng nuôi sống thơ anh. Như tác giả đã thổ lộ:
                                  Mai ta chết, các bạn bè thân hữu / Bọc thiên nhiên mà đọc điếu văn
                                  Đại bàng vỗ cánh rợp trời mưa gió /  Trong không gian vào mãi xứ vô biên...
                                                                                  (Viết dưới chân đài hoàn vũ)
     Thơ anh đều bắt nguồn từ đời thường. Cái đời thường ấy được khái quát bằng một sự trải nghiệm tương đối sâu sắc: Con người với xã hội, cá nhân và thế giới. Nó mang tính đời sống triết học, tính vũ trụ (tồn tại và cát bụi), đời vừa thực lại vừa hư. Tuỳ theo cảnh tình nhào luyện thành vóc thơ ca, ẩn chứa một thế giới bên trong rất thấm thía.
     Tôi xin nói thêm đôi nét về đời tư tác giả để bạn đọc dễ cảm nhận khi đọc thơ anh! PNT sinh ra và lớn lên trong thời chiến. Từ thưở còn trẻ anh đã phải rời bỏ đời sinh viên đại học, từ giã Hà Nội để tiếp nhận cuộc sống người lính ngoài chiến trường. Trong những năm tháng chiến tranh ấy, chúng tôi đã có một số năm sống với nhau trong cùng đơn vị. Sau này mỗi đứa phiêu bạt một nơi, cho tới tận ngày kết thúc chiến tranh trở về Hà Nội mới lại gặp nhau. Có lẽ vì tâm lý cũng đã mệt mỏi đường binh nghiệp nên khi trở lại thành phố quê hương anh đã xin rời khỏi quân ngũ, tiếp tục theo học đại học ngoại thương, để sau này trở thành một cán bộ của ngành ngoại thương quốc tế.
     Tâm lý diễn biến của cuộc đời tác giả trong những năm hoà bình trở lại đây cũng khá phức tạp. Khi anh trở về thì nhà tan cửa nát, do bị bom B52 giặc Mỹ đánh vào phố Khâm Thiên Hà Nội năm 1972, khi ấy gia đình anh sống ở đó. Rồi năm tháng lại thêm sự chán nản bởi thời thế, Thái sống chẳng khác gì một người đi ở ẩn, chỉ vui thú với gia đình, bạn bè, sớm hôm bàu bạn văn chương. Tâm lý ấy đã được bộc lộ trong nhiều bài:
                                    Ta đã sống phần đời sau chót /  Trong ngôi nhà ẩn khuất bóng nhân gian
                                    Một cuộc sống bình thường bàu bạn /  Nửa trăng hồ nửa gã hiền nhân.
                                                                         (Trên nấm mồ truyền thuyết)
     Có lúc tác giả rơi vào một trạng thái cô đơn đến gai lạnh:
                     Hãy vứt ta lên chiếc giường phủ những nệm chăn màn... làm từ những tế bào đói khát
                     Ta không đói khát tình em /  Mà đói khát con người!
      Hay là:
                     Một thứ ma người quen hút khí đêm thay cho sữa mẹ
                     Chơi với hoa, với cá, với chim
                                                                            (Cô đơn)
     Nhiều khi chỉ bàu bạn với trăng sao:
                    Ta! Anh thi sĩ của nhân gian /  Tạc thù với cả khối sao trăng
                    Hồn hoa nâng cốc xin dốc cạn / Dẫu chỉ mình thôi vẫn mê man...
                                                                  (Tối quán)
     "Cõi thiền" cũng là một trong những phẩm chất nhân văn rất căn bản của thơ PNT. Trong mảng thơ đời của anh, tính hiện thực xã hội, thời đại, có khi lại hàm chứa cả những quan niệm vũ trụ đầy bí ẩn. Tôi xin phân tích cụ thể vào một số bài thơ.

      1/.  EM BÁN XOÀI -   Hình ảnh nhân vật trong thơ đã được tác giả nghén thai từ những ngày sau chiến tranh, khi anh vẫn còn là một sĩ quan trên con đường binh nghiệp. Trong một buổi chiều tối lang thang trên bãi biển của thành phố Nha Trang, tác giả đã gặp một cô gái, nhiều cô gái bán xoài - để rồi mãi sau này khi nỗi lòng có nhiều trắc ẩn, kỷ niệm bao năm tháng qua lại trở về và bài thơ đã ra đời:
                                     Em bán xoài đi đêm trên cát trắng /  Bãi biển chập chờn kiếp đời các cô gái lang thang
      Đó là những thân phận nổi trôi sau một cuộc chiến tranh, những kiếp đời cát bụi. Nó nhỏ bé, côi cút trong một biển sống đầy sóng dữ chỉ muốn nuốt chửng lấy nó. Những người con gái thân phận lạc loài, linh hồn gần như không có nơi bám víu:
                  Biển to lớn - Bóng em nhỏ thẫm /  Linh hồn treo ngoài thế giới em đi /  Trên những cành dừa hay trong đám mây qua?
     Cái thế giới ấy giống như:...vòng thiên la địa võng /-  Mặc dù sự tồn tại của thế giới đó phải nhờ vào vị thơm của trái xoài và hương mát của những người con gái kia! Thế mà:
                     Ai mua xoài? Còn ai có mua em?
     Hay là: 
                     Tóc còn xanh em bán kiếp đời trôi...
     Hồn thơ nhập vào những thân phận bọt bèo để rồi cùng vô vi trong cát bụi cuộc đời. Như thế là cái thế giới với những đảo điên trong thế thái giống như cái túi càn khôn bủa vây, vùi lấp đám dân lành tội nghiệp. Bài thơ được kết thúc trong lời ru, sự cảm đồng của lòng tác giả cùng với quê hương quanh những cô gái bán xoài:
                                       Biển ru ta và ta ru em
                                       Dưới hàng dừa xứ sở gió ngàn năm

