Thứ Ba, 12 tháng 5, 2015

Trò chơi dân gian và những bài Đồng Dao hát mà chơi ( sưu tầm )

 

TRÒ CHƠI THUỞ XƯA (1)

 ( HTG Sưu tầm và tổng hợp)

 

TSQN – Tác giả của bài Cafe SanJose với lối viết thật hóm hỉnh, đầy bất ngờ làm người đọc nhớ đến từng chi tiết theo phong cách phóng sự. Cũng với phong cách này tác giả lại trình bày bài viết với chủ đề tuổi thơ xưa và nay. Mời các bạn ghé đọc bài viết này để cùng nhớ lại tuổi thơ một thời đi qua. Tác giả: XYZ
Mt bui chiu cui tháng mười, ngoài tri mưa tm tã, mưướt đường ướt đt, mưa như xi như x. C ti cái ngày này là li nh quay nh qut ti my đa bn hc cũ, không biết gi này ti nó ra sao ri. Hai ngày nay vẫn chưa ôm được cái computer đ m mail. Hai đa cháu ngoc dành ly cái computer ca ngoi, đang chơi game vi nhau ri cãi nhau chí choé ở đng kia, n ào như cái ch. Gi này mà bo ti nó đưa computer cho ngoi thì e rằng khó ơi là khó.
- Hai đa bay chơi cái game gì mà chán như cơm nếp nát vậy. Hi xưa ngoi còn nhnhư ti bay, ngoi …
Hai đa ngng chơi game, cùng quay đu tò mò hi:
- Hi xưa ngoi còn nh như ti con, ngoi có chơi cái game này không ngoại?
- Ngoại hi đó chưa có game như my đa bây gi nhưng có nhiu trò chơi dzui hơn nhiu. Hai đa đưa computer cho ngoi dò mail ri ngoi lên kiếm hình trò chơi hi đó ri ngoi k cho hai đa nghe.
Hai đa nh trúng kế ngoi, giao ngay computer ri ngoan ngoãn ngi im ch đi.
- Ch có đa nào gi mail hết! Cái ti này hng biết gi này làm cái quái gì mà chcó mail vi miết gì hết. V hưu hết ri ch có bn gì cho cam mà ch gi mail cho tui.
- Ngoi check mail ri đó ngoi. Gi ngoi k chuyn hi xưa còn nh ngoi chơi game gì đi ngoại.
 …… Đ ngoi k. Đ ngoi k. Đ ngoi nh li coi…
Hi xa hi xưa … cái hi mà ngoi nh như hai đa bây gi…lúc đó trò chơi nhiu ơi là nhiều. Trò chơi nào cũng có ít nht hai người, còn nhiều hơn thì chia phe chia nhóm. Có phe bên này phe bên kia nên phi có người đi trước người đi sau, thành thử bt đu trò chơi bao gi cũng phi :
1. ON TÙ TÌ:

- Oẳn tù tì có phải là one two three hông ngoại?
- Đúng rồi đó con. Oẳn tù tì hay có khi còn gọi là Đánh Tù Tì , Bao Tiếng Xùm hay Xù Xì Xụt Xịt. Trò chơi này dùng để phân biệt ai là người ưu tiên đi trước bằng cách dùng bàn tay giả làm một trong những cái này:
- Cái Búa: nắm các ngón tay lại như quả đấm
- Cái Kéo: nắm 3 ngón tay cái, áp út, và ngón út lại, xong xòe 2 ngón tay còn lại thành hình cái Kéo.
- Cái Bao: xòe cả 5 ngón tay ra.
Cái Búa thì đập cái kéo, cái kéo thì cắt cái bao, cái bao thì trùm cái búa.
Bàn tay mỗi người được dấu sau lưng rồi cả hai cùng đọc:
“Oẳn tù tì ra cái gì ra cái đây?
hay xù xì xụt xịt như sau:
Xù xì xụt xịt
Hột mít lùi tro
Ăn no ó o
Ra gò té địt
là cùng đưa tay ra, rồi theo búa, kéo hay bao mà biết được bên nào thắng bên nào thua. Hai bên giống nhau thì chơi lại. Ai thắng thì được đi trước.
Rồi còn mấy trò chơi như:
2. ĐÁ GÀ:
Mỗi người gấp 1 chân của mình, chân còn lại nhảy lò cò đi đá chân của người khác. Ai té trước thì thua cuộc. Trò chơi này bắt chước trò chơi cho hai con gà đá nhau của người lớn.
- Eo ui! Mấy con gà dễ thương vậy mà sao cho tụi nó đánh nhau như vậy hở ngoại. Mấy người lớn ác quá đi! Con không thích trò chơi này.
3. U QU:
Mới đầu người chơi vạch một đường phân chia biên giới, xong mỗi phe đứng trong vùng của mình. Oẳn tù tì xong thì bên thắng đi trước bằng cách cho một người chạy qua phía bên kia vừa chạy vừa kêu “u…u…” rồi tìm cách chạm vào đối phương xong rồi cố chạy về lại phía bên mình. Bên kia đổi lại tìm cách giữ không cho người “u…u” quay về cho đến khi hết hơi không kêu “u… u…” được nữa thì thua. Ngược lại, nếu người “u… u” thoát về được thì những người bị chạm đều bị loại.
.

4. NHY DÂY:

5. BÚNG THUN:
Mỗi người chơi bỏ ra từ 5 đến 10 sợi dây thun rồi trộn lên và thảy xuống đất. Sau đó 2 người sẽ dùng ngón tay dích dây thun nọ đè lên dây kia là ăn.
6. CHÙM CHÙM MA DA :
Cả đám oẳn tù tì xong, đứa nào thua cuối cùng thì bị làm Ma Da. Những đứa còn lại đứng trên cao gọi là bờ. Ma Da hô 1, 2, 3 thì ai cũng phải nhảy xuống đất Ma Da đang đứng nhưng phải coi chừng bị Ma Da chụp được. Bị Ma Da quơ tay trúng là đứa đó bị làm Ma Da rồi đứa làm Ma Da thành người chơi.
7. ĐÁNH TRNG:
Cây trỏng để đánh thường thường là “cây dong hoặc cây gòn”, chặt làm hai khúc, cây cầm đánh dài khoảng 5 hoặc 6 tấc gọi là cây đập đầu mào, cây ngắn 2 tấc gọi là cây đầu mào.

Rồi đào một lỗ dài hơn 2 tấc, sâu miễn sao để đầu mào nằm gọn vào lỗ, gạch phía trước lỗ một đường mức khoảng cách 6 hoặc 7 thước.
Đặt đầu trỏng ngắn nằm ngang trên miệng lỗ và lấy cây dài dích sao cho đầu trỏng ngắn bay ra khỏi mức sao cho bên kia không bắt được đầu trỏng. Bên kia bắt được thì người dích thua. Khi bên kia bắt không được thì người dích đặt cây trỏng dài nằm ngang trên lỗ, để cho bên kia lượm đầu trỏng ngắn nằm ở đâu thì từ chỗ đó chố vào, nếu trúng cây trỏng dài thì người đó thua.

8. BT MT BT DÊ:
Một người xung phong để mọi người bịt mắt lại bằng một chiếc khăn để không nhìn thấy, những người còn lại đứng thành vòng tròn quanh người bị bịt mắt.
Mọi người chạy xung quanh người bị bịt mắt đến khi nào người đó hô “bắt đầu” hoặc “đứng lại” thì tất cả mọi người phải đứng lại, không được di chuyển nữa. Lúc này người bị bịt mắt bắt đầu lần đi xung quanh để bắt được ai đó, mọi người thì cố tránh để không bị bắt và tạo ra nhiều tiếng động để đánh lạc hướng. Đến khi ai đó bị bắt và người bị bịt mắt đoán đúng tên thì người đó sẽ phải ra “bắt dê”, nếu đoán sai lại bị bịt mắt lại và làm tiếp.

9. RNG RN LÊN MÂY:
Một người đóng vai thầy thuốc, số còn lại sắp hàng một, người sau nắm người trước. Rồi tất cả bắt đầu lượn qua lượn lại như con rắn, vừa đi vừa hát:
Rồng rắn lên mây
Có cây lúc lắc
Hỏi thăm thầy thuốc
Có ở nhà không?
Người đóng vai thầy thuốc trả lời:
- Thấy thuốc không có nhà !
Rồng rắn lại đi và hát tiếp cho đến khi thầy thuốc trả lời:
- Có ! Rồng rắn đi đâu?
Người đứng làm đầu rồng rắn trả lời:
- Rồng rắn đi lấy thuốc để chữa bệnh cho con.
- Con lên mấy ?
- Con lên một
- Thuốc chẳng hay
- Con lên hai.
- Thuốc chẳng hay
Cứ như vậy cho đến khi:
- Con lên mười.
- Thuốc hay vậy.
Kế đó, thì thầy thuốc đòi hỏi:
Thầy Thuốc: – Xin khúc đầu.
Rồng Rắn: – Những xương cùng xẩu.
Thầy Thuốc: – Xin khúc giữa.
Rồng Rắn: – Những máu cùng me.
Thầy Thuốc: – Xin khúc đuôi.
Rồng Rắn: – Tha hồ mà đuổi.
Rồng rắn trả lời xong là thầy thuốc tìm cách bắt cho được người cuối cùng trong hàng.
Người đứng đầu rồng rắn vừa chạy vừa dang tay, cố ngăn không cho thầy thuốc bắt được cái đuôi, còn cái đuôi phải chạy và tìm cách né thầy thuốc.
Nếu thầy thuốc bắt được người cuối cùng thì người đó phải ra thay làm thầy thuốc.

- Hồi thời Ngoại thì có trò Thiên Đàng Địa Ngục, Thiên đàng địa ngục hai bên, Ai khôn thì lại ai dại thì qua, Đêm nằm nhớ Chúa nhớ Cha, Đọc kinh cầu nguyện kẻo xa linh hồn, Linh hồn phải giữ linh hồn, Đến khi gần chết được lên thiên đàng… Cũng gần gần giống như Rồng Rắn Lên Mây, dzui lắm… .
10. Ô LÀNG:
Vẽ một hình chữ nhật với 10 ô vuông nhỏ. Hai đầu hình chữ nhật là 2 hình vòng cung, đó là 2 ô làng cho mỗi bên, mỗi ô vuông được đặt 5 viên sỏi nhỏ, mỗi bên có 5 ô.

Người thứ nhất đi với nắm sỏi trong ô vuông nhỏ mình chọn, rồi rải đều từng viên một cho những ô vuông kể cả ô làng. Khi đến hòn sỏi cuối cùng ta vẫn bắt lấy ô bên cạnh và cứ thế tiếp tục đi cho đến lúc nào viên sỏi cuối cùng dừng cách khoảng là một ô trống, chặp ô trống bắt lấy phần sỏi trong ô bên cạnh để nhặt ra ngoài.
Những viên sỏi đó đã thuộc về người chơi, và tới phiên người đối diện.
Người đối diện cũng đi như người đầu tiên. Cả hai thay phiên nhau đi cho đến khi người nào nhặt được phần ô làng và lấy được hết phần của người kia là thắng.

11. ĐÁNH TH:
Đồ chơi gồm có 10 que nhỏ và một trái banh tennis.
Người đánh thẻ rải đều 10 cây thẻ xuống nền nhà, vừa tung trái banh lên thì tay cầm banh phải nhanh tay nhặt từng đôi gồm 2 thẻ, khi trái banh rớt xuống nền nhà và tung lên, tay phải bắt kịp trái banh không để rơi xuống đất lần nữa, và cứ thế cho hết số thẻ.
canh chm: Bên đối phương dùng tay chụm 10 cây đũa thẻ vào một nhúm, người chơi thảy banh lên trong cùng một bên tay, lấy số thẻ làm sao để chừa lại số thẻ còn lại 2 thẻ,
canh quét: Cầm bó thẻ trong tay ngay đầu thẻ rồi thảy banh lên trong khi trái banh đang ở độ cao thì người chơi cầm bó thẻ quét như cầm chổi quét nhà vậy, quét qua, quét lại liền.
Canh chuyn: Cầm chặt bó thẻ để ngang người thảy banh lên trong khi banh đang ở độ cao thì người chơi xoay tròn 2 vòng bó thẻ và chụp cho kịp trái banh như những lần trước khi banh rơi xuống và được tung lên.
Canh giã: Cầm giữa bó thẻ, trái banh được tung lên cao và kịp dộng đứng bó thẻ xuống nền nhà 2 lần.