     2/.   CÔ QUÉT LÁ ĐÊM HỒ -   Một bài thơ cũng rất giàu tính dân dã:
                             Một đêm hồ nước đầy sương gió /  Người đi không rõ mặt người
                             Liễu ru nhè nhẹ quanh bờ vắng /  Em thầm thì quét lá, bên tôi!
     Vào cái đêm trời đất đầy sương gió tác giả đã gặp cô quét lá, chính là người quét rác trong phố khuya. Đọc đến câu thứ 2 ta thấy hiện thực xã hội đã hiện ra: Không phải chỉ trời sương gió, mà đó là những con người của đời sương gió. Lớp người đông đảo nhất xã hội, nhưng bước đi:...không rõ mặt người/- Những con người lao động nghèo khổ "sống không còn nhân ảnh", chẳng qua cũng chỉ là những lớp đời phù du, thân phận giống như chiếc chổi tre năm tháng quét lê trên đường để... mòn vẹt dần đi:
                                       Em quét lá lẫn đời lẫn kiếp /  Tiếng chổi mòn kêu xiết vào tim!
     Cảnh đời và tác giả cứ hiu hắt ru quanh cô quét lá đưa ta vào khoảng không gian vừa mơ hồ, êm ả, nửa thực, nửa không, như có những giọt lệ từ trong trái tim nhà thơ rơi ra:
                    Em hoá thành thơ rơi lặng lẽ /   Trong cõi lòng tôi buồn triền miên...
     Tôi đi sâu để phân tích hai câu thơ hay nhất bài:
                                        Trăng như đứa không nhà trôi lạc lõng
                                        Con nai vàng chết bóng thu xưa...
     Tác giả có kể về xuất xứ của 2 câu thơ này: Nhìn lên vòm trời đêm ấy xung quanh là tiếng lá cây reo, anh có cảm giác... không phải cô quét lá cô đơn mà chính là nhà thơ cô đơn! Nó cũng như cái bóng trăng đang lạc lõng, hiu hắt trên trời kia? Thế là bóng trăng đã được nhân cách hoá vào thân phận con người đang bơ vơ không nhà, không cửa. Còn hình ảnh đêm mùa thu cô quạnh, mơ mộng và man mác buồn... gợi lên trong tâm trí tác giả về hình tượng "con nai vàng" trong bài thơ Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư! Một sự liên tưởng nấy sinh trong đầu óc anh: Chỉ có thi nhân "mộng và sầu" mới có thể thấy được bóng:
                                       Con nai vàng ngơ ngác
                                       đạp trên lá vàng khô
     Còn những con người lao động nghèo khổ kia đang phải vật vã từng ngày để kiếm miếng cơm manh áo, thì làm gì còn tâm trí mà....mơ đến bóng nai vàng? Thế là nẩy ra cảnh ngược thơ: Con nai vàng phải chết! Nên mới có câu:
                                      Con nai vàng chết bóng thu xưa...
      Vậy là hình ảnh "con nai vàng ngơ ngác" của cố thi nhân Lưu Trọng Lư thì bọc chứa cả thế giới trong thơ, còn hình ảnh "con nai vàng chết"...ở bài thơ "Cô quét lá đêm hồ" của PNT  lại để phản ảnh ý nghĩa cuộc sống và xã hội nằm bên ngoài câu thơ. Hai câu thơ trên như gói cả thân phận cùng nỗi lòng của nhà thơ và cô quét lá vào trong đó!

     3/.   ĐÊM KHÔNG NGỦ -     Là một bài thơ tác giả trăn trở về nhân tình thế sự! Đó là vào một đêm mùa đông:
                                       Thành phố của những ổ chim / Âm ỉ hót phù du...
     Có một con chim (con chim đó đã phải đeo kính trắng), cứ tối tối ra đường:
                                       Nhặt những hạt sấu, cánh hoa lơ đãng /  Bước đi như không có chuyện gì?
    Nhưng " không có chuyện gì" ? nghĩa là có chuyện! Vậy tại sao nó lại "lơ đãng"? Nghĩa là chuyện ấy nhàm rồi, chán rồi, không còn đáng lưu tâm hay nó không muốn lưu tâm đến nữa. Hình ảnh những "ổ chim" ở đây, tác giả lấy làm biểu tượng để nói về chốn dân tình. Thông qua tiếng của loài chim ấy để nói lên tâm tư tình cảm nhân gian về xã hội và thế thái này.
                                      Đêm không ngủ không buồn
     Cái điệp khúc tác giả nhắc đi nhắc lại để mở đầu cho mỗi tứ thơ: nó bộc lộ một tâm trạng còn u uẩn, khuất khúc? Vừa như lãnh đạm bàng quan với xung quanh, nhưng lại... không ngủ được! Giai đoạn mà anh viết bài thơ này là... đúng vào cái đêm "bức tường Berlin bị đạp đổ", Đông Đức mất vào tay Tây Đức, kéo theo là sự sụp đổ của nước Nga Xô viết cùng hàng loạt các nước XHCN ở Đông Âu.
     Đứng trước một sự kiện lớn lao đến như thế, sự sụp đổ của cả một hệ thống CNXH cũng có nghĩa là sự tan vỡ của chủ nghĩa Marx làm chao đảo cả một thời đại - Ấy vậy mà hình ảnh của cả một thành phố (như tác giả tả trong thơ) vẫn chìm trong một không khí lạnh lẽo, như không ai thèm đếm xỉa đến sự tan vỡ ấy:
                                        Thành phố không mưa / Cũng không nghe ai khóc!
     Bởi vì cái thế thời ấy đã... thoái hoá, làm cho người ta chán quá rồi! Nó có sụp đổ đi cũng là đúng thôi, chẳng ai hoài công mà thương tiếc nó làm gì nữa. Đây chính là thái độ nhân sinh và thế giới quan của nhà thơ! Nên "con chim đã phải đeo kính trắng" kia mới:
                                         Bước đi như không có chuyện gì...
   Cuối cùng tác giả dồn toàn bộ ý tưởng vào trong mấy câu thơ sấm sét để kết bài:
                          Đêm không ngủ! Phải, đêm nay mình không ngủ! /  Đúng vào đêm sụp đổ giữa cộng đồng
                          Chủ nghĩa Marx hết thời. CNXH cũng suy vong...
     Tác giả bỏ lửng ở đấy để cho đời tự ngẫm mà phán xét? Thi phẩm đã bộc lộ một tình yêu quê hương tha thiết của nhà thơ.

    4/.  TRỞ VỀ -  Bài thơ đã được viết ở nước ngoài cũng trong giai đoạn phe XHCN bị sụp đổ đó, vào những ngày anh chuẩn bị trở về quê hương:
                                          Đôi cánh chim trời quạt gió mây /  Ta về non nước nước non đây
      Hay là:
                                          Ta về bàu bạn cùng mưa nắng /  Lưu lạc người ơi gió cuốn thôi...
      Trên bàn cân thế giới khi ấy dấu ấn về thành trì CNXH bị nghiêng ngả đã được tác giả ghi nhận trong bài thơ:
                                          Đông Âu bão giật xiêu thành Marx
     Và tình hình rối ren của nhân tình thế thái:
                                          Bốn bể chân trời lạc khói sương...
     Thành thử chỉ từ một bài thơ có tính chất ngẫu hứng tự sự bản thân đã mang ý nghĩa về một phạm trù của lịch sử thời đại. Bối cảnh quê nhà khi tác giả ra đi:
                                          Ở chốn quê nhà bụi cát bay /  Hoà bình mà tan mộng trăng say
     Nhưng vì tình yêu da diết với quê hương anh vẫn kiên quyết trở về, trong khi rất nhiều bạn hữu của anh tìm cách ở lại nước ngoài làm kinh tế. Theo lời tác giả nói: Anh kiên quyết trở về quê hương còn vì sự nghiệp văn chương, đã được anh ghi nhận trong câu kết bài:
                                          Ta về trọn cuộc đất cố hương /  Với mộng ngàn thu gửi nhân gian...
     Có lẽ vậy cho nên việc PNT có trở thành một thi nhân với bao nhiêu áng thi ca hay để lưu lại cho đời cũng chỉ là tất nhiên thôi!

5/.   Nếu kể đến mảng thơ viết về thành phố quê hương thì không thể không nói tới bài TIẾNG HÁT ĐỜI THƯỜNG - Bài thơ viết như một truyền thuyết: về người vợ trẻ với đứa con thơ đang chờ anh ở cố hương. Nơi có ngôi đền, quán báo, gốc đa bên hồ Tây. Nơi bà Thị Lộ năm xưa đi bán chiếu gon đã gặp ông Nguyễn Trãi. Nơi mà vẫn còn in dấu đại bác ở cổng thành phía bắc Thăng Long, khi quân giặc Pháp vào đánh chiếm Thủ đô, thành Thăng Long thất thủ, quan tổng đốc Hoàng Diệu phải thắt cổ để tuẫn tiết. Cái thành phố quê nghèo ấy với những hình ảnh bình dị thân thiết:
                         Ôi quê hương! / Cái phố nhỏ cứ mưa là lầy lội / Cháu gái nhà bên tuổi không đoán nổi  
                        Chưa tối đã khêu đèn bê mẹt thuốc rao đêm /  Ngày hai bữa, bữa nào cũng vội
       Và lòng nhà thơ tha thiết luôn hướng về miền cố hương ấy:
                       Ai biết chiều nay người vợ trẻ /  Đứng mong chồng bên đứa con thơ / Giọt lệ cháy xót lòng mang sắc xanh thu!...
       Hay là:  Tuyết bạc quê người, xứ sở mưa cau /  Đi đâu, đến đâu... nhớ về phố ấy! /-  Cái tiếng hát đời thường ấy lẫn vào trong cát bụi, nó cũng giống như tiếng của người hát dạo trên sân ga, tiếng của những con chim sẻ nhỏ nhoi trên cánh đồng mênh mông nước - nhưng đó là những tiếng hát tha thiết và thân thương của trái tim ta.

6/.   Tôi bình bài  ĐÊM TRUNG THU VÀ ĐỨA ĂN MÀY mà tác giả nói về cái nghèo đói:
                               Trước đứa ăn mày tất cả chúng ta hoá thánh! /  Nó đói lòng cúi lậy rất từ bi...
      Nghĩa là cái đói khổ đã đẩy con người ta xuống hàng cấp thấp, đê hèn. Đây lại chỉ là hai đứa trẻ. Đứa lớn vẫn còn bé, nó đã gầy yếu nhưng còn phải cõng trên lưng một bé em còm cõi:
                                         Ăn mà từ thưở khai sinh!
      Hai đứa ăn mày ấy xuất hiện trong một khung cảnh nào?  Đó là vào giữa đêm trung thu đèn hoa, trăng sáng. Một bức tranh tạo nên cảnh tương phản đến khốc liệt, khi cảnh thê lương ấy lại xẩy ra ở trong cái đêm hạnh phúc nhất giành cho con trẻ trên toàn trái đất này. Bố mẹ chúng đâu và là ai? ta không biết! Cái hiện thực thật tội nghiệp, xót xa. Còn với chúng phải sống lang thang xin ăn như thế nó sẽ nghĩ gì?... thậm chí nó còn chưa đủ tuổi để nghĩ đến thân phận của mình nữa:
                                Hai đứa ăn mày mặt lạnh như trăng /  Hoà phối cảnh vào bức tranh xứ sở...
      Cái màu trăng rằm tháng tám thì đẹp và rực rỡ, còn màu trăng nhờn nhợt trên mặt những đứa trẻ kia thì lạnh lẽo làm ta rợn gai người - Và, hai cái màu trăng ấy hoà vào nhau làm thành màu...đất nước? Bài thơ đã được kết thúc trong những mâu thuẫn không thể nào tháo gỡ nổi trên cõi thế gian này:
                      Dưới gầm trời này có phải đã muôn năm như vậy: / - Kẻ cần cơm bên những đứa cần vàng
                     - Lũ cần tình thương sống lẫn giống bạo tàn / Và gộp lại gọi chung là... nhân thế!
      Ta nhìn ra thế giới hôm qua, hôm nay và ngày mai: châu Á, Âu, Phi & Mỹ la tinh - con người đang bị quyền lực, bom đạn chiến tranh đè nén và chết chóc. Những người da đen đói khổ cũng như các lớp người bần cùng sống như con vật. Nhân thế cứ như thế, như thế mãi biết bao giờ cho hết? Thực tế đầy rẫy những bất công dội vào thế giới quan của nhà thơ để anh kết lại bài thơ như trên! Giá trị đích thực của bài thơ là những tiếng nói như máu, tiếng nói nhân đạo từ bên trong.