- Con thích trò chơi này đó ngoại. Để con lấy cái bó đũa của mẹ trong bếp với cái banh tennis của ba rồi con với mẹ chơi.
- Ừa! Để mẹ con về rồi con nói mẹ chỉ cho. Mẹ con hồi nhỏ chơi giỏi lắm đó.
12. ĐÁNH G:
Con gụ làm bằng gỗ hình nón cụt, có chân bằng sắt. Dùng một sợi dây, quấn từ dưới lên trên rồi cầm một đầu dây thả thật mạnh cho quay tít. Con gụ nào xoay lâu nhất là thắng, rồi còn dùng con gụ chọi vào mấy con gụ khác đang xoay nữa.

13. NHY CÒ CÒ:
Nhảy cò cò là nhảy với một chân.
Chỉ được dùng một chân để nhảy và không được đổi chân trong lúc đang nhảy. Nếu nhảy dẫm vào vạch hay đá quân cái không đúng ô hoặc ra ngoài ô thì bị loại, người khác vào chơi.
Người chơi vẽ dưới đất 7 ô vuông, được đánh số từ 1 đến 7. Người chơi dùng miếng mẻng trèng ném vào ô (theo thứ tự từ ô thứ nhất đến ô cuối cùng), sau đó co một chân lên, nhảy cò cò vào trong ô. Người chơi phải hoàn tất hết các ô thì sẽ được “bói nhà”. Người chơi sẽ quay lưng lại và ném miếng mẻng trèng vào trong ô, nếu rơi vào ô nào thì sẽ được xây nhà ở đó.

14. ÔNG ĐI QUA BÀ ĐI LẠI :
Nhiều hay ít người chơi cũng được, chia làm hai phe.
Người cầm đầu trong toán chơi gọi là mẹ, người làm mẹ chơi hay và cao lớn nhất trong toán, người mẹ đi trước hoặc nhảy đầu tiên.
Bắt đầu chơi, hai bên bao tiếng xùm bên nào thắng đi trước.
Bên thua hai người ngồi đối diện nhau, một người ngay một cẳng ra phía trước, bàn chân thẳng đứng gót chân chạm đất là canh một.
Bên ăn nhảy qua canh một, người làm mẹ nhảy qua trước và đọc “đi canh một”, tất cả tụi con nhảy theo và lập lại câu “đi canh một” và vòng nhảy về cũng vậy, người cầm đầu cũng nhảy trước và đọc “về canh một” tụi con cũng nhảy qua sau và làm theo được hết rồi cứ như thế bên thua chồng cẳng lên canh 2, ngồi đối diện gác cẳng lên hàng tiếp tục lên canh 3 và canh 4, cứ như thế mà nhảy qua nhảy lại trong lúc miệng đọc đi hết canh này đến canh kia. Người nào không nhảy qua mà đụng chân thì chết ngồi đó chờ hết bàn chơi tiếp.
Xong canh bốn, thì tới canh búp, canh nở, canh tàn và sau cùng là canh gươm.

- Trò này dzui à ngoại. Để ba mẹ về rồi mình chơi trò này nghe ngoại. Mà ngoại! Giờ ngoại nhảy được tới búp hông dzậy ngoại?
- Ơ…ơ… Lâu quá không chơi, ngoại cũng không biết nữa!
15. TT LON:
Gồm một cái lon và mỗi đứa một chiếc dép.
Bao tiếng xùm, ai thua thì ra giữ lon.
Cái lon được đặt cách xa khoảng 5m có làm dấu và đứa thua ra giữ lon.
Tất cả còn lại dùng dép tạt sao cho cái lon văng đi xa, tạt xong chạy lên lấy lại dép rồi quay về, còn đứa giữ lon chạy lấy lon và đặt đúng chỗ cũ xong cố chạm đứa lấy dép. Đứa bị chạm thì phải ra thế đứa giữ lon.

16. BN BI:

- Bắn bi là cầm mấy viên bi rồi ném hả ngoại?
- Không phải ném bi mà bắn bi con. Cái bàn tay túm lại như thế này thế này với hòn bi bên trên rồi dùng ngón cái búng hòn bi đi. Hoặc xoè bàn tay ra ngón cái chấm đất, bàn tay kia cầm viên bi để ngay đầu ngón giữa bàn tay chấm đất xong cong ngón tay giữa nhắm bắn ra. Ông Năm Hủ Tiếu hồi nhỏ bắn bi cừ lắm đó!
- Còn ngoại, ngoại giỏi môn gì hở ngoại?
- Ngoại giỏi … ơ … ơ …”năm…mười…mười lăm…”
17. NHY NGA:

18. “NĂM…MƯỜI…MƯỜI LĂM…”
Một đứa nhắm mắt lại rồi đọc lớn “5…10…15…20….100″ trong khi những đứa khác chạy tản ra kiếm chỗ trốn.
Khi đứa bịt mắt đọc tới 100 thì mở mắt ra rồi đi tìm mấy đứa trốn.

- Trốn thì khó tìm lắm ngoại ơi! Ngoại nói ngoại chơi môn này giỏi. Chơi sao cho giỏi ngoại?
- Ơ…ơ… Hồi đó ngoại vừa đọc “năm…mười…mười lăm…”, ngoại vừa mở mắt ngoại theo dõi mấy đứa trốn chỗ nào để ngoại chụp.
- Ngoại ăn gian. Ngoại không fair play!
19 . TH DIU:

- Ngoại ơi ngoại! Th diu thì ti con cũng có chơi ri ngoi à!
- Mà hi xưa ngoi ngon hơn! My cái diu ngoi đu t làm hết!
- Chng nào rảnh, ngoi ch cho ti con cách làm nghen ngoi!
a. Ngoi s ch. Mà… mà… ngoi hông biết kiếm đâu ra tre đ làm đây!
- Hồi xưa còn trò chơi gì na không ngoi?
- Còn nhiu lm mà ngoi không nh được. Còn cái trò chơi gì mà cm hai cây đũa xung đt, choàng cng dây thun t bên này sang bên kia, xong ngt mt cái gì đó mà ngt cung đi thì ging như con sâu rm ri đt lên gia cng dây thun, xong mi đa mt đu cc đũa, cm cc đá gõ gõ nhè nh, cho hai con sâu rm tiến đến gn nhau, con nào rt xung trước thì bên đó thua. Đ ngoi email hi my người bn th có ai còn nh còn trò gì na hông? À, ngoi nh còn có cái trò này na nè:
20. TM MƯA:

- Ngoơi ngoi! Bên ngoài đang mưa kìa ngoi. Ngoi vi ti con ra ngoài tm mưa đi ngoi.
- Hng được đâu! Tm mưa ri l my đa cm là ba má my đa bay la ngoi.
- Ba má không la đâu ngoi. Ti con mnh ù hà, ch có ngoi là yếu thôi. Hay là như dzy, ngoi bn áo mưa xong ra tm mưa vi ti con nghe ngoi. Ngoi… Ngoi…
… … My đa ch chút! Đ ngoi đi vô ngoi ly cái áo mưa.
.
XYZ
http://tayson12ab.wordpress.com/tag/hoctro/

 TRÒ CHƠI THUỞ XỦA THUỞ XƯA( 2)
Trò chơi thuở xửa thuở xưa
Bây giờ nhìn lại thấy ưa quá chừng


    Tuổi thơ thiếu thốn, không có gì chơi, có thể 
ra vườn cắt tàu lá chuối về làm “súng” nổ lốp bốp
( đưa tay bẻ lên hết và gạt mạnh ai nổ to nhất là thắng.)
Chơi đồ hàng. Đóng vai bố, mẹ, con thành một gia đình 
nhỏ xíu. Lấy lá dâm bụt làm tiền. Hái một xấp tiền 
rồi đi chợ mua đồ ăn, cũng trả lại tiền...
Cười giòn tan với trò lia ống bơ 
   (nhiều nơi gọi là tạt lon)
    Những con quay (con vụ) 
   không thể thiếu trong kỷ niệm tuổi thơ
      Giàn ná làm bằng dây thun bắn đá, hoặc giấy xe tròng gấp lại
        Cỏ gà và chọi cỏ gà, bông cỏ mần tràu có tên gọi là cỏ chỉ thiên
Ấu thơ của phần lớn những cô nàng sẽ có trò chơi nhảy dây
Còn của các anh chàng 8X chắc chắn có trò bắn bi
Làm diều bằng sách vở cũ. Không có 
keo dán, dùng cơm nguội để dán diều
Trò chơi tìm số cực kỳ phổ biến trong lớp học
Súng phốc làm từ ống tre nhỏ thường gọi là bắn ống phốôc. 
Cho quả xoan non hoặc giấy vụ vo trò vào làm
“đạn” bắn đau điếng, lá chuối non nhai nhuyễn nhét vào, 
hạt trơng,"tức muốn chết"!

     
Kéo co bằng nhị hoa dâm bụt
 
    Đồng hồ tự chế từ lá dứa, lá chuối già
cũng có nhiều nơi làm bằng lá dứa gai,
   Cho chuồn chuồn cắn rốn vì 
"niềm tin bất hủ": chịu đau rồi sẽ biết bơi
   Đua tốc độ ngồi mo cau thi nhau kéo.
 Đi bắt dế, chơi trò đá dế

         Thảy mức ngáo

      Trồng nụ trồng hoa
Trồng nụ trồng hoa
 
         Chơi ô ăn quan
            Búng thun
Đánh chuyền. 10 que tre cùng trái banh nỉ 
là hội con gái có thể ngồi chơi cả chiều không chán
Đèn lồng tự chế từ những lon nước ngọt 
đã xài qua. Đây cũng là sản phẩm trong một 
bài học của môn Kỹ thuật thời tiểu học.


Nhảy dây

Nhảy lò cò

Chơi ô ăn quan


Trò chơi bịt mắt đánh trống


Kéo co


Chơi nu na nu nống


Trồng hoa trồng nụ
Bịt mắt bắt dê là trò chơi dân gian đến nay vẫn còn được trẻ yêu thích. 
Bịt mắt bắt dê là trò chơi dân gian đến nay vẫn còn được trẻ yêu thích. Một trò nghịch ngợm khác là tạt lon.
"Trai quê" say sưa thi bắn ná.
"Trai quê" say sưa thi bắn ná.

Trò ít vận động chân tay là chơi cờ.
Trò ít vận động chân tay là chơi cờ.
Chơi chọi cỏ gà.
Chơi chọi cỏ gà.