                                  C/-     ĐIỂM QUA MẢNG THƠ THIỀN & THƠ TÌNH
   Như đã nói ở trên: cõi thiền là một nhân tố rất căn bản của thế giới thơ PNT, nó chiếm số lượng bài cũng rất đáng kể như: Thu tĩnh, Chiều hoàng hôn, Khoảng buồn vô lý, Một chiều cuộc đời, Với mùa xuân đang tan, Tối quán v.v... Mỗi bài lại có sắc thái, hương vị riêng. Trong mảng thơ thiền này, tôi xin chọn để phân tích một bài thơ khá đặc biệt của anh.

1/.   MỘT GÓC HỒ TÂY:
                                         Anh đến mình anh trong chiều muộn /  Nhặt thơ tình ở một góc hồ Tây
                                         Ngắm mặt gương hồ vào chập tối /  Mặt trời lại ngỡ bóng trăng soi.
      Thỉnh thoảng ta bất chợt bắt gặp bóng mặt trời khuất muộn trong cảnh chiều chập choạng. Lúc đó nó giống như bóng trăng sáng trắng, vừa hơi viên mãn lại vừa như ảo. Tác giả đến bên hồ một người một cảnh, trăng nước vơi đầy. Tiếp theo không phải cái đọt mây kia lơ đễnh mà chính là lòng tác giả:
                           Lơ đễnh đọt mây qua phớt trắng / Vừa đơn côi mà không đơn côi!?
     Hai chữ "lơ đễnh" ấy bộc lộ một trạng thái tình cảm và tâm hồn, vừa có cái gì thật da diết lại chơi vơi nửa vời. Cảnh với người hơi bảng lảng, buồn buồn mà tình vẫn đầm đìa. Sau đó tác giả có nhắc đến một cô gái nào đó, nhưng hình như không phải là một cô gái hay em nào cụ thể? Đó chỉ là khát vọng trong nỗi hiu hắt của một con người đang bước tới cái tuổi hoa niên:
                           Thiếu vắng em nên anh lẻ bóng / Lá vàng rơi thay vào chỗ em ngồi...
      Nó không còn chỉ là cảnh hoàng hôn của trời đất nữa mà còn là buổi chiều hoàng của cuộc đời anh! Hình ảnh chiếc lá vàng rơi thay vào chỗ ngồi của người thiếu nữ xưa vừa đằm thắm mà nuối nả, xót xa. Buồn hơn nữa là khi lòng tác giả lại nhập vào trong cảnh chùa chiền:
           Mõ chùa buông thay tiếng nói của người yêu! / Trong sân gạch sư già quét lá / Bước người đi thầm lặng cõi hư hao...
      Phố xá mà cảnh như chiều thôn quê. Từ tâm trạng của nhà thơ tới hình bóng hư hao, lãng quên trần thế của nhà sư kia cũng chỉ là một. Vào đất phật lại cô đơn vì tình trai gái, vừa phàm trần mà lòng vô vi, thực và không... đều quyện trong một buổi chiều hồ. Để rồi cuối bài thì chính tác giả đã ví mình với nhà sư kia:
                           Người quên hết! Còn ta yêu tất cả /  Trong tiếng lá bay chầm chậm bóng ta theo...
      Tâm trạng của nhà thơ cũng u hoài như những chiếc lá đang bay đó thôi!... Giờ tôi xin bình sang một số bài thơ tình.

2/.   KHOẢNG  TRÔI TRONG LÁ -  Tác giả nhớ về kỉ niệm với một thiếu nữ. Trong đời thường khi tình bị tan vỡ có phải chịu dày vò đau khổ hoặc xót xa, nhưng anh hay em thì vẫn cứ phải tồn tại để sống! Tuy vậy, năm tháng qua đi lá rụng hết lớp này đến lớp khác, tình yêu với người thiếu nữ xưa vẫn trở về cồn cào trong trái tim anh:
                             Bỗng cồn nhớ một thời dĩ vãng /  Gió vẫn trôi không hữu hạn bến bờ
                             Nhưng vẫn đó: em, anh - cuộc sống /  Xa nhau rồi, tình cũ đến bơ vơ...
      Người con gái ấy giờ đây ra sao? Cuộc sống thế nào? không ai biết! Chỉ còn lại bóng trăng trên trời cùng những làn mây trắng trong tiếng lá cứ bay đi xa mãi. Tình yêu ấy hát trong hư vô và trăng sao:
                             Bài hát năm xưa, bên anh em đã hát /  Giờ đây trong lá nẻo trời nào?
                             Anh đi qua chỉ thấy toàn mây trắng /  Mặt trăng tít trên trời. Em ở tận nơi đâu?
      "Khoảng trôi trong lá" là một bài thơ tình tha thiết, ngôn ngữ đọng nhưng hình ảnh vẫn sinh sôi, được viết ra từ trong ký ức và trái tim thương nhớ của nhà thơ.
     
3/.  TRĂNG LẶN -  Nói là "thơ trăng" mà lại là một đêm không trăng. Trăng không mọc vì trăng chán trời, không biết em có chán anh như vầng trăng kia không? Đó chính  là uẩn khúc của nỗi lòng nhà thơ.
                             Biển vỗ vào anh - Biển vỗ vào em /  Em hoá đá để sóng ghềnh ôm mãi
                             Năm tháng, nắng mưa... đá vẫn còn nguyên đấy! /  Anh phong ba, anh nhẫn nại suốt đời.
      Tình yêu hoá thành biển cả: Nàng thì thành đá, chàng hoá sóng. Tình tan vỡ nhưng sóng biển còn vỗ mãi quanh cái hòn đá ấy:
                             Biển hư vô cả những khi cầm bút /  Xé rách lòng cho cánh thơ bay...
      Cuối cùng tác giả lại trở về với hình ảnh vầng trăng, nhưng đó không phải là vầng trăng của trời mà chính là... "vầng trăng em"!
                             Mất một vầng trăng lại mọc một vầng trăng /  Sóng khốn khổ hôn mãi hòn đá trắng
       Nỗi đau của trái tim thơ tháng năm còn rền xiết mãi. Một tình thơ giàu cảm xúc được tác giả xây dựng quanh hình tượng biển và trăng.

4/.   TRONG BÓNG CÂY NGỦ ĐÊM - Trái tim nhà thơ giống như một con tàu chở đầy ắp tình yêu chuyển bánh. Con tàu ấy chạy qua những cái quán cô quạnh trong tiếng gió hú, những vầng trăng chết đuối đang trôi, những làn mây lang thang ở chân trời và những thành phố đang chìm đắm trong đêm:
                             Trong bóng cây ngủ đêm / Có một loài hoa không ngủ /  Loài hoa yêu xếp đầy cánh hoa đau
                              Hương đã theo anh và con tàu chuyển bánh /  Đến vô cùng mà chẳng biết đi đâu?
     Tình yêu người thiếu nữ năm xưa như: Hồi chuông nơi thánh đường trắng trinh/-  vuốt ve trái tim đau nhói của nhà thơ. Trái tim ấy như một loài hoa không ngủ, đó là loài hoa yêu! Nó bay theo con tàu chuyển bánh đi mãi, đi mãi tới vô cùng:
                              Quán cô quạnh suốt đời nghe gió hú /  Trăng chết đuối rồi trắng dại đang trôi
                              Mây lang thang dưới chân trời bão tố /  Thành phố chìm trong đêm xa xôi.
     Tình yêu ấy vô vi nhưng nó vẫn như cánh chim bay xa... mang đến cho ta cả đau khổ cùng hạnh phúc, khát vọng và tan vỡ! Những hình tượng thi ca đã được chứa đầy ắp hồn của nhà thơ trong đó.

5/.    LỜI HÓT CON CHIM KHÁCH -  
     Tác giả kể: Vào một buổi sáng anh có gặp một thiếu nữ, nói dăm ba câu chuyện xung quanh việc thơ phú văn chương... rồi người thiếu nữ ấy bỏ đi. Trái tim nhà thơ xôn xao, anh đã ra một cái quán trong thành phố gần bên một hồ nước để viết bài thơ này. Chuyện rằng: Có một loài tim vỡ giống như sự tan vỡ của những cánh hoa ti-gôn, những mảnh vỡ ấy tan tác bay đi để rồi lẫn vào trong cát bụi cuộc đời. Chỉ có một mảnh duy nhất đã hoá thành "con chim khách":
                              Con tim buồn không còn thuộc về anh /  Những mảnh vụn lẫn vào trong cát bụi
                              Có một mảnh hoá thành "con chim khách" /  Bay đi tìm bóng lạc giữa vu vơ...
     Con-chim-khách bay đi trong cõi vô vi đó để tìm lại bóng hình người thiếu nữ kia! Tình thơ đã được kết thúc rất hậu:
                    Chầm chậm đừng đi người con gái của ban sơ /  Anh thả xuống ốc-đảo xanh em một mối tình nguyên thuỷ
                    Mốt mai lỡ đau nỗi khổ đau của loài tim vỡ /  "Con chim khách" vẫn về để hót ru em!
     Cách kết thúc này gợi cho ta nhớ tới bốn câu thơ kết đầy nhân hậu trong bài thơ tình nổi tiếng "Một chút tên tôi đối với nàng" của thi hào Puskin:
                              Nhưng nếu gặp ngày buồn đau đớn /  Em thầm thì hãy gọi tên lên!
                              Và hãy tin còn đây một kỷ niệm /  Em vẫn còn trong một trái tim...
      Tình cảm chớm nở trong trái tim nhà thơ chân thành và trong mát như con suối ban mai, hoang dã mà thanh khiết.

6/.   TIẾNG RÚC CHIM ĐÊM -    Vào một đêm mưa gió nằm trong nhà nghe thấy tiếng rúc của một con chim trong bụi cây. Cùng với những tích chuyện cổ ở dân gian, đã giúp cho tác giả liên tưởng tới câu chuyện tình của đôi chim:
                              Chim gọi đàn - Anh gọi tên em /  Năm tháng, nắng mưa, non ngàn, bão tố
                              Có lẽ nào em không về nữa /  Để hồn anh hoang mạc bơ vơ...
     Thế là chuyện "tình chim" trở thành chuyện "tình người"! Lòng tác giả cũng run rẩy như con chim kia và hồi ức về một mối tình cũ lại gợi về? Cái đêm đó không hiểu vì sao con chim mái không về... hay nó đã bỏ đi theo người tình khác? Con chim đực cứ gọi, gọi mãi trong vô vọng. Cùng nỗi lòng đó đứng trên thềm nhớ của không gian mênh mông, nhà thơ đã nhớ về em:
                              Đã xa rồi! Mùa dĩ vãng trăng mơ.../  Đời vui vẻ cuốn theo dòng gió bụi
     Đó là tiếng run rẩy của con chim trống cất lên trong vòm xanh. Tiếng của nó còn vọng mãi vào năm tháng xa xôi, vô cùng vô tận kia:
                             Con chim đêm run rẩy bóng xanh già /  Anh bổi hổi một thời qua vọng lại...
     Cũng chính là tiếng lòng của nhà thơ vọng gọi người yêu!... Nỗi thơ như lời thủ thỉ của một đôi "trống mái", mang  ý nghĩa nhân bản sâu sắc trong tình yêu và sự sống con người.