HƯỚNG DẪN 
THỰC HIỆN  CỦA TỪNG TRÒ CHƠI(3)
(Nguồn: Sưu tầm từ Internet)
1.Trò chơi .Mít mật mít dai
* Cách chơi :
Chơi theo nhóm, từ hai em trở lên.Một em đặt cái que lên hòn đá rồi tìm cách đánh thật mạnh cho que bắn sang bên kia. Một em khác chạy theo bắt que, nếu bắt được thì vào đánh que. Nếu không bắt được thì em đó phải nhắm mắt cho em kia đánh văng chiếc que đi nơi xa, rồi vừa đi vừa hát:
Mít mật mít dai
Là hai thứ mít
Vào làng xin thịt
Ra chợ xin xôi
Chú chẳng nghe tôi
Tôi bịt mắt chú
Ẩn đâu cho kín
Bao giờ lúa chín thì về.
2. Trò chơi : Rồng rắn
Cách chơi:
Các em xếp thành hàng nối đuôi nhau, em này nắm vào thân áo của em kia. Cả đoàn vừa đi dạo vòng tròn vừa hát đối đáp:
- Một em đóng vai thầy thuốc:
Rồng rắn lên mây
Có cây núc nác
Có nhà hiển ninh
Hỏi thăm thầy thuốc
Có nhà hay không?
- Thấy thuốc : Trả lời không có nhà (Đi đâu đó…)
- Cả đoàn làm 2-3 lần như vậy . Đến lần cuối cùng :
Rồng rắn lên mây
Có cây núc nác
Có nhà hiển ninh
Hỏi thăm thầy thuốc
Có nhà hay không?
- Thầy thuốc trả lời : Có nhà . Hỏi ta có việc gì ? TL : Chữa bệnh cho con.
Thầy thuốc : Nhưng phải cho ta một khúc.
Cho ta khúc đầu – TL Xương sẩu
Cho ta khúc giữa – TL máu me
Cho ta khúc đuôi – TLTha hồ thầy đuổi
* Người đứng đầu đoàn dang tay che ngăn không cho thầy thuốc bắt được . Đến khi bắt được thì thôi.
3. Trò chơi :Thả đỉa ba ba
* Cách chơi : Chơi theo nhóm , càng đông càng vui. Các em quây quần nhau lại thành vòng tròn và cùng nhau hát.
“ Thả đỉa ba ba
Chớ bắt đàn bà
………………..
Nhà ấy phải chịu”
Trong khi hát các em chỉ tay vào một bạn trong nhóm. Người được chỉ cuối cùng sẽ làm đỉa.
Cả nhóm tản ra ,xếp thành hai hàng đối diện, ở giữa tưởng tượng là một con sông. Em làm đỉa có nhiệm vụ đứng ở giữa sông và rình bắt các bạn chạy từ bên bờ này sang bên bờ kai. Chỉ cần ‘’ đỉa ‘’tóm được đúng người đang qua sôngthì người bị bắt sẽ phải làm thay bạn đó làm đỉa. Và lượt chơi mới lại bắt đầu.
Trò chơi tạo cho các em sự hồi hộp, nhiều bất ngờ và rèn luyện cho các em đôi chân nhanh,chạy khéo để tránh không bị ‘’đỉa’’ bắt .Vừa chạy qua sông, các em các em vừa reo hò hết sức vui vẻ.
4. Trò chơi : Bỏ khăn tay
Cách chơi: Cả nhóm quây quần thành vòng tròn. Sau đó cử ra một em đi xung quanh phía sau lưng các bạn.Trong khi đó , các bạn khác đồng thanh hát:
Mùi xoả mùi xoa
Ta cho xuống đất
Đứa nào sợ phất
Sừ lại phía sau
Đứa nào sợ đau
Mau mau chạy trốn
Lợi dụng các bạn không để ý , em này sẽ nhẹ nhàng bỏ khăn vào sau lưng của 1 bạn. Khi người được bỏ khăn biết được điều này thì ngay lập tức đứng dậy chộp lấy khăn và đuổi theo người vừa bỏ khăn với điều kiện phải đuổi theo vòng , không được đón đầu. Hay chạy ngược vòng. Còn em bị đuổi thì chạy thật nhanh ngồi vào chỗ trống của bạn đang đuổi mình là được . Nếu người bị bỏ khăn không biết sau lưng mình có khăn .Thì em bỏ khăn phải đi hết 1 vòng rồi lấy khăn vụt vào lưng người bị bỏ khăn và người bị bỏ khăn sẽ thua cuộc và đứng lên đi bỏ khăn thay cho người thắng.
. 5.Trò chơi: Cắp cua bỏ giỏ
* Cách chơi: Chơi theo nhóm nhỏ từ 3-5 em. Mỗi em chuẩn bị 10 viên sỏi và coi đó là những con cua. Góp tất cả số “ Cua” của cả nhóm lại thành 1 đống ở giữa sau đó các em ngồi xung quanh.
Sau khi oản tù tì, em nào thắng sẽ được chơi đầu tiên . Em đó sẽ vơ cả số cua và tung rải ra, làm như cua đang chạy tứ tung, rồi bắt đầu bắt cua bỏ vào giỏ, Hai tay úp cong vào nhau cho khít để làm giỏ còn hai ngón trỏ để duỗi thẳng cắp cua.Khẽ cắp không để rơi, không được chạm vào cua khác. Thả cua vào giỏ từng con một. Nếu rơi coi như bị thua và người khác tiếp tục. Cuối cùng đếm ai có số cua nhiều nhất sẽ chiến thắng
6.Trò chơi: Mèo đuổi chuột
* Cách chơi: Tập hợp lớp thành vòng tròn, tay dang ngang và nắm lấy bàn tay của nhau tạo thành lỗ “hổng” để cho “Mèo” và “ Chuột” đuổi nhau.
Chọn 1 em làm mèo, 1 em làm chuột đứng cách nhau 3m trong vòng tròn. Cuộc chơi bắt đầu , các em nắm tay nhau vừa lắc lư vừa hát:
“ Mèo đuổi chuột
Mời bạn ra đây
Tay nắm chặt tay
Đứng thành vòng rộng
Chuột luồn lỗ hổng
Chạy vôi chạy mau
Mèo đuổi đằng sau
Trốn đâu cho thoát” Khi tiếng thoát vừa rứt thì chuột bắt đầu chỵa qua các lỗ hổng, khi đó mèo lập tức đuổi theo yêy cầu chuột chạy lỗ nào thì mèo phải chạy đứng vào lỗ đó. Khi nào Mèo chạm nhẹ được vào chuột thì khi đó mèo sẽ trở thành chuột và ngược lại Chuột thành mèo và tiếp tục đuổi nhau…
7. Trò chơi: Chồng đống chồng đe
Chuẩn bị: Kẻ 3-4 Vòng tròn đường kính 2-3m
Cách chơi :Chơi theo nhóm, mỗi nhóm từ. 4-6 em . Các em đứng thành vòng tròn ( Theo vòng đã vẽ) tay mắm thành nắm đấm, tay em này chồng lên tay em kia theo chiều cao dần. Sau đó cử ra một em vừa hát vừa chỉ lần lượt vào nắm tay của từng bạn:
“Chồng đống chồn đe
Con chim lè lưỡi
Nó chỉ người nào
Nó chỉ người này.”
Tiếng cuối cùng của bài hát rơi vài tay ai người đó vùng dậy đuổi bắt .Còn các em khác nhanh chóng chạy tản ra để trốn. Em nào bị bắt sẽ thay thế bạn mình làm người đuổi bắt.
8. Trò chơi Ô ăn quan. * Chuẩn bị
Bàn chơi: bàn chơi Ô ăn quan kẻ trên một mặt bằng tương đối phẳng có kích thước linh hoạt miễn là có thể chia ra đủ số ô cần thiết để chứa quân đồng thời không quá lớn để thuận tiện cho việc di chuyển quân, vì thế có thể được tạo ra trên nền đất, vỉa hè, trên miếng gỗ phẳng.... Bàn chơi được kẻ thành một hình chữ nhật rồi chia hình chữ nhật đó thành mười ô vuông, mỗi bên có năm ô đối xứng nhau. Ở hai cạnh ngắn hơn của hình chữ nhật, kẻ hai ô hình bán nguyệt hoặc hình vòng cung hướng ra phía ngoài. Các ô hình vuông gọi là ô dân còn hai ô hình bán nguyệt hoặc vòng cung gọi là ô quan.
Quân chơi: gồm hai loại quan và dân, được làm hoặc thu thập từ nhiều chất liệu có hình thể ổn định, kích thước vừa phải để người chơi có thể cầm, nắm nhiều quân bằng một bàn tay khi chơi và trọng lượng hợp lý để khỏi bị ảnh hưởng của gió. Quan có kích thước lớn hơn dân đáng kể cho dễ phân biệt với nhau. Quân chơi có thể là những viên sỏi, gạch, đá, hạt của một số loại quả... hoặc được sản xuất công nghiệp từ vật liệu cứng mà phổ biến là nhựa. Số lượng quan luôn là 2 còn dân có số lượng tùy theo luật chơi nhưng phổ biến nhất là 25.
Bố trí quân chơi: quan được đặt trong hai ô hình bán nguyệt hoặc cánh cung, mỗi ô một quân, dân được bố trí vào các ô vuông với số quân đều nhau, mỗi ô 5 dân. Trường hợp không muốn hoặc không thể tìm kiếm được quan phù hợp thì có thể thay quan bằng cách đặt số lượng dân quy đổi vào ô quan.
Người chơi: thường gồm hai người chơi, mỗi người ngồi ở phía ngoài cạnh dài hơn của hình chữ nhật và những ô vuông bên nào thuộc quyền kiểm soát của người chơi ngồi bên đó.
Luật chơi
Bàn chơi Ô ăn quan cho 2 người (2 phe)
Bàn chơi ô ăn quan đã sẵn sàng cho khai cuộc
Bắt đầu một lần rải quân, khi đến quân cuối cùng, những quân trong ô có đường bao lại được lấy lên để rải tiếp
Sau khi rải tiếp, ô có đường bao quân màu đỏ sẽ bị ăn, ô liền đó lại được lấy lên để tiếp tục rải
Mục tiêu cần đạt được để giành chiến thắng: người thắng cuộc trong trò chơi này là người mà khi cuộc chơi kết thúc có tổng số dân quy đổi nhiều hơn. Tùy theo luật chơi từng địa phương hoặc thỏa thuận giữa hai người chơi nhưng phổ biến là 1 quan được quy đổi bằng 10 dân hoặc 5 dân.
Di chuyển quân: từng người chơi khi đến lượt của mình sẽ di chuyển dân theo phương án để có thể ăn được càng nhiều dân và quan hơn đối phương càng tốt. Người thực hiện lượt đi đầu tiên thường được xác định bằng cách oẳn tù tì hay thỏa thuận. Khi đến lượt, người chơi sẽ dùng tất cả số quân trong một ô có quân bất kỳ do người đó chọn trong số 5 ô vuông thuộc quyền kiểm soát của mình để lần lượt rải vào các ô, mỗi ô 1 quân, bắt đầu từ ô gần nhất và có thể rải ngược hay xuôi chiều kim đồng hồ tùy ý. Khi rải hết quân cuối cùng, tùy tình huống mà người chơi sẽ phải xử lý tiếp như sau:
Nếu liền sau đó là một ô vuông có chứa quân thì tiếp tục dùng tất cả số quân đó để rải tiếp theo chiều đã chọn.
Nếu liền sau đó là một ô trống (không phân biệt ô quan hay ô dân) rồi đến một ô có chứa quân thì người chơi sẽ được ăn tất cả số quân trong ô đó. Số quân bị ăn sẽ được loại ra khỏi bàn chơi để người chơi tính điểm khi kết thúc. Nếu liền sau ô có quân đã bị ăn lại là một ô trống rồi đến một ô có quân nữa thì người chơi có quyền ăn tiếp cả quân ở ô này ... Do đó trong cuộc chơi có thể có phương án rải quân làm cho người chơi ăn hết toàn bộ số quân trên bàn chơi chỉ trong một lượt đi của mình. Trường hợp liền sau ô đã bị ăn lại là một ô vuông chứa quân thì người chơi lại tiếp tục được dùng số quân đó để rải. Một ô có nhiều dân thường được trẻ em gọi là ô nhà giàu, rất nhiều dân thì gọi là giàu sụ. Người chơi có thể bằng kinh nghiệm hoặc tính toán phương án nhằm nuôi ô nhà giàu rồi mới ăn để được nhiều điểm và có cảm giác thích thú.
Nếu liền sau đó là ô quan có chứa quân hoặc 2 ô trống trở lên thì người chơi bị mất lượt và quyền đi tiếp thuộc về đối phương.
Trường hợp đến lượt đi nhưng cả 5 ô vuông thuộc quyền kiểm soát của người chơi đều không có dân thì người đó sẽ phải dùng 5 dân đã ăn được của mình để đặt vào mỗi ô 1 dân để có thể thực hiện việc di chuyển quân. Nếu người chơi không đủ 5 dân thì phải vay của đối phương và trả lại khi tính điểm.
Cuộc chơi sẽ kết thúc khi toàn bộ dân và quan ở hai ô quan đã bị ăn hết. Trường hợp hai ô quan đã bị ăn hết nhưng vẫn còn dân thì quân trong những hình vuông phía bên nào coi như thuộc về người chơi bên ấy; tình huống này được gọi là hết quan, tàn dân, thu quân, kéo về hay hết quan, tàn dân, thu quân, bán ruộng. Ô quan có ít dân (có số dân nhỏ hơn 5 phổ biến được coi là ít) gọi là quan non và để cuộc chơi không bị kết thúc sớm cho tăng phần thú vị, luật chơi có thể quy định không được ăn quan non, nếu rơi vào tình huống đó sẽ bị mất lượt.
Trong cách chơi truyền thống có sử dụng một số bài đồng dao, dưới đây là một bài trong số đó:
Hàng trầu hàng cau
Là hàng con gái
Hàng bánh hàng trái
Là hàng bà già
Hàng hương hàng hoa
Là hàng cúng Phật.
10 .Trò chơi : Đánh bi
*Luật chơi
Bi hòm, hay bi lồ: vẽ một vòng tròn hoặc hình vuông nhỏ (có đường kính hoặc cạnh khoảng 20-30 cm) gọi là hòm hay lồ, cách đó 1,5-2m vẽ một vạch thẳng. Mỗi người chơi góp một số lượng bi bằng nhau và cho vào hòm. Những người chơi lần lượt bắn bi cái từ vạch thẳng về phía hòm. Viên bi của người nào dừng lại ở gần hòm nhất nhưng không nằm trong hòm thì người đó được quyền chơi lượt đầu tiên và cứ như thế cho đến người cuối cùng. Trường hợp bi dừng lại trong hòm thì tính như nó dừng ngay tại vạch. Tiếp theo, người chơi bắn bi cái từ vị trí của nó vào những viên bi trong hòm nhằm đưa những viên bi đó ra ngoài. Những viên bi bị bắn ra khỏi hòm sẽ thuộc về người chơi. Khi khai cuộc, người chơi cũng được quyền bắn thẳng vào bi trong hòm, nếu có ít nhất một viên bi ở hòm bị đẩy ra ngoài và bi cái không dừng trong hòm thì người đó được tiếp tục bắn nữa. Người chơi mất lượt khi không đưa được viên bi nào ra khỏi hòm và/hoặc bi cái bị dừng lại trong hòm. Nếu đưa được bi trong hòm ra ngoài nhưng bi cái lại nằm trong đó thì những viên bi ấy được đưa trở lại vào hòm, thậm chí người chơi có thể bị "phạt" phải đưa thêm bi của mình vào. Những người chơi giỏi thường bắn bi sao cho bi trong hòm bắn ra ngoài còn bi cái bật trở lại rồi dừng ngay gần hòm để lần bắn tiếp theo thuận lợi hơn. Cuộc chơi kết thúc khi tất cả bi trong hòm đã hết. Cũng giống như đánh đáo, những viên bi người nào bắn bi khỏi hòm sẽ của người đấy. Kết thúc cuộc chơi thì có người còn bi, người hết bi. Trong thể thức này, người chơi hay dùng những viên bi cái to, nặng để có thể từ vạch bắn ngay được bi từ trong hòm ra ngoài.
Bi hào hay bi tàng: vẽ hai vạch thẳng song song cách nhau khoảng 2-3 m, gọi là hào. Một vạch làm điểm xuất phát còn một vạch là đích. Ở vạch đích có thể vẽ thêm một hình chữ nhật ở giữa, dài 20-30cm, rộng 7-10cm gọi là tương. Những người chơi lần lượt bắn bi từ vạch xuất phát sao cho bi dừng lại ở trong tương và càng gần vạch đích càng tốt nhưng không vượt quá vạch. Tiếp đến những người chơi sẽ xác định thứ hạng của những viên bi theo luật sau:
Bi ở trong tương xếp trên bi ở ngoài tương.
Cùng ở trong tương hoặc ngoài tương thì bi của ai gần vạch hơn sẽ xếp trên. Nếu bi vượt quá vạch thì thứ hạng được xếp ngược lại, viên bi nào xa vạch hơn sẽ xếp trên.
Khi có hai người trở lên cùng có bi dừng đúng vạch hoặc cách vạch một khoảng bằng nhau thì người nào bắn sau được xếp trên. Để do khoảng cách đến vạch trong những trường hợp khó xác định bằng mắt thường thì trẻ em hay dùng dây hay que để đo. Người xếp đầu tiên được quyền bắn bi của mình lần lượt vào những viên bi xếp từ thứ hai trở đi, nếu bắn trúng thì được "ăn" một số viên bi của người đó, nếu bắn trượt thì lượt chơi chuyển sang cho chính người có bi bị bắn. Do luật chơi như vậy nên khi thấy một người nào đó có khả năng xếp thứ nhất rất cao (ví dụ đã đưa được bi dừng đúng vạch và ở trong tương) thì những người chơi sau sẽ tìm cách gây khó khăn cho người đó bằng cách cố bắn bi sao cho thứ hạng của những viên bi xếp liền nhau càng xa nhau càng tốt. Việc này gọi là "giằng". Số lượng bi mà mỗi lần bắn trúng được "ăn" do những người chơi thỏa thuận với nhau. Nếu bi dừng ở trong tương thì được gấp lên theo một hệ số nào đó (phổ biến là gấp đôi bình thường), dừng ở trong tương nhưng lại ở đúng vạch đích lại được gấp lên tiếp.
Bi biển hay bi bể: những người chơi vẽ một đường khép kín co hình dạng bất kỳ và chu vi tương đối rộng. Khi bắt đầu cuộc chơi, những người tham gia tùy ý chọn vi trí đặt viên bi của mình ở trong hình vẽ đó. Thứ tự lượt chơi được xác định bằng "oẳn tù tì", những người chơi tìm cách bắn bi của người khác ra khỏi hình vẽ, người bị bắn ra mất cho người bắn một số bi theo thỏa thuận. Cái thú vị của thể thức này là rình rập nhau để chờ cơ hội khi bắn bi trong hình vẽ xác định, bắn đối phương không chắc trúng sẽ dẫn đến nguy cơ bi của mình lăn ra ngoài hoặc ở gần đối phương dễ bị bắn trúng. Hình vẽ cũng thường là hình đa diện lõm, người chơi khi bắn bi không được phép bắn viên bi của mình ra ngoài vạch kể cả viên bi đang trong hành trình và cuối cùng vẫn dừng lại trong hình.
Bi gẩy: là trò chơi của các bé gái, tên gọi phổ biến là khía - đùng, mô phỏng những động tác khi chơi. Thể thức này rất đơn giản, những người chơi góp vào số bi bằng nhau rồi "oẳn tù tì" để xác định người được chơi lượt đầu tiên. Người chơi rải cả nắm bi lên mặt đất sao cho càng đều càng tốt và khoảng cách giữa những viên bi vừa phải. Tiếp đến người chơi sẽ chọn ra một cặp bi, dùng bất kỳ ngón tay nào di trên mặt sân chơi ở khoảng cách giữa hai viên bi đó, gọi là khía. Nếu ngón tay chạm vào bi sẽ bị mất lượt còn nếu không, người chơi sẽ dùng ngón tay gẩy viên bi này vào viên bi kia, gẩy trúng (gọi là đùng) và cả hai không bị chạm vào bất cứ viên nào khác sẽ được "ăn" hai viên bi này, ngược lại thì mất lượt. Cuộc chơi kết thúc khi toàn bộ bi đã bị "ăn" hết. Do khi rải thường có những viên bi nằm rất sát nhau, không thể khía được nên người chơi phải tìm cách "ăn" dần từng viên một để có thể ăn được nhiều bi. Bi gẩy còn được chơi bằng những
11.Trò chơi :U
Trò chơi u cần số người từ mười người trở lên, chia thành hai đội A & B. Mỗi bên có số đội viên đều nhau.
*Sân chơi : U được chơi trên khoảnh sân vuông rộng chia đôi, mỗi bên thuộc về một đội có lằn ấn định làm "biên giới". Ở hai đầu sân đối nhau là "ngục", thường đặt khoảng năm sải bước chân bên kia biên giới.
* Cách chơi :Trò chơi bắt đầu khi một đội viên bên A vượt biên giới qua B tấn công. Đội viên đó miệng phải phát âm "u..." liên tục, không được ngắt hơi và lớn đủ để đối phương nghe thấy. Trong khi đó bên B sẽ cố xúm vào bắt đội viên này. Nếu ghì được người đó và người này ngừng phát âm "u..." vì cạn hơi không về được bên A thì B đã bắt được tù nhân bên A. Tuy nhiên nếu đội viên bên A đụng được bất cứ ai bên B và trở về bên A an toàn trước khi đứt hơi "u" thì tất cả những người bên B bị đụng được coi như bị bắt sang A làm tù binh.
Tù binh thì đem giam vào "ngục".
Hai bên lần lượt vượt biên giới để bắt tù binh. Mỗi bên có thể cứu tù binh đồng đội được nếu xông vào đến ngục được và đụng được đồng đội đã bị bắt. Những người bị bắt thì dang tay nối nhau thành hàng dài để vươn ra gần biên giới hòng với được người sang cứu. Trong khi đó bên phòng thủ thì cố 1) bắt người đối phương và 2) ngăn không cho đối phương cứu được tù binh. Tất cả mọi diễn biến xảy ra trong khi người vượt tuyến tấn công kêu "u..."
Trò chơi chấm dứt khi một bên bắt được tất cả đội viên bên kia.
12.Trò chơi ``Xỉa cá mè``. Thuộc bài đồng dao “ Xỉa cá mè”:

Xỉa cá mè
Đè cá chép
Tay nào đẹp
Đi bẻ ngô
Tay nào to
Đi dỡ củi
Tay nào nhỏ
Hái đậu đen
Tay lọ lem
Ở nhà mà rửa

Cách chơi: Đứng (hoặc ngồi) thành vòng tròn quay mặt vào nhau, 2 tay chìa ra đọc bài đồng dao. Phụ trách đứng giữa vòng tròn vừa đi vừa khẽ đập vào bàn tay người chơi theo nhịp bài ca, mỗi tiếng đập vào một tay.
- Luật chơi: Tiếng cuối cùng “Rửa” rơi vào tay ai thì người đó phải ra khỏi hàng hoặc bị phạt phải làm một trò khác rồi mới được vào chơi.
13.Rồng rắn lên mây
* Cách chơi:

Một người đứng ra làm thầy thuốc, những người còn lại sắp hàng một, tay người sau nắm vạt áo người trước hoặc đặt trên vai của người phía trước. Sau đó tất cả bắt đầu đi lượn qua lượn lại như con rắn, vừa đi vừa hát:
Rồng rắn lên mây
Có cây lúc lắc
Hỏi thăm thầy thuốc
Có nhà hay không?
Người đóng vai thầy thuốc trả lời:
- Thấy thuốc đi chơi ! (hay đi chợ, đi câu cá , đi vắng nhà... tùy ý mà chế ra). Đoàn người lại đi và hát tiếp cho đến khi thầy thuốc trả lời:
- Có !
Và bắt đầu đối thoại như sau : Thầy thuốc hỏi:
- Rồng rắn đi đâu?
Người đứng làm đầu của rồng rắn trả lời:
- Rồng rắn đi lấy thuốc để chữa bệnh cho con.
- Con lên mấy ?
- Con lên một
- Thuốc chẳng hay
- Con lên hai.
- Thuốc chẳng hay
Cứ thế cho đến khi:
- Con lên mười.
- Thuốc hay vậy.
Kế đó, thì thầy thuốc đòi hỏi:
+ Xin khúc đầu.
- Những xương cùng xẩu.
+ Xin khúc giữa.
- Những máu cùng me.
+ Xin khúc đuôi.
- Tha hồ mà đuổi.
Lúc đó thầy thuốc phải tìm cách làm sao mà bắt cho được người cuối cùng trong hàng.
Ngược lại thì người đứng đầu phải dang tay chạy, cố ngăn cản không cho người thầy thuốc bắt được cái đuôi của mình, trong lúc đó cái đuôi phải chạy và tìm cách né tránh thầy thuốc. Nếu thầy thuốc bắt được người cuối cùng thì người đó phải ra thay làm thầy thuốc.
Nếu đang chơi giằng co giữa chừng, mà rồng rắn bị đứt ngang thì tạm ngừng để nối lại và tiếp tục trò chơi.
14.Bịt mắt bắt dê
*Cách chơi:
Một người xung phong để mọi người bịt mắt lại bằng một chiếc khăn để không nhìn thấy, những người còn lại đứng thành vòng tròn quanh người bị bịt mắt.
Mọi người chạy xung quanh người bị bịt mắt đến khi nào người đó hô “bắt đầu” hoặc “đứng lại” thì tất cả mọi người phải đứng lại, không được di chuyển nữa. Lúc này người bị bịt mắt bắt đầu lần đi xung quanh để bắt được ai đó, mọi người thì cố tránh để không bị bắt và tạo ra nhiều tiếng động để đánh lạc hướng. Đến khi ai đó bị bắt và người bị bịt mắt đoán đúng tên thì người đó sẽ phải ra “bắt dê”, nếu đoán sai lại bị bịt mắt lại và làm tiếp.
Có ai đó muốn ra chơi cùng thì phải vào làm luôn, người đang bị bịt mắt lúc này được ra ngoài hoặc là phải oẳn tù tì xem ai thắng.


Trò chơi trẻ con ngày xưa (4)



Trò chơi 5-10-15...
( Sưu tầm và biên soạn)

Các nhà giáo dục băn khoăn, loay hoay đi tìm một phương pháp giáo dục trẻ em thật sự có hiệu quả trong thời đại mà thông tin bùng nổ và kỹ thuật điện tử xâm nhập đến từng mái trường, từng gia đình, đến từng trẻ em.



Làm sao có thể yên tâm với con em mình khi chúng hàng ngày vòi vĩnh tiền bạc của cha mẹ để xúm xít bên những trò chơi điện tử, những karaoke, hay vào những trang web không hợp với lứa tuổi? Cũng như trước đây, ta đã từng chứng kiến sự tràn ngập của khối vuông rubic lăn tròn trên tay chẳng những ở trẻ em mà cả người lớn nữa.


Bịt mắt bắt dê

Ở đây, ta không nói chuyện được - mất trong những trò chơi đó. Nhưng có lẽ hầu như chúng ta đã lãng quên một phương pháp giáo dục đầy hiệu quả mà chúng ta có sẵn: đó là kho tàng đồng dao và trò chơi trẻ em. Riêng về lĩnh vực giáo dục, kho tàng này cung cấp nội dung và phương pháp giáo dục “không thầy, không sách” tương đối rõ ràng và đầy đủ hơn cả.

Rồng rắn lên mây Rồng rắn lên mây Có cây lúc lắc Hỏi thăm thầy thuốc Có nhà hay không?