7/.   TRÚC HỒ ĐÊM -  Cuộc đời: có khi người ta nhận ra sự tồn tại, hạnh phúc của mình... lại chỉ từ tiếng kêu của những con chão chuộc? Bài thơ thi vị & chứa chất tình đời này đã nẩy nở vào một đêm Trúc Hồ động. Từ mở đầu đến kết thúc bài thơ tác giả cũng chỉ lắng trong cái tiếng chão chuộc ở hồ đêm ấy:
                Đêm nghe Trúc Hồ động / Tiếng chão chuộc vọng đưa / Chợt lòng anh thổn thức /  Chuyện ngày xưa ngày xưa...
     Tác giả hồi tưởng lại những kỷ niệm và lòng anh trào lên tha thiết:
               Tình yêu như cơn mưa /  Thấm sũng đời bãi cát /  Hồn thiếu nữ ngây thơ /  Một chân trời tím sắc...
     Ý nghĩa của tình thơ nói: niềm vui sướng, lẽ sống thường tình của con người chính là những tình cảm thân thương rất gần gũi với cuộc đời. Một bài thơ 5 chữ, tình thơ bình dị nhưng da diết máu tim và rất đáng yêu!
       Thơ tình của Phạm Ngọc Thái nhiều vô kể, sâu sắc và không ít tình thơ đã đạt được tầm vóc là những thi phẩm hay! Thực ra thì còn rất nhiều các bài thơ hay và thích của anh mà tôi lại chưa thể bình được ở đây như: Người đàn bà trắng, Đêm nay trời lại không mưa, Thời áo trắng, Em về biển, Anh vẫn ở bên hồ Tây, Trước núi Mỹ Nhân v.v. -  Thơ anh chứa đầy ắp nỗi tình ở thế giới bên trong, phần lớn  là thơ tự do hiện đại. Tuy vậy tác giả rất coi trọng tính nhạc và giọng điệu nên thơ đọc cuốn hút, truyền cảm và sinh động... cảm hoá được tình người. Có thể nói thế giới thơ ca Phạm Ngọc Thái như một bàu trời mênh mông sâu thẳm... được chảy ra từ trong máu tim và cuộc đời, càng đọc kỹ, đọc sâu càng thấm thía và hay!

Nguyễn Đình Chúc
Đô thành Thăng Long - 2012
NR:  Ngõ 44, phố Hào Nam, Hà Nội.


PHẠM NGỌC THÁI 
VỚI NHỮNG TÌNH THƠ ÁO TRẮNG
                                                                                                                                       Đình Bồng
     Có thể nói “Chùm thơ tình áo trắng” của Phạm Ngọc Thái là một chùm thơ gối đầu đối với lớp sinh viên, đặc biệt là các nữ sinh. Trong đó có hai bài được trích ra từ tập “Rung động trái tim” – NXB Thanh niên 2009, còn bài Cô Áo Trắng nghe tác giả giới thiệu trên Việt Nam Thư Quán thì ở trong tập “Hồ Xuân Hương tái lai” mà anh đang chuẩn bị cho xuất bản tới. Đó phải chăng là những  hoài vọng của ký ức nhà thơ về kỷ niệm tình yêu thưở ban mai hay cảm xúc trước một mối tình nữ sinh xa xưa nào đấy? Tôi xin bắt đầu bình bài thơ thứ nhất:
Xem hình

A-
   THỜI ÁO TRẮNG
                Trả lại cho anh một thời áo trắng
                Em đi rồi, mai thành phố cô đơn!
                Những bông hoa mùa xuân thôi không nở
                Đi dưới bóng điện đêm lòng sẽ rất buồn.
     Vào đầu bài ta đã thấy tiếng gọi của nhà thơ như muốn níu kéo một thời nào đó của tình yêu?  Đó là "thời áo trắng" - Cái thưở tình ban mai trong trắng như pha lê, trinh khiết và  thơm mát. Tiếng vọng từ trái tim về một khoảng xa xăm, mỗi khi nghĩ lại lòng anh lại quặn lên đau xót.
      " Em đi rồi " Hình ảnh ra đi của người con gái - Nhưng cái sự đi ở đây nó không phải là cuộc chia tay bình thường như một cuộc tan vỡ tình yêu? Đứng bên bờ của sự hẫng hụt, mất mát…lòng anh vẫn say đắm nồng nàn, tha thiết yêu em. Câu thơ bật ra nghe thảng thốt. Bóng người thiếu nữ cùng anh bao buồn vui, hạnh phúc , giờ đã khuất xa. Tiếng của nhà thơ trong sự nuối tiếc:
                     Trả lại cho anh...
     Cái thời yêu ấy đã quá xa với anh rồi, nhưng ta cảm thấy như nhà thơ vừa mới bị mất thôi. Đến cả đất trời cùng luyến tiếc: hoa mùa xuân thì thôi không nở, anh chỉ còn biết lang thang trong những ánh đèn đêm thành phố mà thương nhớ! Tình yêu để lại trong anh bao nhiêu kỉ niệm ngọt ngào tựa như những giọt sương mai, động mạnh vào là có thể vỡ tan. Đoạn sau đó nhà thơ đã thốt lên:
                    Ôi! Yêu dấu cái thời còn cắp sách
                    Mắt em cười mùa thu xanh lên! 
      Thực ra sự đi này là sự rời bỏ tình yêu tuổi thanh xuân của người con gái với cuộc đời anh khi đã về chiều. Người thiếu nữ đi để lại cả một  thành phố hiu hắt vì buồn:
                     Em đi rồi, mai thành phố cô đơn!
     Cái thành phố có trái sấu rụng , lá me rơi với bao tháng năm tuổi trẻ anh đã từng sống êm đềm trong  tình yêu, nhưng nó vừa là thành phố tượng trưng trong hoài niệm. Thành phố của cuộc đời anh! Giờ em đã bỏ đi chỉ còn lại mình anh trống vắng. Câu thơ hiện lên vừa thực, vừa ảo. Nghĩa là, cái thành phố ấy cũng cô đơn như trái tim chàng! Một thành phố của tình yêu mà không có bóng của người yêu? Hai câu thơ đầu như một khúc tình ly biệt - Đó là sự ly biệt  bởi thời gian, quy luật của sự tàn úa, già nua trong cuộc đời.
      Những lá vàng theo tuổi tác thi nhau rụng xuống, rêu phong nhoà nhoạt phủ lên trên cả trái tim tình vẫn tha thiết yêu thương. Hai câu thơ đó cũng đã là cả một bài thơ, để đến cuối cùng còn được nhà thơ hạ xuống làm câu thơ kết:
                    Trả lại cho anh một thời áo trắng
                    Em đi rồi, mai thành phố cô đơn!
      Khi xưa còn em thơ mộng biết bao. Thế mà hôm nay:
                    Những bông hoa mùa xuân thôi không nở
                    Đi dưới bóng điện đêm lòng sẽ rất buồn.
     Ta thấy bóng của nhà thơ đang lang thang với những ngày tháng  hắt hiu, lạnh lẽo. Cái thời áo trắng của người yêu sẽ không bao giờ còn quay trở lại với anh nữa dù những kỉ niệm xưa vẫn trở về:
                    Mắt em cười mùa thu xanh lên!
                    Những buổi chúng mình tìm ánh trăng để học
                    Tà áo trắng động vào...khe khẽ nát tim anh!
         " khe khẽ nát"  -  Ta nghe trái tim như những mảnh thuỷ tinh đang tan vỡ. Khi tà áo trắng của em động vào là trái tim ấy bồi hồi, xao xuyến. Âm thanh phát ra “khe khẽ”… nhưng chính là lòng anh thổn thức.
      "...khe khẽ nát tim anh " là hình ảnh của câu thơ hay! Hé ra những ham muốn, khao khát được tìm tòi, lần cởi những gì có bên trong người con gái. Đó là những cảm giác yêu đầu tiên của cuộc đời.
      Đoạn thơ ba  nỗi thơ đã được đẩy cao lên để nói về sự mất mát khi cái thời trong sáng, mộng mơ đã trôi đi, lòng anh không khỏi choáng váng, bàng hoàng:
                    Trả lại cho anh một thời áo trắng
                    Đã đi qua và...đã đi qua...
                    Với cả dòng sông trôi mơ mộng
                    Lá lá rụng vàng, tóc tóc hoá sương pha.
       Trên con đường đời tóc cũng bạc dần, anh không thể níu kéo lại cái thời áo trắng cho mình được nữa… và,  những người con gái trẻ xinh cứ dần rời xa anh mãi mãi. Chỉ còn lại những mùa thu tàn, những chiếc lá vàng ngày ngày rơi phủ dày mãi lên cuộc đời cũng đang về chiều của anh. Đoạn thơ đã kết ở đó!
              Nhà thơ Chế lan Viên cũng từng thốt lên: “ Chiều rồi! Phải, chiều rồi!...” . Bài thơ “Thời áo trắng” đã được viết ra trong cái cảnh vào chiều của đời người như thế! Những câu thơ thảng thốt bay ra từ trong tâm trạng bàng hoàng và trái tim rỉ máu vẫn còn khao khát, tưởng như lệ cũng đẫm cả hồn thơ.