Đồng dao bao gồm nhiều loại: Các bài hát, câu hát trẻ em, lời hát trong các trò chơi, bài hát ru em... Trò chơi cũng lắm, như trò chơi vận động (dung dăng dung dẻ, chơi khăng, đánh đáo), trò chơi học tập (đánh chuyền, đánh ô), trò chơi mô phỏng (đi chợ, làm nhà), trò chơi sáng tạo (xếp thuyền, đánh trận, chơi diều). Cả kho tàng phong phú ấy là phương tiện giáo dục trí, đức, thể, mỹ cho các em. Qua đó phát triển tâm lý, thể lực, trí tuệ trước mắt và nhân cách của các em trong tương lai.

Trò chơi trốn tìm




Chơi ô ăn quan





Thật vậy, ông bà ta nhận thức rằng để giáo dục trẻ em phải thông qua con đường tình cảm là hiệu quả nhất. Đầu tiên là tình mẹ con tràn trề thấm thía qua những bài hát ru “cục ta cục tác, con diều hâu hung ác, gà con ở đâu, về mau mẹ ủ, mẹ con đông đủ, chẳng sợ diều hâu”. Rồi đến tình cảm với những vật gần gũi: con gà, con chó, cái chổi, con dao... Trong lời hát, truyền cho các em sự cảm thông nồng ấm. Dần dần, rộng ra một chút, cho các em tiếp xúc với thiên nhiên rộng lớn bên ngoài. Rồi không ai không buồn cười, thú vị khi em bé đút hạt xôi vào miệng dế mèn hay kết những cánh hoa thành áo cho cào cào: “Cào cào giã gạo tao xem, tao may áo đỏ, áo đen cho mày”. Từ tình yêu với con sâu, cái kiến, khi các em lớn lên vài tuổi, tiếp xúc, tham gia công việc đồng áng với người lớn, các em yêu cả những con chim, con cò, con trâu, con nghé... quanh mình. Các bài đồng dao Gọi mẹ, Gọi nghé của trẻ mục đồng; đồng dao về chim, về lá, về hoa quả... đều toát lên một tình cảm yêu thiên nhiên, yêu lao động đậm đà bát ngát.

Bắn bi








Đá banh bàn
Đồng dao cung cấp cho các em kiến thức, không là kiến thức hệ thống như tư duy người lớn mà là trình bày liệt kê, dừng lại ở những nét bề ngoài dễ nhớ, dễ phân biệt, kích động trí tò mò ở trẻ em. Đó là công dụng đồ vật: “Con trâu cày xiên, cái liềm gặt lúa”, phân biệt giống vật “Chàng chàng lót ổ bụi tre, chèo bẻo lót ổ mái đình”. Hay dạy cho các em chơi chữ, tập quan sát: “No lòng phỉ dạ là con cá cơm, không ướp mà thơm là con cá ngát, liệng bay thấm thoát là con cá chim”. Phải chăng đây là cách dạy từ ngữ vui nhộn phù hợp với các em, làm các em nhớ đến tên loài vật xung quanh mình?


Chơi bông vụ, con cù




Dzích hình

Chẳng những cung cấp kiến thức tự nhiên, đồng dao còn là một kho kiến thức xã hội, về hội hè, đình đám, trong họ ngoài làng, về đồ ăn, thức uống: “Những nồi cơm nếp, những tệp bánh chưng, mứt bí, mứt gừng, mứt chanh, mứt khế”. Các em được chuẩn bị từ tuổi hoa niên những kiến thức về nghề nghiệp trong xã hội sau này: “Ông thầy có sách, thợ ngạnh có dao, thợ rèn có búa” hay: “Ai cày ruộng nuôi trâu, ai trồng dâu nuôi tằm, ai hay nằm nhịn đói”. Đồng dao cũng dạy các em phê phán thói hư tật xấu, sự lười nhác: “Cho đi học chữ- nhiều chữ ai vay, cho đi học nghề- rằng nghề ở tớ, cho đi làm thợ- nói: nghề ấy buồn”... Thậm chí, các em bé gái được đồng dao trang bị cho kiến thức nữ công gia chánh đặc biệt: “Bắt được cua bấy đem về nấu canh, băm tỏi băm hành, xương sông lá lốt”, hay “canh ốc thì ngọt, canh bứa thì chua”.

Búng thun

Đồng dao được các em hát trong lúc tổ chức trò chơi. Nhiều khi lời đồng dao được hát, tổ chức trò chơi dường như không có đề tài nào tập trung, gặp đâu nói đó, chỉ cốt cho vần vè, còn ý nghĩ chung thì rời rạc, câu nọ xọ câu kia, chuyện này sang chuyện khác. Trẻ em vẫn thích thú vì nó phù hợp với trí lực của các em, không thể đòi hỏi các em tư duy như người lớn được. Đồng dao và trò chơi trẻ em được tiếp thu bằng ấn tượng về ngoại vật chứ không phải bằng lý luận.

Chơi đáo lỗ

Có thể thấy việc học văn hóa cơ bản qua đồng dao và trò chơi không dạy chữ, thế mà các em vẫn đếm, vẫn tính nhẩm, cộng trừ từ “chuyền một” đến “chuyền chuyền mười”, từ “năm lên sáu” hay “bốn lên bảy” trong trò chơi chuyền chuyền... Trò chơi “đánh ô ăn quan” dạy trẻ em tính nhẩm về chia, trừ, quan sát chiều ngược, chiều xuôi để động não một cách tự lực chỉ có bạn mà không có thầy. Thật là một cách giáo dục có ý nghĩa.



Đá cá lia thia



Đá kiến

Trò chơi còn giáo dục thể lực ở trẻ. “Đánh chuyền” với động tác “nâng lấy một, chộp lấy đôi, sang tay qua, ra tay chống” chẳng phải có tác dụng luyện gân, các cơ ở cổ tay, cánh tay, khuỷu tay cho bé gái sao? Trò “đánh khăng” ít nhiều là môn thể thao là sự vận động toàn diện kết thúc với chạy, nhảy, đuổi bắt, cõng nhau. Còn bao trò chơi khác với cách thức luyện tập khác nữa. Quan sát kỹ ta thường thấy các trò chơi thường lặp đi lặp lại. Người lớn xem hay chơi có thể chán, nhưng với trẻ em đó là một việc thú vị. Cùng cách chơi “Đuổi bắt” nhưng được các em biến hóa xê dịch trong nhiều trò chơi... Qua trò chơi, các em được dịp rèn luyện mắt, chân tay, luyện thính giác, khướu giác...



Nu na nu nống
Cái cống nằm trong
Cái ong nằm ngoài
Củ khoai chấm mật
Bụt ngồi bụt khóc
Con cóc nhảy ra
Ông già ú ụ
Bà mụ thổi xôi
Nhà tôi nấu chè
Tè he chân rụt.


Chi chi chành chành Cái đanh thổi lửa Con ngựa đứt cương Ba vương ngũ đế Chấp chế đi tìm Ù à ù ập


Chuyền banh với đũa Cái mốt, cái mai/ Con trai, con hến/ Con nhện chăng tơ/ Quả mơ, quả mận/ Cái cận, lên bàn đôi/ Đôi chúng tôi/ Đôi chúng nó/ Đôi con chó/ Đôi con mèo/ Hai chèo ba/ Ba đi xa/ Ba về gần/ Ba luống cần/ Một lên tư/ Tư củ từ/ Tư củ tỏi/ Hai hỏi năm/ Năm em nằm/ Năm lên sáu/ Sáu lẻ tư/ Tư lên bảy/ Bảy lẻ ba/ Ba lên tám/ Tám lẻ đôi/ Đôi lên chín/ Chín lẻ một/ Mốt lên mười/ Chuyền chuyền một, một đôi... 


Chơi đá dế



Và sau cùng đồng dao và trò chơi như những chất keo nối kết những tình bạn trong sáng, ngây thơ giữa lũ trẻ với nhau mà ta khó tìm thấy trong những trò chơi hiện đại ngày nay.



Chơi cờ cá ngựa




Chơi cờ gánh


Chơi cướp cờ


Đá banh


Đá gà chọi




Đá gà hay đá ngựa

Đánh khăng




Đẩy cây


Chơi rải ranh




Chơi nhảy lò cò


Nhảy bao bố


Chơi nhảy cừu, nhảy ngựa


Chơi nhảy dây










Chơi ống thụt

Chơi bắn súng bằng cuống lá chuối





Tắm mưa




Chơi tạt lon


Thả diều










Đánh bài trét lọ nghẹ


Chơi U

Sẽ có hai người đứng giơ cao tay, những người còn lại sẽ nối đuôi nhau và vừa đi vừa đọc: "Thiên đàng địa ngục hai bên. Ai khôn thì nhờ, ai dại thì sa...". Khi đọc hết, hai người giơ tay sẽ hạ tay xuống, nếu ai bị chăn lại sẽ phải có hai lựa chọn: Thiên đàng hay Địa ngục. Nếu chọn Thiên đàng bạn sẽ được 2 người chủ trì làm thành cái võng bằng tay và khiêng bạn bạn một đoạn xa, nếu can đảm chọn Địa ngục bạn sẽ bị chặt cổ, chặt tay. Cứ thế trò chơi sẽ tiếp tục cho đến khi tất cả thành viên để phải đưa ra chọn lựa: Thiên đàng hay Địa ngục.


Thả đỉa ba ba
Chớ bắt  đàn bà
Tha tội  đàn ông
Cơm trắng gạo trắng
Gạo thuyền như nước
Ðổ mắm đổ muối
Ðổ chuối  hạt tiêu
Ðổ niêu  nước chè
Ðổ phải nhà nào
Nhà ấy.... chịu



Kho tàng đồng dao và trò chơi trẻ em Việt Nam quả thật là những hình thức giáo dục thiếu nhi, nhi đồng có hiệu quả. 
Tiếc rằng, với cuộc sống hiện tại, nó dần mai một đi trong thực tế. Chúng ta hiếm khi bắt gặp hình ảnh các em tụm năm tụm 
bảy rồng rắn lên mây, bịt mắt bắt dê... vào những đêm trăng sáng. Có đứa trẻ nào biết đến những bài đồng dao phù hợp với 
mình? Nhà trường có giảng dạy đồng dao nhưng đó chỉ trên lý thuyết, mà cũng thật ít ỏi làm sao!

Sưu tầm nắp phén ở mấy chỗ bán nước giải khát , trên đường để chơi thảy nắp phén vô lỗ và dùng chàm ( cục đá được mài dẹp và nặng vừa tay ) để chọi nắp phén , có 2 loại nắp đã đập dẹp và chưa đập ( loại chưa đập có giá trị cao hơn ) các loại nắp phén có màu sắc sặc sỡ như fanta , stop , con nai , 33 xanh , đỏ rất được ưa chuộng .Trong một ván chơi , nếu ai thảy vô lổ cả xấp nắp phén thì coi như trúng mánh ván đó !


Mèo đuổi chuột
Trò chơi gồm từ 7 đến 10 người. Tất cả đứng thành vòng tròn, tay nắm tay, giơ cao lên qua đầu. Rồi bắt đầu hát. 
Mèo đuổi chuột Mời bạn ra đây
Tay nắm chặt tay
Đứng thành vòng rộng
Chuột luồn lỗ hổng
Mèo chạy đằng sau
Thế rồi chú chuột lại đóng vai mèo
Co cẳng chạy theo, bác mèo hóa chuột

Một người được chọn làm mèo và một người được chọn làm chuột. Hai người này đứng vào giữa vòng tròn, quay lưng vào nhau. Khi mọi người hát đến câu cuối thì chuột bắt đầu chạy, mèo phải chạy đằng sau. Tuy nhiên mèo phải chạy đúng chỗ chuột đã chạy. Mèo thắng khi mèo bắt được chuột. Rồi hai người đổi vai trò mèo chuột cho nhau. Trò chơi lại được tiếp tục.



***
Đồng dao, đồng diêu : 
câu hát chơi, con nít hay hát. Đó là định nghĩa đơn giản nhất của Huình Tịnh Paulus Của, trong đại Nam Quấc Âm Tự Vị, cuốn tự điển đầu tiên của Việt Nam, xuất bản năm 1895 tại Sàigòn.

36 năm sau, Ban Văn học Hội Khai Trí Tiến đức khởi thảo Việt Nam Tự điển, Mặc Lâm xuất bản tại Hà Nội năm 1931 và Nhà In Imprimarie Trung Bắc Tân Văn phát hành, cũng định nghĩa ngắn gọn. Đồng dao: câu hát trẻ con. Hơn thế kỷ sau, tức là cả 103 năm sau, Đại Từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý, do Bộ Giáo dục và đào tạo, Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nhà xuất bản Văn hóa Thông tin phát hành năm 1998, định nghĩađồng dao: lời hát truyền miệng của trẻ con, nhưng không đưa ra một câu nào.

Đồng dao được truyền từ đời này tiếp đời nọ, vùng này qua vùng kia, có khi thay đổi, có khi sai lạc, có khi thất truyền, và bị quên lãng. Tác giả hẩu hết vô danh, hay nói đúng hơn, chính dân gian là tác giả.

Dạy con từ thuở lên ba, nhưng từ lúc lọt lòng mẹ qua ba tháng biết lẩy bẩy tháng biết bò cho đến khi lổm ngổm tập ngồi bi bô tập nói lựng chựng bước đi, với Việt Nam ta, tiếp nối lời mẹ ru, đồng dao giữ phần quan trọng trong giáo dục gia đình, chuẩn bị cho trẻ đến trường với khoa sư phạm áp dụng phương pháp giúp trẻ con vừa vui chơi giải trí vừa học hỏi, phát triển các khả năng cơ thể và mở mang trí tuệ. Hát mà chơi. Hát mà học. Hát chơi mà học thật.

Thuở ban đầu, đồng dao chỉ được truyền miệng, nhưng nhờ ngắn gọn đơn giản ba, bốn hoặc năm chữ, có khi ngô nghê, nhưng vần điệu tiết tấu nhịp nhàng nên rất dễ hiểu dễ nhớ. Về sau, rất nhiều bài đồng dao được đặt nhạc nên được phổ biến rộng rãi. Trong hàng trăm bài đồng dao truyền miệng và hàng ngàn bản nhạc, chúng tôi chỉ nêu một số bài đồng dao truyền miệng từ Bắc qua Trung vào Nam, còn nhớ hoặc tìm tòi sưu tầm được, và đồng dao được phổ nhạc, cùng một số nhạc phụ lục. Chuyện bổ túc theo đà tiếp nối rất dễ dàng thuận tiện.


Những trò chơi đầu tiên chỉ có mẹ và con. Khi trẻ bớt ngủ ngày, tức vào khoảng một tháng sau khi ra đời, trẻ bắt đầu biết nghe và nhìn. Bài học đầu tiên có thể chỉ tập cho con theo dõi, nhận xét, ghi nhận. Mẹ chỉ cho con biết những phần trên cơ thể, cả danh từ lẫn động từ tĩnh từ: mắt mở mắt nhắm, mắt đen mắt nâu, miệng nói môi cười, răng trắng, tai nghe, tóc đen tóc trắng, tóc ngắn tóc dài, tay nắm, chân đạp ...

Trẻ chưa biết ngổi, có thể cùng mẹ chơi trò Cất Rớ Chống Rớ , đặt con nằm ấp trên hai ống chân mẹ, mông con an vị trên hai bàn chân mẹ, hai tay nắm chặt hai tay con, mẹ nằm ngửa, vừa nâng hai chân lên cao vừa đọc:

Cất rớ lên! Bỏ rớ xuống! 
Cá chi? Cá bống! Chống rớ! 
Cá chi? Cá rô! Chống rớ!! 
Cá chi? Cá hồng! Chống rớ! ...

Vẫn vị thế đó, có thể đổi cách chơi qua trò cỡi ngựa, hát mà chơi, nhún nhẩy đong đưa theo bài đồng dao:

Nhong nhong nhong nhong 
Ngựa ông đã về 
Cắt cỏ bồ đề 
Cho ngựa ông ăn 
Nhong nhong nhong nhong ...

Mẹ tập con chơi mà học, quan sát theo dõi:

Một ngón tay nhúc nhích này/ một ngón tay nhúc nhích này 
Một ngón tay nhúc nhích cũng đủ cho ta vui vầy... 
Hai ngón tay nhúc nhích này/ hai ngón tay nhúc nhích này! 
Hai ngón tay nhúc nhích cũng đủ cho ta vui vầy! ...

và cứ thế tiếp tục cho đến mười ngón. Bài này có phần nhạc ở phụ lục.

Tay mẹ tay con có nhiều trò thú vị. Hát mà chơi với bài đồng dao Kéo Cưa Lừa Xẻ, khi con biết ngồi, hai mẹ con cùng nắm tay nhau kéo qua kéo lại:

Kéo cưa lừa xẻ/ ông thợ nào khỏe/ về ăn cơm trưa 
Ông thợ nào thua/ về bú tí mẹ

hay: Cút ca cút kít/ làm ít ăn nhiều/ nằm đâu ngủ đấy 
Nó lấy mất cưa/ lấy gì mà kéo!!!

Vẫn tay mẹ tay con:

Xỉa cá mè/ đè cá chép 
Tay nào đẹp/ đi hái hoa 
Tay nào thô/ đi mót củi 
Tay dính bụi/ đừng dụi mắt ...
Chơi Diều, tranh Võ đình, UNICEF 69
Cũng bài Xỉa Cá Mè nhưng chơi với hai chân:

Xỉa cá mè/ đè cá chép 
Chân nào đẹp/ đi buôn men 
Chân nào đen/ ở nhà làm... chó (hay mèo) và sủa gâu gâu như chó hoặc kêu meo meo như mèo để mẹ con cùng vui.

Mẹ con vuốt tay vỗ đập tay nhau nhịp hai theo bài đồng dao Vuốt hột nổ nói đến những vật dụng hàng ngày. Bảo con chắp tay lai, mẹ cũng chắp tay xong mở ra vuốt hai bàn tay con, vừa vuốt vừa đọc, mỗi lần vuốt xong là vỗ tay, và có thể tiếp nối vô tận:

Vuốt hột nổ 
đổ bánh bèo 
Xao xác ... quạ kêu 
Nồi đồng vung méo/ cái kéo thợ may 
Cái guộng đắp bờ/ cái cờ làng tế 
Cái ghế để trèo/ cái khoèo mót củi 
Cái chủi tòe loe/ cái khe nước chảy 
Cái xảy xảy rơm/ cái nơm chơm cá 
Cái ná bắn chim/ cái kim may áo 
Cái gáo múc nước/ cái lược chải đầu 
Cái câu câu cá/ cái rá vo gạo ...

Mẹ con ngồi đối mặt nhau, mẹ vừa hát vừa tập con vỗ tay. Hát mà học, vì khi lớn lên bé sẽ cùng vui chơi với anh hoặc chị, và cách chơi khó hơn: vừa đọc bài đồng dao vừa tự vỗ tay mình xong vỗ tay trái chéo vào tay trái người kia; trở lại tự vỗ tay, rồi vỗ tay phải mình chéo qua tay phải người kia, và tiếp tục ban đầu chậm sau nhanh dần cho đến hết bài. Một bài đồng dao khác cho trò chơi này là:

Tập tầm vông 
Chị lấy chồng/ em ở góa/ chị ăn cá/ em mút xương 
Chị nằm giường/ em nằm đất/ chị húp mật/ em liếm ve 
Chị ăn chè/ em liếm bát/ chị coi hát/ em vỗ tay 
Chị ăn mày/ em xách bị/ chị làm đĩ/ em thâu tiền 
Chị đi thuyền/ em đi bộ/ chị kéo gỗ/ em lợp nhà 
Chị trồng cà/ em trồng bí/ chị tuổi Tý/ em tuổi Thân 
Chị tuổi Dần/ em tuổi Mẹo 
Chị kéo kẹo/ em nấu đường/ chị trồng thơm/ em trồng khóm 
Chị đi xóm/ em coi nhà/ chị thờ cha/ em nuôi mẹ 
Chị trồng hẹ/ em trồng hành/ chị để dành/ em ăn hết 
Chị đánh chết/ em la làng/ chị đào hang/ em chui tuốt ...

Vẫn trò chơi dùng hai tay nhưng đông người hơn, có thể dùng một cái gậy hay thanh trúc để các em nắm tay chồng lên nhau lần lượt và tiếp tục cho hết bài. Không có gậy thì chỉ cần chồng tay lên nhau. Trò chơi này gọi là Hát đúm/ Cùm nụm cùm nịu hay Tay tí tay tiên:

Cùm nụm cùm nịu/ tay tí tay tiên 
đồng tiền chiếc đũa/ hột lúa ba bông 
ăn trộm ăn cắp trứng gà 
Bù xa bù xít/ con rắn con rít 
Thì ra tay này!

Vẫn tay mẹ tay con, khi con biết xử dụng tay chân, mẹ con cùng chơi trò thi chân đẹp hoặc mẹ giúp con theo dõi chơi Nu na Nu nống cùng các anh chị. Ngồi trong lòng mẹ, bé chỉ tập trung theo dõi, chăm chú nghe và nhìn, lanh mắt lẹ tay nhanh chân học mà chơi theo luật chung:

Nu na nu nống/ cái cống nằm trong 
Cái ong nằm ngoài/ củ khoai chấm mật 
Phật ngồi Phật khóc/ con cóc nhảy ra/ con gà ú ụ 
Nhà mụ thổi xôi/ nhà tôi nấu chè 
Tè he cống rụt! 
Nu na nu nống/ thằng công cái cạc 
đá xỉa đá xoi/ đá đầu con voi/ đá lên đá xuống 
đá ruộng bồ câu/ đá râu ông già 
đá ra đường cái/ gặp gái đi đường 
Có phường trống quân/ có chân thì rút! 
Nu na nu nống/ đánh trống phất cờ/ mở cuộc thi đua 
Thi chân đẹp đẽ/ chân ai sạch sẽ/ gót đỏ hồng hào 
không bẩn tí nào/ được vào đánh trống!

Khi trẻ khá lớn đi đứng chạy nhảy vững vàng và đến trường, gia nhập những trò chơi tập thể dễ dàng cũng như học những bài đồng dao dần dà dài khó hơn, và mẹ chỉ để mắt theo dõi, hướng dẫn hoặc nhắc nhở giúp đỡ khi cần.

Có những bài đồng dao kết cấu liên hoàn lập đi lập lại, làm điệu bộ theo lời diễn đi diễn lại cho đến khi mệt nghỉ:

Con vỏi con voi/ cái vòi đi trước 
Hai chân trước ịch đi ịch trước 
Hai chân sau ịch đi ịch sau 
Còn cái đuôi thì đi là sau rốt 
Tôi xin kể nốt cái chuyện con voi i í ị con voi 
Cái vòi í i ị đi trước ... 
Con công hay múa/ nó múa làm sao? 
Nó rụt cổ vào/ nó xòe cánh ra 
Nó đỗ cành đa/ nó kêu ríu rít 
Nó đỗ cành mít/ nó kêu vịt chè 
Nó đỗ cành tre/ nó kêu bè muống 
Nó đỗ dưới ruộng/ nó kêu tầm vông 
Con công hay múa ... 
Lúa ngô là cô đậu nành/ đậu nành là anh dưa chuột 
Dưa chuột là ruột dưa gang/ dưa gang là nàng dưa hấu 
Dưa hấu là cậu lúa ngô/ lúa ngô là cô đậu nành ...

Ba bài liên hoàn khác về chim:

Ác- là là cha ca-cưỡng/ ca-cưỡng là dượng bồ câu 
Bồ câu là dâu ác- là/ ác-là là cha cà- cưỡng ... 
Bồ-các là bác chim gi/ chim gi là dì sáo sậu 
Sáo sậu là cậu sáo đen/ sáo đen là em tu-hú 
Tu-hú là chú bồ-các/ bồ-các là bác chim gi ... 
Cái cò mày mổ cái tôm/ cái tôm quắp lại mà ôm cái cò 
Cái cò mày mổ cái trai/ cái trai quặp lại mà nhai cái cò 
Cái cò mày mổ cái tôm ...

Một bài đồng dao liên hoàn khác được đức Quỳnh phổ nhạc và hát từ Bắc vào Nam, lời lẽ ngụ ý hài hước châm biếm:

Con chim chích chòe/ nó kêu chích chòe 
Nó đậu cành chanh/ nó kêu chích chòe 
Tôi ném hòn sành/ nó quay lông lốc 
Tôi làm một chốc/ được ba mâm đầy 
Ông thầy ăn một/ bà cốt ăn hai 
Cái đầu cái tai/ đem về biếu chúa 
Chúa hỏi chim gì? - Là con chim chích chòe! 
Nó kêu chích chòe/ nó đậu cành chanh ...

Bài đồng dao có nhạc trong Nam lời hát như sau:

Con chim manh manh/ nó đậu cây chanh 
Tôi vác miểng sành/ tôi liệng nó chết 
Tôi làm được bảy mâm/ tôi dâng cho ông một mâm 
Tôi dâng cho bà một đĩa/ bà hỏi tôi con chim gì? 
Tôi nói con chim manh manh ...

Có một trò chơi trong Nam gọi là Bắc Kim thang, dùng bài đồng dao ngô nghê ngộ nghĩnh khi các em làm thành vòng tròn, chân trái xỏ rế ngoéo vào chân trái bạn, vừa vỗ tay vừa nhảy lò cò bằng chân phải và giữ không bị té, cùng hát:

Bắc kim thang, cà lang bí rợ 
Cột qua kèo là kèo qua cột 
Chú bán dầu qua cầu mà té 
Chú bán ếch ở lại làm chi? 
Con le le đánh trống thổi kèn 
Con bìm bịp thổi tò te tí te ......

Em nào không vững thăng bằng bị té là thua, bị phạt búng tai hoặc khẻ tay nếu là con gái, hoặc phải cõng bạn cùng cặp chạy một vòng nếu là con trai. Vui tếu thì phạt bằng quẹt nhọ nồi/ lọ nghẹ lên mặt. Các em trai còn bị phạt làm ngựa cho bạn cỡi, nhẹ thì dùng bài đồng dao ngắn Nhong nhong nhong nhong, mà phạt nặng hoặc trẻ lớn thì dùng bài Lý Ngựa ô. Lý Ngựa ô cũng có ba điệu phổ nhạc, Bắc, Trung và Nam.

Trò trốn tìm/ ú tim/cút bắt được trẻ con khắp thế giới vui chơi, và đồng dao ta có rất nhiều bài cả đám cùng loạt đọc lên để chọn người phải đi tìm. Bài đặc biệt có tính cách một bài sấm dính đến lịch sử, nói về giai đoạn rối loạn của triều đình Nhà Nguyễn và phong trào Cần Vương, thời ta bị Pháp đô hộ:

Chu tri rành rành/ Cái đanh nổ lửa 
Con ngựa đứt cương/ ba vương tập đế 
Cấp kế đi tìm/ ú tim ... òa ập!

Bài đồng dao trốn tìm/ thả đỉa ba ba:

Thả đỉa ba ba/ con đỉa đeo bà 
Con gà tục tác/ mỏ-nhát cầm chầu 
Con mèo cầm lái/ con rái chạy buồm 
Con tôm tát nước/ vọc nước giỡn trăng

Bài Thả đỉa ba ba khác:

Thả đỉa ba ba 
Chớ bắt đàn bà/ phải tội đàn ông 
Cơm trắng như bông/ gạo tiền như nước 
Sang sông về đò/ đổ mắm đổ muối 
đổ nải chuối tiêu/ đổ niêu cứt gà 
đổ phải nhà nào/ nhà ấy phải chiu!

Khi đám trẻ chạy tìm chỗ nấp, em còn lại phải bịt mắt đọc bài đồng dao khác đến hết mới được mở mắt đi tìm:

Mít mật mít gai/ mười hai thứ mít 
đi vào ăn thịt/ đi ra ăn xôi 
Bởi chẳng nghe tôi/ tôi bịt mắt chú 
ăn đâu ẩn kín/ lúa chín thì về!
Chơi bịt mắt bắt dê, tranh Võ đình

Ngoài Bắc có bài đồng dao khác và Phạm Duy đã mượn ý phổ nhạc:

Ông trẳng ông trăng 
Xuống chơi với tôi/ có bầu có bạn 
Có oản cơm xôi/ có nồi cơm nếp 
Có nệp bánh chưng/ có lưng hũ rượu 
Có chiếu bám đu/ thằng cù xí xoại 
Bắt trai bỏ giỏ/ cái đỏ ẵm em 
đi xem đánh cá/ đem rá vo gạo 
Có gáo múc nước/ có lược chải đầu 
Có trâu cầy ruộng/ có muống thả ao 
Ông sao trên trời ...

Hoặc:

Ông tiễn ông tiên 
Ông có đồng tiền/ ông giắt mái tai/ ông cài lưng khố 
Ông ra hàng phố/ ông mua miếng trầu/ ông nhai tóp tép 
Ông mua con tép/ về ông ăn cơm 
Ông mua mớ rơm/ về ông đánh thổi 
Ông mua cái chổi/ về ông quét nhà 
Ông mua con gà/ về cho ăn thóc 
Ông mua con cóc/ về thả gậm giường 
Ông mua nén hương/ về cúng ông cụ!

Tranh dân gian của Henry Oger đầu thế kỷ XX, 
chú thích bằng chữ Nôm: đánh Cờ Chân Chó 
Làm Hùm Bắt Lợn, tranh dân gian Henry Oger

Khi trẻ đã lớn, đã đi học và có nhiều bạn cùng lứa, có rất nhiều trò chơi dùng những thứ kiếm được ngay chung quanh hoặc tự chế lấy, ví như bắn ná làm bằng nạng ổi, bắn súng bẹ sống lá chuối, bắn súng ống hóp đạn hạt sầu đông hoặc hạt mâm xôi, bắt chuồn chuồn, buôn bán bằng hoa lá, cái lung tung/ cái trống bỏi, chong chóng bằng lá dừa, cái tó he hay con gà đất có gắn ống cói ống sậy thổi te te, con giống, cối xay làm bằng hạt xoài cưa hai, đánh căn với hai khúc tre hay gỗ, đánh bi, đánh cờ chân chó, cờ gánh bằng vỏ nghêu vỏ sò, đánh đáo, đánh đu dựng bằng tre, đánh trận giả với cây cành hoa lá như Cờ Lau Tập Trận của đinh Bộ Lĩnh thuở còn chăn trâu, đánh thẻ, đánh vụ làm bằng gỗ, đá kiện làm bằng đồng xu buộc lông, đá cầu lông, đạp mạng, đạp lon, đi chợ về chợ, kéo co với giây dừa, làm hùm bắt lợn, lộn cầu vồng, lộn chuồn chuồn, liệng cống, năm tiền liền quan, ném còn làm bằng vải vụn, ném vòng làm bằng tre hoặc mây vào cọc tre hay gỗ, nhảy giây làm bằng giây dừa, nhảy lò cò với mảnh ngói mảnh sành mảnh sứ , rải ô quan/ rải ô làng dùng sỏi, sạn hay hạt đậu, xây khăn/ bỏ khăn/ chuyền khăn, thả diều làm bằng tre dán giấy ... vô số kể.
Cờ Lau Tập Trận, tranh Võ đình

Những trò chơi hầu hết cần vận dụng đầu óc bén nhạy tinh tế tính toán chính xác, điều động tay chân nhanh nhẹn, thích nghi với môi trường thiên nhiên và luyện tập quen dần với đời sống tập thể trong cộng đồng. Hát chơi mà học thật.

Đá cầu bằng đồng xu, tranh dân gian Henry Oger

Bài đồng dao trò chơi Xây khăn trong Nam, trẻ ngồi thành vòng tròn, một em cầm khăn chạy ngoài, cùng đọc cho đến hết thì bỏ khăn sau lưng một bạn. Em này phải chú ý theo dõi để nhặt khăn chạy vòng, nhường chỗ cho bạn, nếu không biết sẽ bị loại khỏi cuộc chơi.

Xây khăn, khăn nổi khăn chìm 
Ba bên bốn phía đi tìm cái khăn 
Thằng chăn bận áo rách vai 
Không ai may vá, thằng chăn bận hoài

Trò chơi Chuồn chuồn miền Trung và Lộn Cầu Vồng ngoài Bắc có cách chơi giống nhau nhưng khác bài đọc:

- Chuồn chuồn đạp nước kim cang/ bên tê mở cửa bên ni sang lòn 
- Lộn cầu vồng nước trong nước chảy 
Có anh mười bảy có chị mười ba 
Hai chị em ta cùng lộn cầu vồng

Bài đồng dao trò Dung giăng dung giẻ đọc khi đi quanh nhiều vòng tròn, những vòng này luôn thiếu một để đến cuối khi ngồi xệp xuống sẽ có một em chậm chạp bị loại:
Dung giăng dung giẻ/ dắt trẻ đi chơi 
đi tới cổng trời/ gặp cậu gặp mợ 
Cho cháu về quê/ cho dê đi học 
Cho cóc ở nhà/ cho gà bới bếp 
Ngồi xệp xuống đây!

Một bài đồng dao về cuộc sống luẩn quẩn loanh quanh trong nhà ngoài vườn trong xóm ngoài làng là Ông Ninh Ông Nang được Lê Thương phổ nhạc:
Ông Nỉnh ông Ninh/ ông ra đầu đình/ ông gặp ông Nảng ông Nang 
Ông Nảng ông Nang/ ông ra đầu làng/ ông gặp ông Nỉnh ông Ninh 
Nang Ninh đầu đình/ và Ninh Nang đầu làng 
Nang Ninh làng đình/ rồi Ninh Nang đình làng 
Nang Ninh làng đình Nang Ninh/ Ninh Nang đình làngNang Ninh 
Nang Ninh làng đình Ninh ... 
Cô Chiểu cô Chiêu/ cô qua cầu Kiều/ cô gặp cô Thỏa cô Thoa 
Cô Thỏa cô Thoa/ cô qua vườn cà/ cô gặp cô Chiểu cô Chiêu 
Thoa Chiêu cầu Kiều/ và Chiêu Thoa vườn cà 
Rồi Thoa Chiêu cầu Kiều/ rồi Chiêu Thoa vườn dừa 
Cả Chiêu Thoa cầu Kiều Chiêu Thoa/ Thoa Chiêu vườn cà Chiêu Thoa 
Thoa Chiêu vườn cà Thoa ... 
Em Thở em Thơ/ em qua hàng dừa/ em gặp em hải em Hai 
Em Hải em Hai/ em qua vườn xoài/ em gặp em Thở em Thơ 
Thơ Hai vườn xoài/ và Hai Thơ vườn dừa 
Rồi Thơ Hai vườn xoài/ và Hai Thơ vườn dừa 
Cả Thơ Hai vườn xoài Thơ Hai/ Hai Thơ vườn dừa Thơ Hai 
Thơ Hai vườn xoài Thơ ...

Một bài đồng dao khác được phổ nhạc là Thằng Bờm, nói lên đầu óc thực tiễn của dân quê không cần xa hoa phù phiếm cung ngũ long lầu ngũ phụng dinh thự cao ốc hay đặc sản miếng ngon vật lạ, mà chỉ muốn no bụng:

Thằng Bờm có cái quạt mo/ phú ông xin đổi ba bò chín trâu 
Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu/ phú ông xin đổi ao sâu cá mè 
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè/ phú ông xin đổi ba bè gỗ lim 
Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim/ phú ông xin đổi một đôi chim mồi 
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi 
Phú ông xin đổi nắm xôi... Bờm cười!!!

Thuở nhỏ tôi nghịch ngợm hát bài đồng dao Thằng Bờm và có nhịp điệu khác: Thì ra mo cau vàng mới tinh/ phú ông lập tâm mua liền! Thằng Bờm mà biết cóc chi/ Thằng Bờm mà biết cái cóc chi! Chăng chẳng lấy trâu/ Bờm rằng thì là Bờm chăng chẳng lấy trâu đâu!!!

Trò chơi tôi thích nhất hồi còn tiểu học là đánh thẻ chuyền/ đánh banh đũa, nhưng đến nay không nhớ được trọn bài đồng dao đọc đệm. Duyên may quen một gia đình nhà quê mộc mạc, bà mệ tám mươi sáu và bà mạ sáu mươi, không biết đọc biết viết nhưng còn nhớ kỹ. Bỏ một ngày thăm hỏi cùng ôn trí nhớ, ghi trọn được trò chơi này.

Dùng tay phải nắm nguyên bó đũa 6 chiếc hoặc nhiều hơn, cùng một trái banh, có khi chỉ là quả chanh hay một bó vải vụn cuộn thành hình trái banh. Vừa thảy banh lên là trải đũa ra nhanh cho kịp bắt chụp lại trái banh, rồi lần lượt ném banh vừa bắt từng cây đũa một, rồi hai, ba, bốn ... tức là phải tính chính xác làm sao vừa ném banh lên là phải nhanh mắt nhanh tay tính toán nắm đúng số đũa cần lấy đưa ngay sang tay kia và kịp thời bắt chụp lại trái banh. Trò chơi này hình như chỉ có trẻ Việt Nam ta yêu thích và hợp với con gái. Bài đồng dao đọc theo lúc ném banh, bắt đầu ném banh và bắt một đũa, đọc tối đa đến cuối câu phải tóm lại được trái banh, nếu trật phải nhường người kia chơi:

Cái mốt (bắt một đũa) 
Cái mai/ con trai/ con hến 
Con nhện/ giăng tơ/ quả táo/ cái gáo 
Lên đôi (bắt hai đũa) 
đôi cái mõ/ đôi nồi chõ 
đôi thổi xôi/ đôi nấu chè/ đôi cành tre 
Lên ba (bắt ba đũa) 
..........

Khi nhặt hết đũa thì bỏ tất cả xuống để ném banh bốc cả nắm đổi sang các giai đoạn kế tiếp là con ba lại, con gang, sang tay cầm, kẹp nách, cầm quạt rẽ xương, sang tay giã, giã đơn hoặc giã đôi tùy giao ước ban đầu, nhập giã, rút ống, nhập ống, sang tay tao tức là chuyền. Mỗi giai đoạn này đọc tên báo sự thay đổi chuyển tiếp. Giai đoạn chuyền, một vòng hoặc hai vòng tùy giao ước trước khi chơi, vừa chuyền vừa ném banh rồi chụp banh lại và đọc:

Chuyền chuyền một/ chuyền chuyền hai/ chuyền chuyền ba 
Chuyền chuyền bốn/ chuyền chuyền năm/ chuyền chuyền sáu

Cuối cùng là nẻ hay khẻ, tức là đập cả bó đũa vào chân người thua cuộc, vừa đập vừa thảy banh vừa đọc đoạn cuối bài đồng dao:

Qua cầu, lặn cỏ/ núi đỏ như ma/ hầm sa/ mây sắc 
Bắt con cá, chặt đuôi, chặt đầu 
Têm miềng trầu, hầu chén rượu 
Ai có tiền, ngồi liền lên ghế 
Ai không tiền, liệu thế liệu thần 
Sang tay nẻ, khẻ chân
Chơi thẻ chuyền, Võđình vẽ Laihồng tuổi mười ba

Nẻ / khẻ chân xong là thắng, đoạn đồng dao cuối này lại khác nếu do các nữ sinh Đồng Khánh mà nay là những mệ có cháu nội ngoại đề huề:

Ai muốn cao, ngồi ghế / ai muốn thấp, ngồi đòn 
Ai muốn đỏ, bôi son / ai muốn vàng, bôi nghệ 
Qua cầu Chợ Kệ / về cầu Thanh Lương 
Sang tay bắt con một. - Ăn! (tức là thắng)

Đoạn cuối lúc nẻ, mấy mệ ngoài Bắc lại đọc khác:

Đầu quạ quá giang/ sang sông về đò 
Cò nhẩy gãy cây/ mây bay bèo trôi 
Ổi xanh, hành bóc/ róc vỏ, đỏ lòng 
Tôm cong đít vịt 
Sang cành nẻ/ bẻ cành xanh 
Vét bàn thiên hạ (tức là thắng)

Trong số 54 sắc dân sinh sống tại Việt Nam, người Mường là chị em của người Việt, cùng thờ Vua Hùng, cùng chung truyền thuyết một mẹ trăm con, cùng mặc yếm váy và áo tứ thân và đặc biệt cùng nói chung ngôn ngữ. Trẻ con Mường cũng có đồng dao kèm trò chơi. Ghi lại sau đây một:

Lếu lêu làng lôộc 
Tộc ngộc ngọn cơn bo (cây hoang nhỏ có trái trẻ hay hái ăn) 
Bò ăn no bò ngứa củ ráy 
Ngứa củ ráy ngứa cả cơn rư (cây nưa) 
đưa bò về Mường Tráng 
Tám mươi người kiếm cỏ/ bò đỏ bò nhà lang 
Bò vàng, bò nhà đạo Ống 
Tùng tùng tùng tùng/ ai đánh trống mường trên 
Lền khên con ca trống gáy (con gà) 
Gáy gáy trong rẫy ngoài mường/ vườn như vườn nhà ai 
Ông mo biểu mụ máy/ trấy bín biểu trấy bù (trái bí/bầu) 
Măng mu biểu măng nứa/ bố đạo biểu mệ nàng 
Quan sang biểu kẻ khó/ bó ló biểu bó nếp (bó lúa) 
Cơm nếp biểu cơm chim/ cào cào biểu châu chấu (một loại gạo ngon) 
Cắt nứa rào cho ta chào cấm/ lấy lưỡi lấm cho ta cầm tiền 
Lấy lưỡi liềm cho ta cắt bái (cỏ tranh) 
Lấy lưỡi hái cho ta hái ló (lúa) 
Náng lấy chó cho ta ăn thịt / náng con vịt cho ta ăn đùi (nướng) 
Nuôi con ca cho ta lấy mỡ (gà) 
Dệt lấy mớ lụa điều/ dệt nhiều nhiều cho ta cưới vợ ...

Trẻ con miền Bắc ngày trước rất thích chơi Phụ đồng Phụ chổi, có tính cách huyền bí như lên đồng. Bài đồng dao được đọc đi đọc lại cho đến khi đứa trẻ ngổi đồng được vía nhập:

Phụ đồng phụ chổi/ thổi lổi mà lên 
Ba bề bốn bên/ sôi lên cho chóng 
Nhược bằng cửa đóng/ phá ra mà vào 
Cách chuôm cách ao/ cách ba ngọn rào 
Cũng vào cho lọt 
Cái roi von vót/ cái vọt cho đau 
Hàng trầu hàng cau/ hàng hương hàng hoa 
Là đồ cúng Phật 
Hàng chuối hàng mật/ hàng kẹo mạch nha 
Nào cô bán quế/ vừa đi vừa tế 
Một lũ học trò/ người cầm quạt mo 
Là vợ Ông Chổi 
Thổi lổi mà lên ...

Một trò chơi được đám trẻ gái yêu thích, cách chơi giống nhau nhưng ngoài Bắc gọi là là Trồng Nụ Trồng Cà/ Trồng Nụ Trồng Hoa, và miền Trung gọi là đi Chợ Về Chợ. Phải có bốn em, chia làm hai cặp. Một cặp ngồi, lần lượt duỗi chồng từng bàn chân lên nhau rồi chồng bàn tay làm hoa, trong khi cặp kia đi qua đi lai rồi nhảy qua nhảy lại, vừa đọc:
đi chợ/ về chợ (chưa đưa chân) 
đi canh một/ về canh một (đưa một bàn chân) 
đi canh hai/ về canh hai (chồng thêm một chân, là hai bàn chân) 
đi canh ba/ về canh ba (chồng thêm, ba bàn chân) 
đi canh tư/ về canh tư (chồng thêm, bốn bàn chân) 
đi sen búp/ về sen búp (chồng thêm một bàn tay chụm lại) 
đi sen nở/ về sen nở (chồng thêm bàn tay hơi xòe nở) 
đi sen tàn/ về sen tàn (bàn tay hoa nở xòe rộng hết cỡ)

Đi Chợ Về Chợ, tranh Võ đình, XI-07

Trong trò chơi này, hai em ngồi chồng chân và xòe tay phải giữ thăng bằng, nếu bị đổ chân là thua. Hai em đi qua đi lại nhảy qua nhảy về nếu bị đụng chân hay tay hai em kia là thua. Cặp thua bị loại để hai em khác vào thay.

Nhưng trong mấy trò chơi tập thể nhân Tết Trung Thu và Ngày Nhi đồng Việt Nam, trẻ con Bắc Trung Nam đểu thích tròRồng Rắn, gồm một đoàn ôm eo ếch nhau nối dài đi vòng vòng quanh sân, vừa đi vừa reo hò theo một em dẫn dầu làm thầy thuốc đọc :

- Này, rồng kia! 
- Dạ! 
- Rồng đen hay rồng trắng? 
- Rồng trắng! 
- Rồng trắng lấy nước gạo mùa 
Rồng đen lấy nước cho vua đi cày! 
- Anh em ta cùng kéo lúa về! 
Dô ô ô ô ô ô ô ...
Tranh dân gian của Henry Oger 
Chú thích bằng chữ Nôm: Trẻ Con Làm Rồng Rắn

Bài đồng dao Rồng Rắn cản thầy thuốc cầm cái quạt mo không cho ông bắt em nào trong đoàn, vừa đi vừa hát:

Rồng rồng rắn rắn/ kéo rắn lên mây 
Thấy cây lúc lắc/ hỏi ông thầy thuốc có nhà hay không? 
- Có! 
- Mở cửa cho vào! 
- Vào làm gì? 
- Mượn cái liềm 
- Liềm làm gì? 
- Hái củi 
- Củi làm gì? 
- Nấu bánh chưng 
- Cho thầy ăn không? 
- Không!

Trò chơi Rồng Rắn không rõ có từ giai đoạn lịch sử nào, có thể liên hệ đến thảm kịch thời Trịnh Nguyễn phân tranh chiến tranh đẫm máu giữa đàng Ngoài đàng Trong, hay gần hơn, là cuộc nội chiến Quốc Cộng xốc nổi đến tận cùng đời sống ... với những nhân vật níu áo số mệnh nhau, như truyện dài Rồng Rắn của Lê Thị Huệ dẫn nhập. TròRồng Rắnđược trẻ con tham dự đông đảo nhất, cũng ôm eo ếch nối dài làm con rồng, vừa chạy vòng vòng vừa cùng đọc:

Rồng rắn lên mây có cây xúc xắc 
Xúc xắc xúc xẻ ... Có thầy thuốc ở nhà không?

Một trẻ lớn làm ông thầy thuốc cầm quạt nan phe phẩy đi ra, đủng đỉnh hỏi:

Thầy thuốc: - Rồng rắn đi đâu? 
Rồng rắn: - Rồng rắn đi lấy thuốc cho con. 
Thầy thuốc: - Con lên mấy? 
Rồng rắn: - Dạ, con lên một. 
Thầy thuốc: - Thuốc chẳng ngon! 
Rồng rắn: - Con lên hai. 
Thầy thuốc: - Thuốc chẳng ngon! 
Rồng rắn: - Con lên ba. 
Thầy thuốc: - Thuốc chẳng ngon! 
Rồng rắn: - Con lên bốn. 
Thầy thuốc: - Thuốc chẳng ngon! 
Rồng rắn: ..... 
Thầy thuốc: ..... 
Rồng rắn: - Con lên chín. 
Thầy thuốc: - Thuốc chẳng ngon! 
Rồng rắn: - Con lên mười. 
Thầy thuốc: - Thuốc ngon vậy! Xin khúc đầu! 
Rồng rắn: - Những xương cùng xẩu! 
Thầy thuốc: - Xin khúc giữa! 
Rồng rắn: - Những máu cùng me! 
Thầy thuốc: - Xin khúc đuôi! 
Rồng rắn: - Tha hồ mà đuổi!

đến đây thì đoàn rồng rắn vẫn ôm eo ếch nối nhau chạy đuổi bắt ông thầy thuốc cho kỳ được mới tan cuộc, giữa những tiếng vỗ tay reo hò cổ võ của những người đứng xem, trong số có những bà mẹ chứng kiến con mình lớn khôn trong tập thể, trong cộng đồng. Bài đồng dao này có giá trị như một bài sấm, một bài học lịch sử, và cũng là một bài luân lý giáo khoa thư nói lên tình đoàn kết nhất trí của Rồng Rắn, toàn dân quyết giữ gìn trọn khối chung, đánh đuổi quân xâm lược lăm le chiếm đất đai, đã hớt khúc đầu Nam Quan, lại xén đoạn giữa Trường Sa và gây tai hại đồng bằng Cửu Long miền Nam.

Những bài đồng dao và trò chơi trẻ con góp nhặt ở đây chưa đầy đủ và cần bổ túc, nhưng có chủ đích góp phần gìn giữ kho tàng văn học dân gian trước khi bị thất truyền hay quên lãng, chôn vùi dưới hàng hàng lớp lớp đồ nhựa lắp ráp máy móc Toys 'R' Us, CDs, DVDs, video games, PC Games, puzzles, dominos, bingo, i-pods, cell phones ... và vô số trò khác ào ạt trên mạng lưới điện tử của thời đại @ còng. Ngay tại các nước Âu Mỹ, nhiều tài liệu cũng sưu tầm ghi lại trò chơi trẻ con kèm những ballads, là thơ xưa từ thế kỷ XV/ XVI được phổ nhạc có điệp khúc lập đi lập lại, và Shakespeare từng trích dẫn vào tác phẩm.

Chúng ta đang ở đầu thế kỷ XXI. Mai sau, dù có bao giờ, phần sưu tầm biên khảo nhỏ nhoi này mong còn được đôi khilần giở trước đèn, để may ra có người mở trang sách cũ tìm hiểu về đất lề quê thói, thấy rõ ràng kho tàng văn học dân gian đặt nặng giáo dục gia đình trên vai người mẹ. Những lời ru ca dao ạ ơi ời hà hơi văn hóa mẹ vào tâm hồn trẻ từ lúc mở mắt chào đời cho đến khi chập chững lững thững những trò chơi đi kèm đồng dao, để từ đó vững bước vào xã hội.

Hát mà chơi. Hát mà học. Hát chơi mà học thật. 
Học làm NGƯỜI.