                                                                            
B-  PHỐ THU & ÁO TRẮNG.
      Nếu như bài Thời Áo Trắng là sự hoài cảm kỉ niệm của một thời, thì Phố Thu & Áo Trắng (PT&AT) – tâm trạng nuối tiếc, xa xót của tác giả lại bồng lên như xé ruột, xé  gan mà cào cấu trong tim.
      Có một buổi nhà thơ đang đi trên phố bỗng nhiên anh bắt gặp những tà áo trắng các nàng thiếu nữ phấp phới bay lướt qua anh. Trái tim anh xôn xao tưởng chừng chỉ muốn vỡ tan ra:
                     Tà áo trắng em đi qua phố
                     Mùa thu rơi phủ mắt anh
                     Tà áo trắng của người sinh nữ
                     Anh nhìn xác phượng khóc rưng rưng.
     Đó là những chiếc áo dài trắng của các nữ sinh mặc trong buổi khai trường vào mùa thu. Nhà thơ nhìn những cánh hoa phượng đang rụng rơi xuống đất, lòng anh chạnh nhớ lại những ngày được cùng em đến trường mà khóc. Câu thơ :
                      Anh nhìn xác phượng khóc rưng rưng…
     Đã ra đời như thế! Vậy tà áo trắng này là tà áo trắng thực và phố này cũng là phố thực. Nó khác với thành phố và tà áo trắng ở bài thơ Thời Áo Trắng chỉ là những hình ảnh mang màu sắc tượng trưng. Chàng kêu lên! Mà không, chàng nấc lên:
                    Chỉ còn lại con tim rớm đỏ
                    Áo quệt vào máu rỏ hai tay...
                    Ôi mùa thu, mùa thu êm ả
                    Sao lòng anh tơi tả thế này?
     Nếu như trong Thời Áo Trắng, khi:
                    Tà áo trắng động vào... khe khẽ nát tim anh!
      Thì ở bài PT&AT này mức độ xao xiết lên trái tim người thi sĩ đã mạnh hơn. Anh bàng hoàng nhớ về một thưở đã yêu thương ngọt ngào những người thiếu nữ, giờ như con dao cứa vào cào nát trái tim anh! Mặc dù mùa thu vẫn đang êm ả trong xanh nhưng cũng còn đâu được yên lành nữa:
                Áo trắng in ngang trời, sét đánh!
                Lưỡi dao nào cào nát tim thu?
     Đến đây hình tượng thơ lại trở thành thơ tượng trưng. Hình ảnh lưỡi dao cào nát cả trái tim mùa thu là một hình tượng đã được thăng hoa, nó đẩy nỗi thơ cao lên! Có một đoạn quyện giữa mùa thu và tà áo trắng như một bức hoạ in trên nền trời làm cho hình ảnh thơ thêm sinh động và rất bay:
                Tà áo trắng trôi dưới dòng mây bạc
                Lang thang vài cánh bướm bơ vơ...
      Cái cảnh có vài con bướm vàng bay bơ vơ, chính là hồn của nhà thơ cũng đang bơ vơ trong những làn mây bạc ấy - Nó bộc lộ khát vọng yêu đương vô biên của một con người khi bước vào tuổi hoa niên. Tuổi trẻ qua đi, nhưng tâm hồn và trái tim thi sĩ thì cứ trẻ mãi, khát vọng mãi với tình yêu trai gái ấy. Người ta nói “nhà thơ không có tuổi” là vậy, dường như nó còn mãnh liệt hơn. Những giây phút anh bồi hồi tưởng lại năm tháng đã từng được ân ái bên người con gái:
                Anh cũng có một thời bên áo trắng
                Cũng bế bồng và cũng đã ru em
                Cái thời ấy chìm vào xa vắng,
                Phút gặp lòng đâu hết ngổn ngang...
     Tình yêu cuồng nhiệt và nóng bỏng, nhưng giờ thì chỉ còn những năm tháng lạnh tanh, nhạt nhoà của đời chàng. Chàng nghĩ đến cái thời từng ôm tấm thân thiếu nữ mềm mại, ấm áp trong vòng tay. Khoảnh khắc ấy bỗng trở thành như kỉ vật thiêng liêng… mà theo thời gian nay đã trôi vào tàn úa, qua đi không thể còn có thể lấy lại được nữa. Nó lý giải cảnh ngộ vì sao khi gặp những tà áo trắng đi qua lòng anh lại rạo rực, cảm xúc mãnh liệt đến thế!
    Nhà thơ phác hoạ lên sự đối nghịch của lòng mình với cảnh thiên nhiên đang thanh bình quanh anh, như Nguyễn Du đã viết:
                    Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
           z Phút gặp lại lòng trăm mối ngổn ngang…để anh kết lại đoạn thơ cuối cùng:
                    Thêm một mùa thu, một mùa thu vỡ
                    Câu thơ nấy những bông hoa buồn
                    Thôi, đừng hát để ướt lòng trinh nữ
                    Em đi rồi, anh chết cả mùa đông!
     Tác giả chỉ than như thế thôi, cũng vô vọng mà. Nói là: " thôi đừng hát..." -  thực ra nhà thơ muốn hát mãi về em. Câu thơ mang ý ẩn dụ, bộc lộ một tình cảm mạnh mẽ của nhà thơ với khát vọng tình yêu trai gái! Mỗi một mùa thu đến lại thêm một lần trái tim anh tan nát, anh đi trong mùa đông càng cô đơn hiu hắt vì buồn.
     Tôi xin bình sang bài:
    
C-     CÔ ÁO TRẮNG.
      Riêng bài “Cô áo trắng” này lại không phải tình thơ thưở ban mai, mà là một bài thơ tình trong buổi hoàng hôn cuộc đời – Như anh đã viết:
                     Anh lại có một cô áo trắng
                     Vào buổi hoàng hôn hoang vắng cuộc đời
                     Đôi mắt nàng cả trời thu đẹp lắm
                     Bàu vú nàng mùa hoa trái sinh sôi...
     Tôi không biết người đó còn là một thiếu nữ hay đã là thiếu phụ? Chỉ biết rằng anh cảm xúc người đẹp mà nảy ra tình thơ chỉ qua một bức ảnh. Nghe nói bức ảnh đó cô em mặc một chiếc áo cánh trắng mỏng bó sát lấy tấm thân thon thả của một thục nữ thành phố Sàigòn.
     Vào một mùa xuân muôn hoa đua nở, nhà thơ thương nhớ người đẹp ở trong mơ:
                     Đất Sàigòn mùa xuân đến trong mơ
                     Có em tôi đi giữa đêm dài thành phố
                     Em ơi em… những khi trời trở gió
                     Có thấy bóng anh về thao thức bên em?
     Tình thơ chứa chất một tình cảm lãng mạn xen lẫn sự ham muốn về thân thể của người yêu. Tình thơ được khai thác khá sâu sắc.  Tác giả diễn tả về cái thế giới bên trong người đẹp như cả vũ trụ:
                     Đêm Sàigòn khi ấy sẽ như mơ
                     Em bọc trong anh không cần quần áo
                     Ôi! Nguyệt của em đây một động sâu huyền ảo
                     Chứa cả thiên đường và vũ trụ bên trong
     Hình ảnh thơ mang màu sắc triết học càng làm cho tình thơ trở nên huyền thẳm. Ngôn ngữ sắc bén, sinh động tựa lưỡi dao cứa ngọt vào trái tim làm ta tê tái, kết hợp với giọng thơ uyển chuyển du dương. Tuy  là thơ tự do mà cảm xúc không chê vào đâu được.
                      Anh nhè nhẹ hôn thầm ở dưới ánh đêm
                      Em khoả thân mình để hoá thành nữ thánh!
                     Áo em trắng hay là da em trắng
                     Có em rồi cuộc sống sẽ vô biên…
     Hay là:
                      Ta mặc cho năm tháng chảy, nghe em!
                      Chỉ có anh và em, chỉ có trời và đất 
                      Thế giới văn minh ta không cần gì hết
                      Em dẫn anh vào buổi hoang muội nguyên sơ…
     Cô Áo Trắng là một tình thơ sâu sắc & gợi cảm. Tuy có nơi, có chỗ tác giả đã sử dụng hình ảnh thân thể như “bàu vú nàng”, hoặc “nguyệt của em đây…” – Nhưng đọc lên không làm cho tình thơ trở thành dung tục. Nó chỉ cốt tăng thêm sự hấp dẫn, đáng yêu hơn, hay hơn & viên mãn.
        Nói chung thơ Phạm Ngọc Thái viết theo cảm xúc được tung toả ra nhiều khía cạnh của cuộc đời. Tác giả thường đi hết gam để đẩy nỗi thơ đến tận cùng mà vẫn giữ được sự hồn nhiên trong trẻo. Nhà thơ như thể bóc cả trái tim mình cho thơ tuôn trào ra như suối vẫn không kém phần khúc triết - Qua đó mà bật lên toàn bộ tình cảm trái tim thơ!
        Áo Trắng là một chùm thơ có tầm vóc và hay. Chúc mừng anh!

 
           Đình Bồng
Giáo viên Trường THPT
    Ba Đình - Hà Nội                                                                  
*  Quí vị có thể thưởng lãm "Chùm thơ tình áo trắng" của tác giả qua link sau: