Thứ Ba, 12 tháng 5, 2015

Triệu Phong - Ký ức trường xưa III - V.Xuôi

Gồm các bài viết:
8.Thầy Bùi Ngọc Bửu - Chiếc nón lá xinh xinh
8.Lê Toan- Duyên tình một thuở 
7.Tâm Giao: - Giã Từ 
6.Nguyễn Hóa (A)- Hồi ức về trường xưa- bạn cũ
5.Trí Dũng: Tâm Lòng Rộng mở
4.Trúc Đình- NT: Duyên Thơ
3.Mâm Thị Đài - Hạ Nhớ!
2.Lê Thị Thanh Hằng- Ngôn từ của ký ức
1.Lê Bá Ích: Ký ức trường xưa




CHIẾC NÓN LÁ XINH XINH

Thầy Bùi Ngọc Bửu


Chiếc áo dài làm cho người con gái Việt Nam thật đẹp, thật duyên dáng, thật dịu dàng và quí phái; chiếc áo dài là tiêu biểu cho bản sắc văn hóa truyền thống của người phụ nữ Việt Nam; song song với sự kiện ấy CHIẾC NÓN LÁ cùng hòa nhịp chung với chiếc áo dài là mang nét đặc trưng của văn hóa dân tộc Việt. Chắc chắn trong chúng ta không ai phủ nhận điều đó…
Tôi có thể nói rằng từ nông thôn cho tới thành thị, hầu hết người dân Việt thường đội nón lá,đặc biệt là người dân của quê hương Quảng trị; một miền đất không được ưu đãi của thiên nhiên:mùa Hè thì trời nắng chói gay gắt, mùa Đông thì trời mưa triền miên bất tận; chiếc nón lá là người "bạn tri kỷ" canh cánh bên nhau suốt chiều dài sinh hoạt, sinh kế của cuộc đời mọi người dân, mà đặc biệt hơn nữa là người dân quê, thôn dã, người lao động chân lấm tay bùn...

Tôi sinh ra tại miền quê, tuổi thiếu niên theo học taị trường làng. Quê làng Tôi chuyên về nông nghiệp quanh năm gần gũi với ruộng vườn. Bởi vậy, ngoài thời gian đến trường đèn sách, Tôi còn phải phụ giúp cha mẹ dắt trâu ra đồng gặm cỏ, Tôi đã từng là chú mục đồng, ngồi trên mình trâu, đội chiếc nón lá che nắng, che mưa từ lúc rạng đông đến lúc chiều tà; ngã chiếc nón ra sau lưng nghêu ngao tiếng hát trên con đê làng; dắt trâu về nhà sau một ngày chăn trâu vui chơi thỏa thích với bọn trẻ ngoài đồng của một sự hồn nhiên niên thiếu thuở nào; trong ký ức tâm tưởng khó mà phai nhòa hình ảnh cô thôn nữ có thân hình thon thã nhưng rắn chắc, đôi chân thoăn thoắt, kẽo kịt trên vai gánh lúa vàng nặng trĩu, tấp nập trong mùa gặt nhưng vẫn gọn gàng duyên dáng với chiếc nón lá trên đầu hoặc là hình ảnh người thiếu phụ với tà áo dài, vào sáng sớm tinh mơ trên đôi vai nặng trĩu, gánh hàng nông sản: Nào sắn - khoai- ngô, môn-rau - cải vội vàng cho kịp buổi chợ hôm ấy, nhưng mà vẫn không quên chiếc nón lá xinh xinh trên đầu, miệng vẫn nụ cười tươi trên con đường làng dài và hẹp,  lắm lúc lầy lội lại gập ghềnh...
Nói chung chung thì người dân Việt đi đâu, làm gì cũng đều đội nón lá, nhất là về giới nữ: Dù là đến cơ quan, công sở làm việc; dù là ra đồng lo công việc cày cấy trồng tỉa, vun xới hay là đi chợ để mua hàng hóa tiêu dùng hoặc đi tham dự lễ hội họ tộc, làng xóm hay đình đám...hoặc là hình ảnh duyên dàng dịu dàng, dễ thương của cô nữ sinh e ấp chiếc nón lá làm say đắm chàng trai đứng nhìn theo ngơ ngẩn làm cho Tôi sực nhớ đến bài thơ của thi sĩ Thu nhất Phương :
"Sao Em biết Anh nhìn mà nghiêng nón
Chiều mùa thu mây che,có nắng đâu?
Nắng sẽ làm phai maí tóc xanh màu
Sẽ làm khô làn môi Em dịu ướt
Có sao đâu mà Em phải cúi đầu từ khước
Nếu nghiêng nón có nghĩa là từ khước
Thì mười ngón tay Em sao bỗng quấn quít đan nhau ?
Nửa vầng má Em bỗng thắm sắc hồng đào
Đôi chân bước...Anh nghe chừng sai nhịp"
Mỗi thiếu nữ đều có một cái DUYÊN để làm say đắm người khác phái; nhan sắc của Nàng đã được văn thi ca truyền đạt: có cô đẹp nhờ mái tóc thề, có khuôn mặt trái xoan, có đôi chân mày cong cong, có giọng nói the thé nhẹ nhàng. Tôi thì cho rằng cô gái đẹp khi làm duyên nghiêng nghiêng vành nón lá bởi vì chiếc nón lá che dấu ánh mắt e ấp, bẽn lẽn, rạo rực hay bâng khuâng...
Chúng ta biết có rất nhiều loại nón lá mà qua bao thời đại người dân Việt  dùng để che nắng che mưa lúc làm việc hay lao động ngoài trời; của giới nghệ sĩ biểu diễn trên sân khấu bằng những vũ điệu múa nón tuyệt vời, quay cuồng hấp dẫn cho người thưởng ngoạn, hoặc chiếc nón lá là vật quí, hữu dụng cho những chiến binh, của người lính thời phong kiến. Chúng ta có thể liệt kê một số loại nón lá như sau :
- Nón ngựa hay nón Gò Găng : Sản xuất tại Bình Định, làm bằng lá dứa, thường dùng khi đội đầu cỡi ngựa.
- Nón quai thao: Người miền Bắc thường dùng vào dịp lễ hội.
- Nón bài thơ: Sản xuất tại Huế, Thừa Thiên, là thứ nón lá trắng và mỏng có lồng hình hoặc vài câu thơ.
- Nón dấu: Nón có chóp nhọn của lính thú thời phong kiến.
- Nón rơm: Nón làm bằng cọng rơm ép cứng.
- Nón lời: Nón xé te tua ở viền
- Nón gõ: Nón làm bằng rơm, ghép cho lính thời phong kiến.
- Nón lá sen: Còn gọi là nón liên diệp.
- Nón thúng: Nón lá tròn bầu giống cái thúng.
- Nón khua: Nón của người hầu các quan laị thời phong kiến.
- Nón chão: Nón mo tròn trên đầu như cái chão úp.
Trải dài cả một quá trình lịch sử của nhiều loại nón lá mà người dân Việt đã và đang dùng rộng rãi có thể nói khắp trên mọi miền của đất nước; tuy nhiên thông thường hiện nay có ba loại nón được mọi người trên ba miền Nam Trung Bắc của Việt Nam đang phổ biến ưa chuộng: Nón Quai thao, nón Gò găng (gọi tắt là nón găng) và đặc biệt là nón bài thơ.
1.Nón quai thao: Hay còn gọi là nón ba tầm, người miền Bắc thường dùng trong các lễ hội, trong các dịp biểu diễn nghệ thuật hoặc hát quan họ tại bắc Ninh; nón làm bằng lá cọ hoặc lá gồi có hình dáng như tai nấm có quai đeo, đỉnh bằng, đường kính 70-80 cm, vành 10-12 cm; quai thao1-8 dây thao đen kết bằng tơ, chỉ, ngoài bọc tơ dệt liên tục; giới trung lưu thời xưa ưa thích vì nó có vẻ đài các và quí phái.
2.Nón Gò găng: Gọi là nón Gò Găng vì thị tứ Gò Găng là nơi sãn xuất, nơi bán sĩ. Địa phương Gò găng thuộc thị xã An Nhơn ,tỉnh Bình Định; ngoài ra nghề làm nón truyền thống trãi khắp các làng Bình Đức, Tây Đức, Châu Thành, Phú thành, Kiều An, Thuận Hạnh, huyện Tây Sơn; thôn Phú Gia, huyện Phù Cát thuộc về Bình Định; nón Gò Găng còn gọi là Nón Ngựa (Phú Gia là địa phương nổi danh sản xuất nón ngựa). Chiếc nón Gò Găng bây giờ là kết hợp hài hòa giữa nón bài thơ xứ Huế và Nón Ngựa ngày xưa, nó tiết kiệm được nguyên vật liệu, giảm tính cầu kỳ thái quá phù hợp cho tầng lớp dân lao động một nắng hai sương. Nón Gò găng được kết bằng những vành tre cật, chuốt nhỏ như cái tăm, đan thành ba lớp mể sườn, bên ngoài phủ lớp lá kè non, chằm bằng những mũi chỉ tàu thơm trắng muốt và đều đặn; trên đỉnh nón được gắn chụp bạc hoặc đồi mồi có chạm trổ Long, Lân, Qui, Phụng; quai nón được làm bằng những dải lụa đỏ hay xanh, chỗ dưới cằm có chòm tua; phải mất cả tháng trời để chằm một nón ngựa. Vì vậy giá thành rất đắt, chỉ dành cho những người cao sang quyền quí,những chức sắc quan lại triều đình; tuy nhiên, dần dần theo nhu cầu của giới bình dân nón ngựa được cải biến thành ngựa đơn, rồi nón buôn, nón chủm rẻ hơn nhiều; các loại này đều không có chụp, nó được thay bằng những tua
ngũ sắc ở chóp nón cho đẹp; đám cưới ở các vùng làm nón, nhà giàu rước dâu bằng kiệu, chàng Rể thì đội nón đi ngưạ; nhà nào nghèo cũng ráng sắm đôi nón ngựa cho cô dâu, chú rể đội đi trong ngày cưới. Từ đó có câu ca dao:
" Cưới Nàng đội nón Gò Găng
Xấp lãnh An Thái một khan trầu nguồn"
3. Nón Bài thơ: Là loại nón đặc biệt ở xứ Huế, khi soi lên ánh sáng thì thấy hiện lên bài thơ hay hình hoa văn được tạo nên khéo léo, bố cục cân đối giữa hai lớp lá. Do nhu cầu cuộc sống của các vương triều phong kiến nhà Nguyễn kéo dài 143 năm và do sự phân công lao động trong xã hội vì vậy nhiều làng nghề thủ công nổi tiếng trên vùng đất Huế được hình thành, phát triển và tồn tại cho đến ngày nay; trong đó là những làng như Phú Cam, Đốc Sơ, Dạ̣ Lê, Kim Long, Tây Hồ v... Đặc biệt người dân Tây hồ luôn luôn tự hào quê mình là xuất xứ của nón bài thơ xứ Huế;
Chiếc nón bài thơ ra đời ở Tây hồ như một sự tình cờ: Vào khoảng năm 1959-1960 Ông Bùi Quang Bặc một nghệ nhân chằm nón lá cũng là một người yêu thơ, phú trong làng đã có sáng kiến làm nên nón bài thơ bằng cách ép các câu thơ vào giữa hai lớp lá, tôn vinh thêm vẽ đẹp của chiếc nón; lúc đầu nón lá ở Huế chủ yếu bán vào các thị trường tại các tỉnh miền Nam, nên hai câu thơ đầu tiên được ông  ép vào chiếc nón lá như sau :
" Ai ra xứ Huế mộng mơ
Mua về chiếc nón bài thơ làm quà "
Ban đầu nón bài thơ được dân làng Tây Hồ làm để tặng người thân, bạn bè, không ngờ laị được mọi người yêu thích từ đó những người thợ làm nón ở Tây Hồ bắt đầu làm nón bài thơ hàng loạt đưa ra bán ở thị trường; những câu thơ được ép vào nón cũng đa dạng và phong phú hơn thường là những câu thơ về Huế hay là những công trình kiến trúc như chùa Thiên Mụ, cầu Trường Tiền, sông Hương gợi ra biết bao cảm xúc trong mỗi người khi nhìn ngắm chiếc nón…


" Gió đưa cành trúc la đà

Tiếng chuông Thiên mụ canh gà Thọ xương

Thuyền về xuôi mái song Hương
Có nghe tâm sự đôi đường đắng cay "  
Hay là :                       " Tràng tiền biết mấy là yêu

                                   Tuổi thơ áo trắng sớm chiều bướm bay "

( Thi sĩ Tố Hữu   )   

Về mặt hình dáng, chất liệu và công dụng nón bài thơ xứ Huế cũng giống như các nón cùng loại của các địa phương khác trên toàn đất nước. Tuy nhiên nét đặc thù mang đậm dấu ấn phong cách xứ Huế chính là hình dáng nón thanh tao, mềm mại, màu trắng xanh mát dịu dàng của lá và những hình hoa văn được tạo rất khéo, nhìn thấy được vẻ đẹp đầy thi vị qua ánh sáng; chiếc nón bài thơ Huế là một loại phục trang kết hợp cùng tà áo dài màu tím đặc trưng của Huế càng làm cho cô gái đất Thần kinh càng thêm duyên dáng, diễm kiều, uyển chuyển trên từng bước chân thong thả dịu dàng biết bao:

" Ra đi mà chảnh đành lòng
Nón che tay ngoắt động lòng quay lui "
Những cô nữ sinh gái Huế duyên dáng dễ thương, nói năng nhỏ nhẹ, tâm sự nhiều mà ít hé trên môi, mặc áo dài trắng, đội nón bài thơ, bước đi khoan thai trên cầu Trường Tiền sau buổi tan trường trong những ngày nắng hạ và những ngày nắng xuân đã tạo thêm một nét đẹp cho cố đô và đã bao lần làm xao xuyến tâm hồn của nhiều thi nhân mỗi khi có dịp ghé thăm Huế:
" Áo trắng hỡi,thuở tìm Em không thấy
Nắng mênh mang trãi mấy nhịp Tràng Tiền
Nón rất Huế nhưng đời không phải thế
Mặt trời lên từ phía nón Em nghiêng..."
( thi sĩ Thu Bồn  )
Tại hải ngoại chiếc nón lá chỉ thấy xuất hiện trên sân khấu, trình diễn nghệ thuật múa nón với áo dài truyền thống của người phụ nữ Việt Nam; chắc chắn một điều là chiếc nón lá tạo ra một nét đẹp đặc biệt riêng cho thiếu nữ Việt mà người phụ nữ Mỹ hay các cô gái phương Tây dù có hình dáng mỹ miều đến độ nào thì chiếc nón lá vẫn không thể nào tạo cho họ thêm được đẹp duyên dáng, nhí nhảnh. Bởi vì chiếc nón lá là bản sắc văn hóa của dân tộc, là của người Việt Nam muôn thuở, muôn đời đúng như câu ca dao:
" Nón này che nắng che mưa
Nón này để đội cho vừa đôi ta "
Khi nói đến nghề nón lá truyền thống, Tôi không thể nào không nhắc tới nghề chằm nón lá tại Quảng trị quê hương thân yêu nhất của tôi, nơi đây có rất nhiều địa phương chằm nón lá. Cụ thể như tại huyện Hải Lăng gồm có: Làng Lương Điền, Câu nhi, Hà lỗ, Văn Quỹ,Văn Trị, Hưng Nhơn, phe tư Diên Sanh...t ại những quê làng này nghề làm nón lá chỉ là nghề phụ hay còn gọi là nghề tay trái. Hằng năm thu nhập về sản phẩm nón lá còn thấp; tuy nhiên công việc này cũng rất thuận lơị trong những tháng ngày mùa Đông mưa gió bão bùng, moị người không thể lao động ngoài trời thì đây là dịp mà gia đình, vợ chồng và con cái quây quần bên vành khuôn nón kiếm thêm tiền, tăng thu nhập thêm vào sinh kế cuộc sống trong những lúc băng giá, cơm thua gạo kém...; tại huyện Triệu Phong thì nghề làm nón truyền thống tại làng Bố Liêu khá phát triển, nghề chằm nón ở Bố Liêu đã có hơn 200 năm trước; tuy cũng là nghề phụ gia đình nhưng đã mang laị cho dân làng nguồn thu lớn; sản phẩm nón Bố Liêu được người tiêu dùng tín nhiệm nhất là giới lao động taị các làng quê, thôn dã gắn bó với đời sống công việc "một nắng hai sương". Có thể nói rằng nghề chằm nón lá truyền thống taị Bố Liêu không thua kém gì so với nón bài thơ xứ Huế, nón lá Lân Chuông Hà Tây, nón lá Tây ninh... Nhờ thị trường thị hiếu tiêu thụ nón lá Bố liêu vững mạnh, nhiêù gia đình dân cư ,vợ chồng đều làm nghề chằm nón,không có bổng lộc gì thêm,nhưng vẫn nâng cao thu nhập hằng tháng ,có điều kiện tài chánh nuôi con ăn học đến nơi đến chốn,tiến bước trên con đường học vấn,công danh sự nghiệp đầy hứa hẹn cho tương lai !
Chiếc nón lá tuy giản dị,rẻ tiền ;nhưng nghệ thuật làm nón phãi thật khéo tay ;nghề chằm nón không chỉ riêng cho phụ nữ mà cả đàn ông trong gia đình cũng góp một bàn tay không kém. Quí ông có thể chuốt vành,lên khung nón, với cái MÁC sắc bén, họ chuốt từng sợi tre,nứa thành 16 vành ( hoặc là 18 vành) thật nhỏ,đều tròn trịa,không được chắp vá,không được gợn,sau đó uốn thành vòng tròn và dịu dàng gắn vào khuôn vừa vặn,khít khao làm sao ! Người phụ nữ thì chằm ,nức vành,bàn tay của người thợ phải khéo léo,cẩn thận,tỉ mĩ trong mỗi khâu;tay cầm kim
phải mềm maị thoăn thoắt trong từng mũi khâu, thẳng đều từ vòng bên ngoài đến vòng bên trong khi xây và lợp lá người thợ thật tuyệt vời làm sao để khi chêm lá không bị chồng lên nhau nhiều  lớp với mục đích cho chiếc nón có vẻ thanh cảnh. Khi hoàn thành chiếc nón phãi cần lấy lửa để hun cho trắng nón,sau đó phết dầu cho bóng & không bị mốc,gặp mưa vẫn thẳng,không bị co dúm laị như thi sĩ Nguyễn khoa Điềm đã có vần thơ :
" Sao Anh không về thăm quê Em
Ngắm Em chằm nón buổi đầu tiên
Bàn tay xây lá, tay xuyên nón
Mười sáu vành, mười sáu trăng lên "
Tại Đông nam Á cũng có nhiều nước dùng nón lá như Trung quốc,Đại hàn,Thái lan…
Tuy nhiên hình dáng chiếc nón của người dân taị các quốc gia đó không thể nào so sánh nỗi với hình dáng thanh mảnh thanh lịch của chiếc nón lá của dân tộc ,của bản sắc văn hóa Việt Nam.
Tôi tha thiết yêu mến chiếc nón lá truyền thống của chúng ta không những chỉ vì hình dáng mà chính là trong mỗi một chiếc nón lá là mang cả tâm hồn Việt Nam.
Oklahoma,Sept 19 - 2013- BNB
 

DUYÊN TÌNH MỘT THƯỞ
Lê Toan                                          
1. “Ngày tháng dần trôi mãi, đã lâu rồi không trở lại chốn xưa …”

Một chiều mưa mùa hè 2012, cùng Anh trở lại Thành cổ bên bờ sông Thạch Hãn, dưới bóng cây phượng già của năm xưa còn sót lại, bên ly trà gừng thơm mùi quê hương, vẳng xa tiếng ca của Thanh Thúy, làm cho tâm hồn ta bang khuâng thương nhớ, rồi những thước phim quá khứ tuần tự xuất hiện một cách rỏ ràng trong tâm trí tuổi già!

Vâng, “ngày tháng dần trôi mãi …”, có một thời Anh cho là “sến”, bây giờ trở nên quý giá trong anh và ta: Thời gian, kẻ thù giấu mặt, ta không lưu ý, vì con cái, vì cơm áo gạo tiền … đến khi mỏi gối, ngồi bên nhau, nhìn nhau, đầu đã bạc, mới thấm thía câu thơ của cổ nhân mà thương cảm bao phận người lận đận:

Thù nước chưa xong đầu đã bạc

Gươm mài bóng nguyệt đã bao ngày

Con đường buổi chiều (1), bây giờ đã thay tên đổi họ, nhưng với ta vẫn là con đường kỷ niệm, bao nhiêu chyện tình của tao nhân mặc khách Nguyễn Hoàng, Bồ Đề và nhất là Triệu Phong đã đi qua, ghi dấu kỷ niệm. Dù hơn bốn mươi năm, từ mùa hè đỏ lửa tàn bạo đó, người Quảng Trị đã lang bạt khắp vùng miền thế giới, nhưng cũng sẽ như Anh và Ta, không bao giờ xóa nhòa giọt mật tình yêu tuổi học trò:

Người đi một nữa hồn tôi mất

Một nữa hồn tôi bỗng dại khờ (2)

Tại sao ta bảo “nhất là Triệu Phong”?

Trước khi trả lời câu hỏi này, loài người nên cho ta nén giận của một thời quá vảng, khi bước chân ta hụt hẩng vì phải dừng chân trước cổng chùa Tỉnh Hội, vì nhà ta ở phố, không có lý do gì để về nơi Ô Châu:

Chợ Sãi là xứ Ô Châu

Ai đi đến đó …

Ai đi đến đó mần răng? Răng rứa, rứa răng làm ta, nhiều lần muốn vượt qua bãi Rì Rì để chạm mặt cái bí mật sinh sự sự sinh. Muốn mà không đi được, vì ta là dân Nguyễn Hoàng, nên ta thèm những bước chân-nem-lụi của Phương Thảo, Thanh Hà, Ái Anh, Thiên Lý … Nhưng ta không giận lâu, vì mùa hè 1970, nghiễm nhiên ta là người của Sãi, con dâu Triệu Phong, thế là Anh đã kéo dài con đường buổi chiều tình sử đến tận nơi binh đoàn hậu quân (3) của Chúa Nguyễn Hoàng một thời vang bóng! Ôi, những chiều nhạt nắng, hai ta rước lồng đèn từ nhà sách Lương Giang, theo Quang Trung ra con đường buổi chiều, theo sông song hành với những chuyến đò xuôi về xứ nem chả; Đập Rì Rì lúc bấy giờ không còn gió Lào, không còn cát bụi, chỉ còn vành trăng non treo lơ lững ở sau rặng tre xóm Hà, tiếng hò của những đò phiên ở ngã ba sông Vĩnh Định- Thạch Hãn, hòa cùng tiếng chuông chùa Sư nữ làm xao xuyến hồn ta, hồn ai! Để rồi lắng đọng trong thơ Anh:

Sãi ơi ! còn đó em làn tóc

Lả lơi nắng mới mái sân đình

Mùa hè phượng thắm mùa giã biệt

Nụ cười thơ dại mắt lung linh (3b)

 Êm đềm, đằm thắm trong tiếng thơ, giọng hò … nồng cay ngọt ngào với nem nướng, bánh bèo … những ân tình Triệu Phong, đã dẫn dắt ta gặp gỡ những người bạn của Anh: Lê Hóa, Nguyễn Văn Quang, Hoàng Dự, Lê Mậu Chương, Nguyễn Thị Gái, Lê Thị Cữu, Nguyễn Văn Tương, Hà Thị Phượng, Lê Thị Thiệp, Hồng Ái Huệ … Đó là lúc cùng Anh thực hiện tờ báo đầu tiên của trường Triệu Phong: tờ Hướng Dương.

Sự năng động Triệu Phong, nhất là Anh Hóa, Anh Chương, Anh Bá Hưng, Anh Quang, làm ta với Anh không còn một chỗ riêng tư, Hướng Dương hoàn thành, các Anh đặt bên tờ Văn, tờ Tin Văn của Sài Gòn như là người anh em! Và ta không còn là cô sơn nữ e ấp trong luống chè nơi sơn cước, đang hát Sơn nữ ca (4), mà ta đang chuẩn bị nghe lời người ra đi. (5)

Không!

Chưa có lời người ra đi, vì Hướng Dương không chỉ là mặt trời của bình minh hay hoàng hôn lãng mạn mà Hướng Dương phải lục hóa cây cối Thầy cô Triệu Phong đã trồng, để mai này gởi lại tương lai ; do đó, Hướng Dương phải len lỏi vào các đại gia của Quảng Trị lúc bấy giờ như Tôn Thất Khiên, Đức Nhiễm, Tư Đồ Minh, Tôn Thất Hoán … tất cả, chào đón Hướng Dương từ ngại ngần đến thân thiện và sẵng lòng khi biết rằng: Họ đã gặp một ánh sáng mặt trời CHÂN THIỆN MỸ.

Và, rồi

Các anh cũng phải chia tay trở lại với sứ mệnh của mỗi người:

Xin chào nhau giữa con đường

Mùa xuân phía trước miên trường phía sau

Tóc xanh dù có phai màu

Thì cây xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng (6)

Giã biệt, thay vì lời người ra đi,

Anh viết tiếp:

Hướng Dương soi sáng vườn măng

Mai kia mốt nọ thưa rằng tình chung (7)

Chia tay bạn bè, ta mặc nhiên trở thành con dâu của Triệu Phong, ba năm nữa, ta phải một mình đi lại những con đường trăng ngày cũ: đợi chờ một cuộc duyên tình trầu cau, mà không bị cuộc đời nhắc nhở:

Chợ Sãi  là xứ Ô Châu

 Chớ đi tới đó mang bầu về không!

2. Lòng ta chôn một khối tình

Tình trong giây phút mà thành thiên thâu (8)

Ôi! Tình mà khối, khối là thước đo ba chiều của một vật, như vậy tình đo được chăng? Ta và Anh thường tranh luận những điều bâng quơ như thế để khóc cười với thế nhân!

41 năm, nếu tính từ 1972 khói lửa, 38 năm, nếu tính từ 1975 đói kém và xa hơn nữa 50 năm từ ngày Anh ra đi khỏi trường trung học Triệu Phong ; trong ta, trong Anh, trong bạn bè mang theo bao nhiêu là khối tình.

Tình yêu đôi lứa của một thời hoa mộng tàn theo chuyện cơm áo gạo tiền và đau hơn nữa là có sự phản trắc … đi đến hận thù!

Tình bạn có thể vì thời thế, danh lợi … phải chia xa … đắng cay như Tô Tần – Trương Nghi.

Tình quê hương mãi mãi đeo đẳng hồn ta, lòng người đến cuối đời! Quê hương muôn màu, muôn vẻ đi vào ký ức của những bước chân lữ thứ: Từ bờ ao, bến nước, mái đình… Riêng ta với Anh gặp nhau ở mối- tình-trường-xưa, với ta là Nguyễn Hoàng ; với Anh là Triệu Phong!

Nguyễn Hoàng là phá là sông, Triệu Phong là hồ là suối! Cái rộng lớn làm cho tình bạn, tình thầy trò tan loãng, cái nho nhỏ dễ gom khối tình đầm ấm, vuông tròn, nên lưu luyến dài sâu. Anh được cái rộng lớn vừa có sẵn cái nho nhỏ dễ gần! Nên khi nói về Triệu Phong, Anh sẵn sàng tuôn ra như kỷ niệm bốn năm Trung học Đệ nhất cấp, nào bạn Lê Năm với tài làm văn, với Võ Thí hiền hậu … Rồi thầy Phòng quyến rũ, thầy Kham ép-xi-lon, cô Tỉnh thiên thần, cô Gái nguyên tắc, cô Hoàn nghiêng nước đổ thùng… Anh hồi ức say sưa làm ta ức lắm, nhưng hạnh phúc vì Anh có được ước mơ: mơ một ngày gặp lại, nhất là những Thầy Cô Triệu Phong, mà nghĩa tình đã đi vào đời Anh ở tuổi trong sáng nhất đời người!

Mùa xuân của cõi nhân sinh cũng ứng với mùa xuân của khí tiết đất trời: Nhựa sống trào dâng để vũ trụ đón chào muôn hoa khoe sắc, con người trẻ lại, với bao ước mơ tràn ngập tâm hồn: ước mơ gặp lại Thầy xưa, bạn cũ làm Anh trở nên trẻ thơ, đến nỗi căn bệnh ung thư không còn làm Anh lo lắng! Trời không phụ lòng người, mùa xuân năm 2011, Anh gặp lại cô Phạm Thị Ngọc Tĩnh, người Thầy mà Anh rất kính thương!

Đó là một buổi sáng tháng ba, khi những con ong say sưa đi hút mật, đàn kiến hăng hái cùng nhau chuyên chở thực phẩm về tổ, những đàn chim sẻ đón lấy thức ăn của ta như thường lệ… và Anh đang xén lại “cụ Mai”… thì nghe tiếng điện thoại reo một cách dồn dập, tiếng  cháu ngoại hối hả:

-   Ông ngoại ơi! Có người gặp!

Anh ngừng tay, rời xa “cụ Mai” mà hình như còn nuối tiếc… Thế rồi tiếng Anh phá vỡ không gian tĩnh lặng:

-   Em ơi! Cô Tĩnh về!

Anh tức tốc chạy lại ôm chầm lấy Ta và hai đứa cùng vang lên tiếng cười vỡ nắng!

Dẹp dao kéo dây nhợ, giã từ “cụ Mai” Anh vội vàng hối thúc Ta tiến về Sài Gòn, không phải để chiếm nhà mặt tiền, mà để gặp lại người Thầy cũ sau bao năm tháng chờ mong! Trong phòng chờ của khách sạn, trước mặt Ta và Anh là một người đàn ông thấp đậm, với độ tuổi 70, gương mặt trầm tư nghĩ ngợi, Anh và Ta đang nôn nóng đợi chờ gặp lại nét thiên thần, nụ cười bao dung rộng lượng của một thời quá vãng… nên không để ý lắm đến ông ta! Nhưng khi cánh cửa thang máy vừa chuyển động, ông ta vội vàng di chuyển đến chân cầu thang, Anh cũng bước vội đến sau lưng người đàn ông xa lạ … và rồi, trước mắt Ta là thiên thần của Anh, được người đàn ông, với một cử chỉ rất Tây, dìu đến ghế ngồi!

Khỏi phải nói, Anh run rẩy, mừng rỡ; lây qua Ta một niềm vui vô bờ, người đàn ông cũng không còn nét xa lạ, thăm dò, tất cả bốn người ôm chầm lấy nhau chan hòa hạnh phúc !!! Cô Tĩnh, người Thầy kính yêu của Anh: bằng xương bằng thịt, trẻ trung với đôi mắt tinh anh; nụ cười bao dung rộng mở ! Rồi mọi “xa lạ” ban đầu được giải tỏa “người đàn ông xa lạ”, không còn xa lạ nữa, đó là chồng của Cô, là bậc thầy, là đồng môn, huynh trưởng của Anh ở trường QGHC (9). Còn hai mươi tiếng đồng hồ nữa Cô và Thầy bay, thời gian quá hạn hẹp, thế mà với sự quý kính chân thành Anh đã quy tụ được Thầy Phan Thanh Thiên, Cô Thanh, thầy Tôn Thất Thông và các bạn Quốc, Tâm … có một cuộc tương phùng tràn bờ hạnh phúc!

3. Duyên tình một thưở

Gần nữa thế kỷ, Ta với Anh đồng hành trên đời, vui buồn chen nhau để cùng nhau sẻ chia, đặc san HƯỚNG DƯƠNG, với vai trò của một người con dâu Ta được các anh Triệu Phong chấp nhận và dẫn dắt, để lại trong Ta một hồi ức đậm nét…

Cuộc gặp gỡ đón tiếp cô Phan Ngọc Tĩnh là một sự kiện tuyệt vời và có hậu! Gần ba năm rồi, cô hẹn sẽ trở về với quý cô Phạm Thị Như Hoàn, cô Bùi Thị Gái … bao giờ? Và, bao giời cùng một lúc Ta, bên Anh, được đón quý Thầy chưa một lần gặp thầy Quỳnh Nam, thầy Quý Nghi, thầy Tôn Thất Phú, thầy Lê Công Trình… để trọn đạo dâu hiền và duyên tình một thuở thắm mãi với thời gian!

Xin tạ ơn đời!
Bình Dương 12.10.2013- LT

Đang cùng Anh chuẩn bị đi thăm thầy ĐXH ở Mỹ Tho.

1.Đường Gia Long, chạy dọc sông Thạch Hãn, từ Trường Nữ đến chú Tỉnh Hội.

2. Thơ Khải Hưng tặng Nhất Linh.

3a.Làng Hậu Kiên – chợ Sãi.

3b.Thơ Trúc Đình.

4+5.Hai tác phẩm của nhạc sĩ Trần Hoàn.

6.Thơ Bùi Giáng.

7.Thơ Trúc Đình trong Góp Nhặt Tình Đời. 
 9. Phạm Văn Nhân: tốt nghiệp Ban Đốc Sự khóa 9, trường QGHC Sài Gòn.





GIÃ TỪ
                                                        Tâm Giao: Nguyễn Văn Tương
Trong một đời người có không biết bao nhiêu lần GIÃ TỪ. Có thể chủ động cũng có thể ta đóng vai thụ động. Có thể do ý muốn cũng có thể ngoài ý muốn. Giã từ cũng vì thế mà mang những cường độ tác động khác nhau và ý nghĩa khác nhau, lúc đó cũng được gọi tên khác nhau.

Giã từ mang cường độ lớn nhất  được gọi là  vĩnh biệt. Nhưng vĩnh biệt chưa hẳn đã là niềm đau. Vĩnh biệt người thân thì đau đớn nhưng vĩnh biệt một kẻ thù thì cảm thấy nhẹ lòng, bình an hơn. Kế đến là ly biệt thì cường độ giảm đi một phần, ly biệt hay biệt ly đối với người thân hay người yêu thì buồn thăm thẳm “biệt ly nhớ nhung từ đây…. còi tàu như xé đôi lòng…” nhưng ly biệt một người bám đuổi ta thì biệt ly nầy làm ta khỏe nhẹ. Còn nhiều lần giã từ chỉ nghe chút se se buồn…

Cũng như mọi người, đời tôi cũng có cơ man nào là lần giã từ, nhưng ở đây tôi chỉ nêu ra một số lần giã từ điển hình, những lần giã từ đó tạo thành  những bước ngoặc để lại những dấu ấn khó phai.

Tôi sinh ra đời trong khói lửa mịt mù của phần cuối cuộc chiến vệ quốc chống Pháp. Tuổi thơ tôi khổ sở, thiếu thốn  trăm bề cùng với vận nước điêu linh. Đến cuộc chiến ác liệt thứ hai kéo dài gần phần tư thế kỷ. Máu lửa ngút trời, đau thương tràn lan chất ngất. Tôi lớn lên, sống và học tập trong hoàn cảnh  như thế, bắt đầu biết lãng mạng, biết xao xuyến khi gió giao mùa, thấy rung động bởi một bóng hồng thoáng qua hay đau đáu nhớ nhung khi bắt gặp một ánh mắt xanh liếc nhìn thầm kín như gởi lời hò hẹn. Biết yêu vu vơ và thức khuya hằng đêm để làm thơ con cóc… ca tụng nhan sắc của một người đẹp tưởng tượng, nâng niu một tình yêu không nhân dáng rồi cảm thấy phụ tình nhức nhối quay quắt !!! Có khi cùng bạn bè đi lang thang khắp các con đường của thành phố nhỏ bé Quảng Trị mà ngâm khe khẻ những câu thơ của mình hay của bè bạn,  nghe thật da diết:

                               Anh về thức suốt canh thâu

                               Đếm bao kỷ niệm góp sầu tình yêu

                     Hay: Đắng cay làm chết em rồi

                               Đau thương ngần ấy nghìn đời ai quên

Đúng là lứa tuổi rất dễ thương, hồn nhiên đến nổi thật buồn cười. Sống trong trạng thái bất an trước sự mất còn luôn đè nặng, mạng người mỏng manh như làn khói, thôn xóm, quê hương bom đạn xác xơ”. Thương quê hương qua bao thế kỷ không cười, thương quê hương thăng trầm chuyển biến không nguôi…”. Dẫu biết thế tôi vẫn tự nhủ “Trong một cuộc chiến đấu, kẻ nào cố gắng năm phút sau cùng sẽ thắng”. Nhưng than ôi! hoàn cảnh thì chính ta có thể vượt qua nhưng định mệnh an bài thì ta không thể cưỡng lại được.

* GIÃ TỪ lần thứ nhất, tuổi hoa niên mộng mơ, cái tuổi đẹp nhất của một đời người với đầy ắp hoài bão để đi vào vùng lửa khói, cái cảnh ngộ đắng cay mà tôi vô cùng căm ghét, một cuộc giã từ đau đớn, bước ngoặc tôi không bao giờ nghĩ là có thể xẩy ra, thì đã hiện hữu. Thôi, từ giã trường lớp, từ giã bạn bè thân thương, thầy cô quý mến và  phải vùi chôn đi tình yêu đầu đời vừa chớm!!!.

Tôi đi như kẻ mộng du, tôi sống mà mang tâm trạng của TTKH “Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời…”. Có lúc tự đánh lừa mình bằng những vần thơ hay khúc hát sến nhưng chẳng thể nào được lâu! Có lần tôi tuyệt vọng, muốn làm một cuộc giã từ lớn lao là vĩnh biệt tất cả, vĩnh biệt mọi người để không còn thấy những ngang trái, sống trong những trái ngang. Nhưng rồi  lại tự nhủ rằng còn sống là còn chiến đấu, chết sẽ là người thua cuộc vĩnh viễn- thế là tôi đổi ý.

Rồi 30 tháng tư 1975, sau niềm vui vỡ òa của những ngày tháng thực sự hòa bình, nhưng cũng bắt đầu những ngày tháng khó khăn chất ngất. Dẫu thế tôi chưa bao giờ nản lòng với niềm lạc quan yêu đời sẵn có, tôi tự nhủ ta phải tiến lên cùng vận hội đất nước. “Nghe đâu đây tiếng gọi hòa bình…”. Tôi thấy lòng sung sướng khi nhận ra thực sự đất nước đã hòa bình và sự chết chóc đã chấm dứt, thịt da đất mẹ Việt Nam không còn rách nát bởi đạn bom cày xới! Ta còn đôi tay rắn chắc và khối óc minh mẫn thì sẽ làm lại, làm nên được tất cả. Khó khăn chỉ là thứ yếu, niềm tin tốt đẹp vào ngày mai chính là sức mạnh, mới là yếu tố quyết định những thành bại trong tương lai.

**Đây là lần GIÃ TỪ thứ hai, lần giã từ hoàn cảnh nầy mang lại cho tôi nhiều tín hiệu lạc quan. Tôi dự cảm rằng, từ đây người nhìn nhau bằng niềm yêu đồng bào chân thành. Có lẽ từ đây  “người biết yêu người….” như nhạc sĩ Văn Cao đã viết. Vâng, có lẽ  cũng còn quá sớm để mình vui mừng rằng từ đây hắn sẽ phát huy được năng lực thực sự sẵn có của mình chăng?  Ừ! mà Cuộc đời đã bắt đầu chưa lâu và còn rất lâu mới chấm dứt, còn đủ thời gian để cho mình chứng minh vàng đá.

Trong cuộc lao động mới vất vả có thừa, lên rừng xuống biển, có khi vào tận miền tây xa xôi. Ban đầu tôi chỉ biết hai thời khắc chủ yếu sáng và tối. Sáng: đi làm, tối nghỉ. Y hệt một chiếc động cơ hoạt động  hết công suất, dẻo dai và bền bỉ. Không đọc sách, không nghe đài, không tin tức, văn nghệ, thơ ca…Nhưng rồi có một ngày cuộc sống tiến lên mở ra, sáng lòa!... Lòng người nở hoa, nhu cầu tình thần lại hiện về đòi hỏi bức thiết. Nối lại tình cảm quê hương và rộn rã nhất là tiếng gọi í - ới của bạn bè tìm nhau tha thiết khắp nơi, trên mọi phương tiện, báo đài, điện thoại, Email…rồi những buổi họp mặt sau bốn mươi năm bặt tin nhau. Xúc động biết bao những cuộc hội ngộ thầy trò ánh mắt trìu mến cuả quý thầy cô nhìn đàn con yêu ngày nào giờ mái tóc đã bạc phơ mà vẫn hân hoan, ngoan hơn cả thuở ấy… Ai nấy thấy mình như trẻ lại!

Cuộc sống cân bình trở lại như con tàu sau cơn bão giông, giờ đang nhẹ lướt trên mặt nước dưới trời êm bể lặng, lòng người trở nên yêu đời hơn. Đôi lần hoài niệm về mùa-hè với tuổi học trò khi gió ngàn lồng lộng mang tiếng ve sầu vang xa báo hiệu dày thêm những mùa ly biệt, hình ảnh những cánh áo trắng “huyền thoại” vắng dần và cổng trường dần khép lại cho phượng hồng rưng rức nở bừng những niềm thương! Lòng mình cũng chợt nghe chút vương vấn, thương nhớ vu vơ… , có khi ngỡ mình còn trẻ trung hồn hậu như thuở nào; thế là, cung lòng có dịp rung lên  những âm thanh  muộn màng, như để giải bày  tâm tư giăng mắc đơn phương. Để cho người thơ thuở ấy, nghe mà cảm thông niềm tâm sự đã từng gói ghém chưa hề nhạt phai theo thời gian! Để làm gì nhỉ ?  Nào ai biết! phải chăng chỉ để nhẹ lòng mình đôi chút khi nhớ về tuổi học trò; nhớ về những lần tạm biệt chứa chan tình cảm.         

MÙA CHIA TAY

Không gian ngập tiếng ve.

Rưng rức gọi sang hè.

Tay vẫy chào tha thiết

Mắt lưng tròng đỏ hoe!

Ân tình xưa vẫn đọng,

Lưu bút nay chưa nhòe.

Đã mấy mùa ly biệt

Nghe lòng mình sắt se…!

Hơn hai mươi năm trên bục giảng, hí trường khép lai, trở về nguyên hình một đệ tam con dân. Còn chăng một chút kỷ niệm buồn vui lẫn lộn và lần GIÃ TỪ sự nghiệp nầy nhẹ nhàng, có bài thơ giả từ làm kỷ niệm gọi là chút vết tích của hành nghề             


***Đây là lần GIÃ TỪ thứ ba,

Giã từ phấn trắng

Như thế đã đi trọn cuộc tình

Vui buồn hẳn thấu lẻ nhân sinh

Áo cơm nặng nợ tình yêu trẻ

Hoài bão chăm lo việc sửa mình

Xã hội bao đời hằng mến mộ

Gia đình mấy kiếp được nghiêm minh

Ra về khỏe nhẹ lòng thanh thản

Thế hệ theo sau tiếp giáo trình

Mái tóc giờ đã bạc màu tháng năm, dung nhan đã tàn phai qua bao nắng mưa khổ ải, ngồi đây nghĩ lại, nhớ về biết bao điều muốn nói, còn nhớ hay đã quên. Đọng lại trong lòng một mảng đời nhỏ nhoi, dễ thương: Hình ảnh bạn bè thân quen, từ ngôi trường nầy qua ngôi trường khác. Đứa còn đứa mất, lưu lạc bốn phương trời! tìm nhau doi dói, thế là đã ba Ký Ức Trường Xưa có khi chưa lộ diện?

Tìm nhau lâu rồi cũng đã chuyện trò với nhiều người. Có điều đã bộc bạch với nhau và cũng có những điều dấu kín trong lòng quyết không nói ra. Dù biết rằng không nói ra thì nghe lòng nặng trĩu những tiếc nuối, và sợ rồi không có dịp nào khác. Mà nói ra làm gì nhỉ khi thời gian đã vùi lấp tất cả rồi?!

KUTX III là cuốn cuối cùng chăng? Hy vọng là vẫn còn; hãy hi vọng…Tôi nghĩ có lẽ đây là lần GIÃ TỪ chứa chan tình cảm ! Dù sao chăng nữa, cũng xin gởỉ lời chào tạm biệt đến thầy cô đáng kính, đến những chàng trai, đến những cô gái bạn bè dễ thương  của tất cả bạn bè cùng lớp hay khác lớp của bất cứ ngôi trường nào mà ta có dịp gặp nhau, biết nhau  thật đáng yêu thuở nào của tôi.

***Đây là lần GIÃ TỪ tiếp theo, xin GIÃ TỪ….GIÃTỪ nhé. Trăm năm như bóng câu qua cửa hãy xếp lại những ý thức thành bại, sang hèn; những tự ti, mặc cảm hay kiêu hãnh cá nhân; tha thứ cho nhau những  gì không vừa lòng, những mâu thuẫn nếu có trong đời mà ngồi nhìn nhau thật kỷ, bên nhau thật gần lần nầy để “nói dăng co” trước khi chia tay, GIÃ TỪ!. Rồi đây tuổi già sẽ kéo đến, ta ít có cơ hội gặp nhau. Nhớ hỏi tin nhau và có dịp nhớ tìm thăm nhau nhé.

Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu…vui vầy bên đàn con, cháu ngoan hiền.
                                           Bà Rịa Vũng Tàu ngày 15-7-2013


HỒI ỨC VỀ TRƯỜNG XƯA - BẠN CŨ

                                               Nguyễn Hòa (A) 
An Mô - Triệu Long

                                                                                      Đt: 0165.595.2326    



*VÀI LỜI TÂM SỰ CỦA NGƯỜI VIẾT:

Sau khi tốt nghiệp ĐHSP tôi được phân công về dạy tại trường THPT số 1 Triệu Hải nay là trường THPT Quảng Trị. Trên đường đi dạy về, ngang qua ngôi trường cũ mà mình đã học thuở trước, giờ chỉ còn trơ phần móng và sân trường phủ đầy cỏ dại, lòng tôi không khỏi bùi ngùi xót xa. Có lần, một mình tôi lang thang vào trường, dạo bước khắp các dãy phòng trong ráng chiều, những ký ức về trường xưa, bạn cũ lại hiện về. Hôm nay trên trang giấy này, tôi xin ghi lại một chút về những hồi ức đó.

I. LẦN ĐẦU TÔI ĐƯỢC NHÌN THẤY TRƯỜNG TH TRIỆU PHONG:
Thuở nhỏ, tôi học tiểu học tại trường tiểu học Tân Định, thuộc thôn Tân Định xã Triệu Long ngày nay, trường cũ của chúng tôi cách trường TH.Triệu Phong độ hơn mấy cây số, mãi về sau mới biết. Thế nhưng với lũ học sinh nhà quê như chúng tôi vốn dĩ  hằng ngày đã quá quen thuộc với cái điệp khúc như một vòng tròn khép kín quấn quanh chân là: Đến trường, về nhà, ra đồng cắt cỏ chăn trâu, rồi lặp lại, ít có cơ hội vượt qua khỏi lũy tre của làng mình, nên hầu như học sinh trong trường chẳng có đứa nào biết chính xác trường TH Triệu Phong nằm ở đâu, kích thước ngôi trường như thế nào, tôi cũng không phải là một ngoại lệ.
Hằng ngày trên đường đến trường, bắt gặp các anh chị đi học ở trường Triệu Phong trong bộ đồng phục-bảng tên chỉnh tề (không nhếch nhác như lũ học sinh tiểu học chúng tôi), tôi thấy họ lớn quá, vui quá. Bỗng nhiên từ đó trong tôi xuất hiện một ước muốn kỳ lạ: Muốn được tận mắt nhìn thấy ngôi trường mà các anh chị đã đang học để xem nó như thế nào?
Theo thời gian, tôi đã học đến lớp nhất, lớp cuối cùng của bậc tiểu học, ở năm học này, có một điều ngẫu nhiên lý thú xảy ra với tôi, nhờ nó mà tôi đã thực hiện được ước muốn của mình một cách nhanh chóng và thuận tiện.
Chuyện là: Ở năm lớp nhất, trường tiểu học của chúng tôi được trên điều về một thầy giáo trẻ. Thầy được nhà trường phân công trực tiếp giảng dạy lớp tôi. Thầy tên là Sang, nghe đâu nhà ở tỉnh (tỉnh lỵ Quảng Trị cũ). Đúng như tên gọi của thầy, đi dạy lúc nào cũng áo quần bảnh bao, giày đen bóng lộn, đầu tóc chải mượt, tay đeo đông hồ và nhẫn vàng. Đặc biệt, thầy rất đẹp trai, đi dạy bằng xe honda "booc đam " màu đỏ mới kít- mà cả trường chỉ có thầy mới có. Tính thầy rất vui vẻ, nói năng nhỏ nhẹ nên vào dạy lớp tôi mới chỉ một thời gian ngắn mà thầy đã chiếm được tình cảm của cả lớp.
Trong quá trình giảng dạy ở lớp, không hiểu sao thầy rất quý mến tôi, khiến cho cả bọn trong lớp phải tỵ nạnh. Thầy thường nhờ tôi các việc nhỏ nhặt như: Mua cho thầy bao thuốc, phong kẹo cao su, cất chiếc cặp...Thầy thường hỏi tôi về hoàn cảnh gia đình, việc học ở nhà, giảng cho tôi các bài toán khó, thầy còn mua cho tôi vở và sách toán nâng cao nữa.
Thế rồi, vào một buổi chiều thứ bảy, khi buổi học kết thúc sớm, cả lớp ra về, thầy bảo tôi ở lại gặp thầy. Tôi cứ nghĩ, chắc là thầy nhờ chuyện gì đó nhưng đột nhiên thầy lại hỏi :
- Em có muốn đi chơi với thầy không ?
Câu hỏi của thầy đưa ra quá đột ngột khiến tôi chẳng biết trả lời sao. Đi thì về nhà muộn sợ gia đình rầy la, không đi thì bỏ lở cơ hội được ngồi lên xe thầy quá tiếc (cơ hội này dễ có đâu), mà lại mếch lòng thầy. Thấy tôi đang do dự, thầy lại nói:
- Thầy sẽ đưa em lại trường sớm để còn kịp về nhà.
Thế là nỗi phân vân trong tôi tan biến, tôi liền đáp lại:
- Dạ thưa thầy được ạ !
Sau khi dặn dò những điều cần thiết, thầy chở tôi ra khỏi trường, tiến ra phía đường bộ (quốc lộ 4) rồi rẽ lên phía chợ Sãi để lại sau lưng những tiếng trêu chọc của lũ bạn cùng lớp.
- Ê, Ê, Ê đi xe "ông già "
Lời trêu chọc này khiến tôi bật cười vì thầy đã có gia đình đâu mà bọn chúng ghép đôi tôi với con thầy.
Khi đến ngôi nhà bằng nằm cạnh đường bộ có treo tấm biển: "Trung tâm y tế quận Triệu Phong" thì thầy cho xe dừng lại. Thầy dắt xe và đưa tôi vào trung tâm để chào cô y tá có tên là Mỹ- bạn của thầy đang làm việc ở đây.
Khi thầy và cô Mỹ nói chuyện, thầy cho phép tôi ra sân chơi và không quên dúi vào tay tôi gói kẹo mà thầy đã mua sẵn tự bao giờ.
Do lần đầu được đi chơi, mà lại đi chơi với thầy dạy của mình nên tôi có phần sợ và lo lắng nhiều hơn là thích thú. Tôi không dám bước xuống sân mà chi ngồi ở bậc thềm của trung tâm y tế, nhai kẹo và chăm chú đọc quyển sách mang theo mà chẳng quan sát gì xảy ra xung quanh cả.
Bổng: một hồi "xúp lê" (còi) rít lên kèm theo là tiếng hô lớn: "Tập họp" từ đâu vang lại khiến tôi giật nảy mình bật đứng dậy, đưa mắt hướng về phía vừa phát ra âm thanh đó. Thật bất ngờ đập vào mắt tôi là tấm biển cổng "Trường TH.Triệu Phong" được gắn trên  hai cột vuông bằng bê tông vững chắc nằm phía bên kia đường tỉnh lộ, nằm đối diện Trung tâm y tế. Tôi ngỡ ngàng không tin vào mắt mình nữa. Tôi tự hỏi: Trường Triệu Phong mà các anh chị ở dưới mình lên học, ngôi trường mà mình muốn được nhìn thấy là đây ư? Rồi trong tôi tự nhiên xuất hiện một sự thôi thúc nào đó khiến tôi mạnh dạn hẳn lên. Tôi liền đứng dậy băng qua đường lộ tiến đến trước cổng.
Khi đã đứng ngay trước cổng trường, tôi thấy hồi hộp lạ thường, hết đưa mắt nhìn biển hiệu lại lấy tay xoa xoa vào cái cột bê tông, rồi còn kiểng chân nhoài người quan sát vào bên trong khu vực của trường nữa. Theo phản xạ, trong tôi nảy sinh sự so sánh vui vui: Trường này to và đẹp hơn trường mình học nhiều, học sinh phần lớn đi học bằng xe đạp chứ không đi bộ như chúng tôi, thầy cô thì đi dạy toàn bằng honda, vespa, lại có người còn đi cả xe đạp nữa. Thật oách quá chừng!.
Có tiếng bước chân ở phía sau lưng, tôi quay lại đã thấy thầy Sang và cô Mỹ  ra từ hồi nào. Thầy nhìn tôi cười và hỏi:
- Sao? Thích học ở trường này lắm à!
Tôi chưa trả lời ngay mà hỏi lại:
 - Thưa thầy: Thi vào trường Triệu Phong có khó không ạ?
Thầy đáp:
- Khó, phải trải qua một kỳ thi rất gắt gao.
Rồi thầy dặn:
 - Muốn thi đổ thời gian tới em phải nổ lực học tập và ôn tập cho tốt, có gì khó khăn cứ hỏi thầy.
Tôi đáp:
- Thưa thầy: vâng ạ !
Tôi lại hỏi:
- Thưa thầy: Tại sao co người gọi trường Triệu Phong là trường quận
          
Thầy đáp:
- Vì trường nằm sát bên quận lỵ Triệu Phong.
Vừa nói thầy vừa chỉ tay cho tôi thấy quận lỵ Triệu Phong. Rồi thầy nói tiếp:
 - Và cũng có thể là trường Triệu Phong là trường công lập duy nhất của quận nhà ở bậc trung học đệ nhất cấp. Nó tiêu biểu cho nền giáo dục của quận.  
Trên đường về nhà, trong tôi hình thành những cảm giác lẫn lộn: Vừa thích thú khi được tận mắt nhìn ngôi trường mình muốn vào học trong thời gian tới, vừa lo lắng không biết có bước qua được cổng trường đó không, vừa có những niềm hy vọng...
II. TÔI THI VÀO ĐỆ NHẤT TRƯỜNG TH TRIỆU PHONG.
Sau khi bố tôi mất được một thời gian khá lâu, để tiện cho việc học của tôi, mẹ tôi quyết định đưa tôi về sống với ngoại, tôi sống chung với các anh-chị-em con người cậu ruột, trong đó có anh Ngô Hướng-một cựu học sinh Triệu Phong, hiên đang sống và công tác tại thành phố HCM.
Theo sự sắp xếp của gia đình, anh Hướng là người chịu trách nhiệm đưa tôi đi thi. Hôm tôi đi thi, bà ngoại và mẹ tôi dậy từ rất sớm để lo bữa sáng và phần ăn bới mang theo bữa trưa cho cả 2 anh em. Cơm nước xong, dù trời còn khá tối, gà trong làng đã gáy tan canh nhưng để đề phòng chiếc xe đạp củ kỹ có thể "dở chứng" giữa đường nên 2 anh em xuất phát liền.Vậy mà đến nơi cũng có nhiều phụ huynh đã đưa con em họ đến nơi rồi.Điều đó cho thấy: Kỳ thi vào đệ nhất của trường trung học công lập Triệu Phong không những quan trọng đối với những họ sinh chúng tôi mà còn được các bậc phụ huynh rất quan tâm.
Địa điểm của tôi dự thi là ở trường Bồ Đề thuộc tỉnh ly Quảng Trị cũ. Phòng thi của chúng tôi ở dãy nhà trệt phía bên phải từ cổng vào. Đối diện với phòng thi của tôi qua khoảng sân rộng là dãy lầu 2 tầng. Khuôn viên trường được ngăn cách với các nhà dân liền kề bằng hàng rào dây kẽm gai.
Trước giờ vào thi, các giám thị cho tập hợp chúng tôi trước mỗi phòng để dặn dò các điều cần thiết như: Chấp hành nghiêm quy chế thi cử, kiểm tra thẻ học sinh trước khi vào phòng thi..v.v...
Kỳ thi năm đó, chúng tôi thi 3 môn: Môn văn, môn khoa học thường thức và môn toán.
Trong phòng thi, tôi ngồi ở bàn gần cuối. Có một điều đặc biệt là trong phòng có 4 người cùng tên với tôi-một người ngồi ở bàn trước mặt, một người ngồi cùng bàn với tôi và một người ngồi ở bàn ngay sau lưng tôi.
Khi tiếng trống báo hiệu giờ thi đã bắt đầu vang lên thì không khí trường thi đột nhiên lắng xuống. Ngoài hành lang những người lính quân cảnh bảo vệ phòng thi đi đi lại lại- gót giày của họ nện xuống nền xi măng cồm cộp khiến cho tôi vô cùng hồi hộp. Tay câm bút cứ run lên bần bật làm cho tôi rất khó khăn trong việc chép đề bài. Phải mất mấy phút hít thở sâu tôi mới lấy lại được sự bình tĩnh để chép xong đề bài. Sau khi nghiên cứu kỹ đề bài nhiều lần, hồi tâm nhớ lại các kiến thức đã học đã ôn tập ở nhà, nên cuối cùng tôi cũng đã hoàn thành bài thi một cách tron vẹn.
Ở phòng thi của tôi, trong giờ thi 2 môn văn và khoa học thường thức, việc làm bài của thí sinh diễn ra tạm gọi là bình thường, chẳng có chuyện gì xảy ra. Riêng giờ thi môn toán thì khác hẳn, không khí phòng thi trở nên ồn ào hơn-vì nhiều thi sinh không làm được bài trao đổi với nhau hoặc chờ trông từ bên ngoài, khiến cho các giám thị cứ nhắc nhở hoài. Cùng lúc đó ở phía bên kia hàng rào kẽm gai, trong vườn chuối của dân, nhiều phụ huynh  đã dùng ná, đá ném tới tấp vào các của sổ lam kính vở tan thành. Rồi sau đó, họ dồn dập ném bài giải vào phòng làm cho phòng thi trở nên ồn ào lộn xộn và câng thẳng, khiến cho lính quân cảnh phải ra tay can thiệp. Trong cảnh mất trật tự ấy, có một số ít thí sinh nhặt được tài liệu, còn phần lớn bị giám thị thu hết cả.
Riêng tôi môn toán là môn sở trường lại được sự giúp đở tân tình của thầy Sang khi còn học tiểu học và sự kèm cặp ở nhà của anh Hướng nên tôi hoàn toàn tin tưởng vào khả năng của mình. Tôi không hề quan tâm những gì đang xảy ra xung quanh mà chỉ cắm cúi làm bài nên chỉ quá nữa thời gian một tí, là tôi đã làm xong bài.
Sau khi đọc lại bài làm nhiều lần, kiểm tra kỹ từng lời giải, từng đáp số thấy không có vấn đề gì nên tôi yên tâm gấp bài lại, ngồi yên và quan sát các thí sinh khác làm bài. Cùng lúc đó cậu học sinh cùng tên ngồi sau lưng tôi cứ giật giật vào áo và nài nỉ tôi bày cho cậu ta. Lúc đầu tôi sợ nên giả lờ đi xem như không nghe thấy gì. Nhưng sau cậu ta cầu cứu quá nhiều tôi cũng mềm lòng; vả lại, nhìn dáng cậu ta to khỏe hơn tôi nhiều nên tôi cũng hơi "chờn chợn"- Sợ không cho cậu ấy làm liều (xé bài của tôi) hoặc khi về dọc đường biết có sao không nên tôi lén dúi cho cậu ta tờ giấy nháp. Rất may, các giám thị đang bận "chống lại" cuộc "tấn công tài liệu" tự bên ngoài để đảm bảo trật tự phòng thi, nên đã không phát hiện ra việc làm dại dột và ngây thơ của tôi. Thật là hú vía.
Cũng thời điển đó, trong lúc đang chờ đến giờ để nộp bài, tôi vô tình nhìn qua dãy phòng thi ở lầu đối diện va chứng kiến một việc mà mỗi lần tôi nhớ lại tôi không khỏi buồn cười. Ấy là: Có một vị phụ huynh chắc là có con-em gì đó đang thi ở tầng 2 của dãy lầu. Không biết bằng cách nào, trong giờ thi dã vượt qua được hàng rào kẽm gai, nhảy vào sân trường mang theo chiếc sào dài (chắc ngọn sào đã buộc sẵn bài giải) và lao nhanh về dãy lầu rồi đập mạnh cây sào vào lan can của tầng 2. Thật không may cho vị phu huynh ấy, người lính quân cảnh đứng cách đó một đoạn nghe thấy, anh ta đi đến và nhặt lấy tài liệu vừa rơi xuống hành lang bỏ vào túi. Đồng thời anh ấy còn chỉ tay về phía vị phụ huynh và thổi một hồi "xúp lê" dài khiến cho vị phụ huynh sợ quá bỏ chạy ra ngoài vứt lại cả cây sào và văng cả dép nữa...
Sau kỳ thi độ 2 tuần, tôi đang giữ trâu ở cánh đồng làng thì nghe các bà các chị đi chợ về kháo với nhau : Hôm nay ở trường quận có chuyện gì mà người ta tụ tập rất đông. Nghe chuyện, tôi hiểu ngay liền buộc tạm trâu vào một bụi cây, rồi quần đùi chân đất cắm đầu chạy về phía trường quận. Khi còn cách trường độ 150m thì gặp anh Hướng đi học ở trường Nguyễn Hoàng về, anh bảo:
- Em đổ rồi, lên xe anh chở về.
Khi nghe vậy em rất vui liền theo anh về nhà mà không hề đến tận trường để xem tận mắt tên mình trên bảng niêm yết của trường. Nhưng điều đó có quan trọng gì đâu, đổ là tốt rồi tôi thầm nghĩ như vậy. Về sau tôi được biết 4 người cùng tên với tôi cũng đều đổ vào trường năm ấy.
Việc tôi thi đổ vào đệ nhất trường TH Triệu Phong niên khóa 1970-1972, không những đã làm thỏa mãn niềm mong ước bấy lâu của tôi mà còn đem lại một niềm vui lớn cho mẹ và gia đình Ngoại, đồng thời giúp tôi giữ đúng lời hứa với thầy Sang-thầy giáo cũ của mình ở bậc tiểu học
III. ĐÔI DÒNG VỀ NGƯỜI BẠN CŨ CÙNG HỌ CÙNG TÊN.
Sau khi trúng tuyển kỳ thi vào đệ nhất trường TH.Triệu Phong niên khóa 1970-1972, tôi dược nhà trường xếp vào học lớp 6B. Một điều ngạc nhiên là cậu học sinh cùng tên với tôi, ngồi sau lưng tôi, được tôi lén đưa cho tờ giấy nháp môn toán trong kỳ thi ở trường Bồ Đề năm nào lại học cùng lớp với tôi. Cậu ấy không những cùng tên mà còn cùng cả họ nữa. Vì vậy, để phân biệt tên gọi ờ lớp, thầy hướng dẫn lớp đặt cho tôi là: Nguyễn Hòa(A) còn cậu ta là Nguyễn Hòa(B).
Ở lớp 6B, tôi chơi thân với nhóm bạn ở chợ Sãi chứ không thân với Hòa(B). Về mặt học tập, Hòa(B) học bình thường chẳng có gì nổi trội cả. Thế nhưng mỗi lần nhớ về bạn cũ của thời xa xưa ấy, tôi không thể nào quên được cậu ta.- bởi lẽ: Hồi còn đi học Hòa(B) là chúa đi học muộn. Đồng thời, những buổi học chiều tầm khoảng bốn rưởi là xin thầy cô về kẻo bị tối do nhà xa nên thường bỏ các tiết học cuối. Hồi đó, chúng tôi còn quá nhỏ, quá thơ ngây ít quan tâm đến bạn bè nên hầu như trong lớp chẳng ai biết quê của cậu ta là ở đâu cả.
Thế rồi, vào một buổi sáng sớm của năm 1973 hay 1974 gì đó (lúc đó quê tôi đã ở trong vùng giải phóng), tôi đang chạy từ nhà đến địa điểm tập trung của đội thiếu niên tiền phong của thôn để tập thể dục thì gặp một anh công an với chiếc"xắc cốt" màu đỏ đeo vai đang hối hả đi ngược lại về phía tôi. Khi anh đi ngang qua, tôi thoáng thấy một khuôn mặt rất quen nhưng không nhớ ra. Chạy thêm được vài bước, tôi chợt nhớ ra-đó là Hòa(B). Tôi liền đứng lại và mạnh dạn hỏi:
- Anh ơi ! Có phải anh là Nguyễn Hòa(B)-học sinh Triệu Phong không?
Đang đi gấp và bị hỏi đột ngột nhưng anh vẫn dừng và quay đầu  đáp lại:
- Đúng ! Cậu hỏi gì ?
Thế là tôi chạy quay lại và chúng tôi nhận ra nhau.
Trong giây phút gặp nhau tình cờ và ngắn ngủi ấy, Hòa(B) cho biết: hiện nay mình công tác trong ngành công an. Hai người thăm hỏi nhau và hoàn cảnh từng đứa rồi chúng tôi vội vã chia tay nhau mỗi người một hướng. Trước khi đi cậu ta còn quay đầu lại nói:
- Quê cậu ở đây à ? Mình ở Lệ Xuyên, Triệu Trạch.
Khoảng thời gian sau đó, chúng tôi không hề gặp nhau. Mãi đến năm 1988- khi tôi đã là giáo viên và chuyển từ trường THPT thị xã Quảng Trị về dạy tại trường THPT Bồ Bản-gần quê Hòa(B), tôi mới có dịp đến thăm nhà.
Thời gian lâu sau, qua bạn bè tôi được biết là cậu ta đã qua đời vì một căn bệnh gì đó.
Hôm nay nhân ngày hội trường-là dịp để thầy cô, bạn bè cùng nhau ôn lại những kỹ niệm xưa, tôi viết đôi dòng về người bạn cũ đã học với tôi trong thời gian ngắn (một năm) nhưng đã để lại trong tôi những ký ức khó quên.  
  An Mô, ngày 20/11/2012- NH(A)
 


TẤM LÒNG RỘNG MỞ

 Trí Dũng

Thầy tôi: Thầy ĐÀO XUÂN HÒA

Năm nay tôi đã ngấp nghé bảy mươi, sinh ra và lớn lên ở một miền đất nghèo khó: Quảng Trị.

Tôi được đi học, nhờ sự vượt khó và lòng mẹ! Nói chung từ Tiểu học đến Đại học, mọi người Thầy với tôi đều rất tốt và mỗi thầy cô đều có một số kỷ niệm vui buồn! Riêng thầy Đào Xuân Hòa, dạy tôi lớp Đệ Tứ (lớp 9 bây giờ) đã để lại trong tâm hồn tôi một đấu ấn sâu sắc: Người Thầy, người Cha và người bạn.

Do đó, gần bảy mươi tuổi, cuộc đời biết bao biến cố, lòng tôi vẫn nhớ mong, hoài niệm!

Năm 1960, trường Trung học đầu tiên được mở ở cấp Quận (huyện bây giờ). Nhờ đó học sinh nghèo như tôi mới được tiếp tục học, ít nhất cũng kiếm được mảnh bằng Thành Chung(1).

Trường được xây dựng trên cánh đồng trống của làng Nại Cửu, cách tỉnh lỵ Quảng Trị độ chừng 5-6km, theo đường Cửa Việt. Trường có cả thảy năm phòng: Bốn phòng để học, một phòng ngăn đôi để Thầy Cô nghỉ ngơi và làm văn phòng. Tất cả các phòng học đều không có cửa, tường được xây cao khoảng một mét, còn lại là gỗ, thiết kế theo dạng mắt cáo, do đó về mùa đông rất lạnh! Con đường Cửa Việt về mùa mưa thì lầy lội, mùa hè bụi mù, gió Lào cuốn bụi vào phòng học, Thầy trò tôi lãnh đủ!

Ngày ấy, ở Quảng Trị thầy giáo dạy Trung học rất hiếm! (Ai dạy ở cấp này được xã hội gọi là Giáo sư) phần lớn các Thầy Cô đều từ Huế ra dạy, thỉnh thoảng có một vài thầy cô ở các tỉnh Nam Trung Bộ và rất hiếm thầy cô Sài Gòn! Hầu hết các thầy cô phải thuê nhà ở trên tỉnh Quảng Trị và phải vượt qua đoạn đường 5km, mà mùa nắng thì gió Lào rát mặt, mùa mưa thì bão táp, rét mướt, lầy lội bùn đất, nguy hiểm nhất là phải qua đò Rì Rì khi mùa lũ về!
Năm ấy (NK-1964 -1965), ngày khai giảng chúng tôi rất nôn nao mong gặp lại Thầy cô cũ và háo hức chào đón Thầy mới. Buổi sáng tháng tám, chúng tôi không có những buổi sáng đẹp trời như ngày đầu tiên đi học của Thanh Tịnh(2), trên hành lang chật hẹp chúng tôi hướng mắt ra con đường Cửa Việt để đón thầy cô, quí thầy cô di chuyển bằng xe đạp và hình ảnh đã rất quen thuộc, nhưng năm nay, trên đường vào trường xuất hiện một chiếc xe xích lô, ban đầu chúng tôi cứ nghĩ rằng: Sẽ có một cô giáo xứ Huế; mấy trăm con mắt hồi hộp ngóng chờ, nào ngờ khi tấm bạt chắn gió mở ra, xuất hiện một Thầy, lại là một người đàn ông khuyết tật, đang rất khó khăn bước lên những bậc thềm! Trước những cặp mắt ngỡ ngàng, thầy tươi cười bắt tay những cô cậu học trò xa lạ!
Chúng tôi vây quanh Thầy, và thế là Thầy Hiệu trưởng Phan Thanh Thiên giới thiệu ngay, người thầy Anh văn mới của chúng tôi: Thầy Đào Xuân Hòa.
Một năm học trôi qua thầy để lại cho chúng tôi nhiều kỷ niệm đẹp, một nếp sống đẹp, cụ thể:
- Sự vượt khó:Với bản thân “ khuyết tật ” mà thầy đã vượt qua đoạn đường dài với sự khắc nghiệt của thời tiết để đến với học trò không trễ giờ và không bỏ giờ lần nào.
- Sự tự tin: Với nụ cười rộng mở Thầy đem đến cho chúng tôi một niềm tin, thay vì chúng tôi thương cảm Thầy, ngược lại thầy luôn là người nâng đỡ chúng tôi.
- Một phương pháp giảng dạy khoa học: Cho học trò tự chủ, tham gia cùng Thầy đi vào nội dung bài vở.
-Sự hy sinh: Thầy một Cử nhân Anh văn ở Sài Gòn tìm đến một ngôi trường nghèo, một xứ lạ để dạy học, tiền lương của Thầy không đủ để đi xe xích lô hàng ngày! Thế mà Thầy thường mua sách tặng các học sinh thiếu thốn.
-Một tấm lòng rộng mở: Ở phòng trọ nhỏ hẹp của Thầy, luôn có học sinh đến tham vấn bài vở, và nhất là được thầy cho ý kiến giải quyết cuộc sống riêng tư, kể cả tình yêu, sự khó khăn…
Riêng tôi, may mắn được ân huệ nhiều nhất nhờ phận nghèo! Số là phần tập đọc (Reading) môn Anh văn là phải có sách riêng, không thể mượn của bạn bè được, vì: Trong giờ tập đọc cứ một bạn đứng lên đọc một đoạn văn, bất ngờ Thầy chỉ bạn khác đứng lên tiếp tục đọc, do đó luôn phải có cuốn sách để trước mặt để theo dõi, năm đó chúng tôi đang học cuốn “Practice Your Enghlish”, rất mới lạ, không thể mượn người đi trước; do đó tôi phải mua một quyển vở 400 trang chép ra để học. Mấy lần đến phiên tôi; Thầy đã phát hiện “quyển sách” đặc biệt này! Thế rồi, cuối tuần đó Thầy bảo tôi đến phòng trọ của thầy: được thầy “cho sách” đồng thời được thầy khuyến khích tôi năng gặp thầy, nhờ đó, hoàn cảnh nghèo khổ, nỗi cô đơn, cô độc của tôi được trút cho thầy, và tôi nhận lấy những lời vàng từ đó!
Năm học trôi qua, Thầy giã từ chúng tôi trở lại Sài gòn chuẩn bị đi du học; tôi xót xa tiễn thầy về Huế, ngày hè mùa xuân trong mùa hạ mà lòng tôi buồn da diết: Nghĩ là không bao giờ gặp lại, Sài gòn hoặc là một thành phố nào đó ở Mỹ, Úc sẽ làm thầy quên chúng tôi.
Năm ấy, chúng tôi bù đầu ôn thi kỳ cuối cùng bằng Trung học Đệ Nhất Cấp (Diplome of Secondary Education), bất ngờ nhận được thư của Thầy và bốn câu thơ: 

Ai xui ly biệt chớm mùa thi 

Bịn rịn sao đành giả kẻ đi 

Cố níu thời gian, ơi! đọng lại 

Để đừng xa mãi phút phân ly.



Bốn câu thơ ngắn ngủi của thầy là mối giây liên lạc, tạo nên một tình cảm lâu bền!

Năm 1968, Luật Tổng động viên ra đời, theo đó học sinh, sinh viên thi hỏng mà đủ tuổi (18 tuổi) là phải nhập ngũ. Tôi đỗ Tú Tài II năm đó, Thầy đánh điện tín gợi ý tôi vào Sài gòn, Thầy sẽ giúp đỡ, kể cả việc trốn lính (nếu thi hỏng) và Thầy đã nâng bước chân tôi. Tôi vượt qua 5 năm Đại học ở Sài gòn.

Từ năm 1975, hai thầy trò chúng tôi bặt tin nhau, vì điều kiện sinh kế, tôi vô tâm quên Thầy. Mấy năm gần đây các con tôi đã ổn định công ăn việc làm, tôi có dịp trở lại chốn cũ và may mắn  tôi được tin tức về Thầy. Thượng tuần tháng 07- 2013 chúng tôi xuống Thành phố Mỹ Tho và được gặp lại Thầy.




Thầy tôi đã 78 tuổi, Thầy phải ngồi xe lăn, nhưng giọng nói vẫn còn sang sảng, đôi mắt tinh anh, trí nhớ rất tốt, nhìn mặt đám học trò xưa Thầy không quên tên nào, thầy vẫn làm việc: Mở một văn phòng dịch thuật:  Tiếng Anh, Nhật và Pháp văn; một lớp học từ thiện giúp học sinh nghèo!

- Quá khứ là công lao đào tạo, nâng đỡ bao lớp học trò chúng tôi nên người, gieo cho chúng tôi tấm lòng nhân hậu để vào đời.

- Hiện tại là một tấm gương dũng cảm: Cần lao để nuôi sống bản thân và gia đình, giúp đỡ tha nhân.

Tôi cúi đầu Kính thầy!

Sáu mươi bảy tuổi, viết về Thầy, không bao giờ cạn lời “Tri Ân”, mong Thầy tôi vẫn lạc quan yêu đời, sống khỏe để giúp đời.

Học trò cũ: Nguyễn Trình

Địa chỉ: Số 3 Trần Hữu Dục, khu 6, Thị Trấn Ái Tử, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

Số điện thoại:  0169.3896. 496
Chú thích :
* Địa chỉ của Thầy hiện tại : 44A đường Giồng Dứa, Tp Mỹ Tho, Tiền Giang.
Điện thoại liên lạc : 0913.962.620 – 0733.873.743 
(1) Bằng Thành Chung : Diploma, Trung Học Đệ Nhất Cấp, Tốt nghiệp lớp 9.
(2)Trích đoạn “Ngày Tựu Trường” trong tập Quê Mẹ của Thanh Tịnh .
  
DUYÊN THƠ 
Trúc Đình: Nguyễn Trình- CHS K- 1960-1954

ĐT: 01673.896.496
“Thơ như những dòng sông đến từ nhiều hướng khác nhau, những sẽ về biển cả. Mỗi một người làm thơ và yêu thơ, bơi trong biển thơ đó: phát tiết tình thơ, ý thơ  và cảm nhận một cách khác nhau, tùy DUYÊN.”

Trên đây là nhận định của một nhà thơ nổi tiếng mà tôi, nhờ nhân duyên, được gặp anh(1) khoảng năm 1969 – 1970 tại Chùa Vạn Thọ (Đường Trần Quang Khải - Sài Gòn). Qua anh, nhiều lúc, tôi hỏi lại mình: Duyên Thơ từ đâu đến (với Tôi)?

TỪ DÒNG SÔNG QUÊ HƯƠNG.

Quảng Trị ơi! Hãn giang dài uốn khúc

Gói buồn như chết lặng chiều hôm.

…………………………………..

Đường về Chợ Sãi đầy sỏi đá

Tình cheo leo ấp mấy vành môi!

…………………………….(2)

Tôi nghe những câu thơ này lần đầu tiên, vào một chiều hè năm học lớp nhất (1959) từ giọng ngâm của một cậu Lê Vinh, khi đó đã là 1 học sinh của Nguyễn Hoàng (một ngôi trường, mà vào lúc ấy, hàng đêm tôi mơ ước). Câu thơ đầu có tên dòng sông Thạch Hãn, khơi dậy trong tôi một xúc cảm sâu sắc!  Dòng sông Thạch Hãn đang từng ngày, từng giờ, trải dài trước mắt tôi: những ngày hè tươi đẹp ôm tôi vào lòng, những ngày cuối đông, đầu Xuân cho tôi những luống cải vàng rực rỡ để ngắm nhìn và nuôi tôi sống; và trên hết là nuôi dòng thơ đưa tôi vào những giấc mơ huyền hoặc từ một quá khứ xa xôi đưa tôi về hiện tại và dẫn dụ tôi đến một chân trời xa xôi của tương lai!”

Tuổi thơ tôi và Chị tôi là “ Hai vì sao lạc”(3) đúng nghĩa; cô đơn dòng bên sông và bầu trời bao la ấy! Tuổi thơ cơ cực của tôi đã không được nghe giọng hò của Mẹ (vì Mẹ phải đi chạy ăn), hai Chị Em tôi như củ khoai lớn lên nhờ phù sa của dòng sông Thạch, may mắn được vỗ về bằng giọng hò của những chuyến đò phiên ngược xuôi Cam Lộ; đặc biệt những chuyến đò thường xuất hiện trước mắt tôi ở một khúc quanh của dòng sông mà tôi cho là đẹp nhất! Đó là khúc Sông từ ngã ba Sông Vĩnh  Định-Thạch Hãn đến cầu An Mô! Quê nội tôi làng Hậu Kiên (Chợ Sãi)  quê ngoại làng Tân Định, tôi sinh ra và lớn lên ở quê ngoại, con đường ấu thơ, con đường đi học của tôi là con đường mòn men theo bờ sông Thạch nối hai nơi nội ngoại; con đường mòn len lỏi dưới hàng tre dày đặc, gió bốn mùa làm nhạc tre vang vang suốt ngày đêm. Bên kia làng Xuân Yên, làng Trung Kiên cũng xanh ngắt những hàng tre soi bóng, nhưng ấn tượng nhất trong tôi là ngã ba sông Vĩnh Định -Thạch Hãn: bên kia sông là ngôi chùa Sư Nữ với tiếng chuông u tịch. Khi đêm về, nhìn lên thị xã Quảng Trị, cầu Nhan Biều mờ trong sương, nhất là về mùa hè “con đường buổi.chiều” ngập toàn màu hoa phượng đỏ, về mua Thu, mùa Đông một màn mưa gợi cho người cô độc một nỗi buồn da diết,…

Với ngôi trường đầu đời là đình làng Cổ Thành (cả Trung tiểu học Triệu Phong), ngày ngày tôi đối diện với bức tranh thủy mặc đó, nhưng nếu như không có những chuyến đò phiên(4) mang theo những câu hò, giọng hò mái nhì, những  vần ca dao lục bát... thì chắc chắn bức tranh đó sẽ không gợi trong tôi một hồn thơ. Nói cách khác, những giọng hò từ các chuyến đò phiên(5)Huế - Cam lộ đã thổi hồn vào bức tranh quê hương chợ Sãi, là cái Duyên đầu đời để tôi “mê Thơ!”

Bảy mươi đã cận kề, những điệu hò, câu ca từ dòng Thạch Hãn, đêm đêm trong mơ, tôi gặp lại những hình ảnh cũ; dư âm những câu hò, như một nghiệp chướng, níu kéo tôi về chân trời tuổi thơ! Thì hãy nghe sơ sơ một vài câu hò chợt nhớ chợt quên,  bảng lãng trong một góc khuất của vùng kỷ niệm:


Rồi mùa tóc rạ , rơm khô

Bạn về xứ bạn, biết mô mà tìm!

Hay:

Chim xa rừng còn thương cây, nhớ cội

Huống chi người xa người tội lắm người ơi

Chẳng thà không biết thì thôi

Biết rồi, mỗi đứa một nơi thêm buồn!

................................................................

Chỉ chừng đó thôi, mà trong tôi những đêm dài của buổi xế chiều, tôi nhớ những mùa hè chia tay dưới cây phượng già đình làng Cổ Thành ngày ấy, tôi đã khóc  trong sự vỗ về của cô An Ninh, cô Thúc Trãi, cô Kiếm,… và hình ảnh những nét nhìn rưng rưng của Mỹ Hường, Phương Thảo, Ngọc Hoa, Kim Hoa,…. Kết thành duyên thơ, để tôi đi vào những bến thơ trên con đường xa xứ!

THẦY TRỊNH NGỌC PHÒNG : Người điểm nhãn!

Bước vào trung học đệ nhất cấp tôi đã tuổi 14, đó là giai đoạn nao nức đầu đời của một thằng con trai, tôi bắt đầu xao xuyến trước ngoại cảnh: Một người con gái đẹp, một người thầy dạy giỏi, một người bạn thông minh…. Nhưng cái “ ám” tôi nhiều nhất là sự đổ vỡ, sự chia xa, phải chăng cảnh sống cô độc của tôi đã bị những câu hò của những người thương hồ cuốn hút, chắc là thế, nên tâm hồn tôi luôn luôn sâu lắng, hướng nội!

Tôi đi tìm tôi, đi tìm ta, rồi tôi muốn phát biểu, nhưng trí tuệ của một thằng nhà quê  ở tôi ở tôi vốn hạn hẹp, nên tôi vẫn hoang mang trong âm hưởng sâu lắng mơ hồ của những câu hò,những câu ca dao! Thể xác tôi đã lớn, xót xa trong tâm hồn tôi lại nhiều, nhưng làm sao đây để thổ lộ trong lúc chất liệu trong tôi đã dư thừa (hò Vè, ca dao, cảnh đẹp)… Tôi tìm cách “mổ vỏ” để giải thoát, cái trứng tôi lăn đi, lăn lại dưới mái đình Cổ Thành với những người đẹp nổi tiếng của Chợ Sãi, Trung Kiên, Xóm Hà như Chị Lý, Chị Mùi, Lê Thị Thừa, Xuân Viên,…

May thay! Tôi gặp Thầy Trịnh Ngọc Phòng!  Hơn nữa thế kỷ hình ảnh Thầy Trịnh Ngọc Phòng không phai trong tôi: Đó là một người mang dáng dấp nghệ sĩ, với dáng người thanh mãnh, đầu tóc bồng bềnh, bước đi nhẹ nhàng cùng với giọng nói ôn tồn đầy âm điệu ngọt ngào! Thầy dạy chúng tôi môn Anh văn!

Đình làng Cổ Thành án ngự cả một đoạn Sông Vĩnh Định, nơi gặp Sông Thạch Hãn; ngôi đình cổ với những cây cột gỗ to hơn vòng tay học trò, nơi đây tôi đã học ba năm (lớp nhì, nhất và đệ thất), cộng luôn cả tuổi nhỏ của tôi thì đây đúng là ngôi nhà kỷ niệm; đình rộng bao la, nhưng chỉ có một bức tường phía sau những bàn thờ, do đó về mùa đông gió thổi tứ phương, trời bị tối vì những cây cổ thụ dày đặc sân vườn. Trong những giờ học như thế, chúng tôi chẳng thấy gì trên bảng đen, để khắc phục tình trạng đó, thường các thầy cô đều cho học sinh làm bài tập! Dưới mái đình rộng lớn không có vách ngăn, được chia làm hai lớp; thời tiểu học, thường là một cô, một thầy; nên cô thầy trong những giờ này ra đề bài xong là xáp lại nói chuyện!

Qua thời Trung Học, thì các môn học phải thay đổi thầy cô! Với thầy Phòng, sau khi ra đề bài cho chúng tôi thầy thường đi quanh lớp, ngoài trời mưa, gió lạnh, tay thầy đút túi quần, lớp học im phăng phắc và ….mơ màng, nhẹ nhẹ cùng với gió bấc là tiếng ngâm thơ … của Thầy. Tiếng ngâm cùng với nét mặt của Thầy phải chú ý lắm, phải đồng cảm lắm mới nhận biết được! Vào ngày ấy, trong lớp không biết còn ai để ý không, riêng tôi (ngồi bàn đầu) mỗi lần thầy đứng trước mặt, tôi đều nghe rõ và uống lấy! Gần một năm học, những lần thầy ngâm thơ … tôi được nghe mà không nhớ hết; thế rồi, có một buổi chiều đông trời rất lạnh và âm u hết mức, tôi để ý nghe một bài thơ rất lạ, bài này thầy không ngâm một lần mà hơn cả tháng, khi nào có giờ làm bài tập là đươc nghe thầy ngâm, tôi lắng nghe, xúc động,…. Và tôi, không biết tự bao giờ, tôi thuộc gần hết bài thơ. Sau đó, tôi chép lại (thiếu 4 câu), nhờ thầy kiểm tra, đó là bài “Màu Tím Hoa Sim” . Tác giả là Hữu Loan!

Khác với ca dao, khác với tiếng hò trên dòng sông tuổi thơ, nhạc lời và ý của “Màu Tím Hoa Sim” đã đánh thức tâm hồn tôi đạt đến một cảm xúc tận cùng, thức tỉnh tâm hồn trong trắng tuổi dậy thì! Để rồi, tôi tưởng tượng đến những cuộc chia ly xảy ra của thời chiến tranh Trịnh Nguyễn, những lời thổn thức vì sự chia xa của người xưa ở trên kia nơi cầu Ái Tử:

Mẹ thương con ra ngồi cầu Ái Tử

Vợ thương chồng lên đứng núi Vọng Phu

Chiều chiều bóng xế trăng lu  

Nghe con ve kêu mùa hạ biết mấy thu gặp chàng!

“ Màu Tím Hoa Sim” đã đưa tôi gặp lại hình ảnh những người Vệ quốc quân, là các cậu tôi, các chú tôi,… đã chia tay Mẹ tôi. Dì tôi, vào mùa hè năm 1954 ở Phong An; ra đi và không biết bao giờ trở lại! Năm tháng làm tôi quên dần nổi chia ly ấy, nhưng bài thơ “Màu tím hoa sim” qua thầy Trịnh Ngọc Phòng  đã đưa tôi trở lại vùng kỷ niệm của ngày chia tay năm xưa! Hình ảnh những người Vệ quốc quân xuất hiện lại trước mắt tôi từ câu đầu tiên:

Nàng có ba người anh đi bộ đội

Chữ “bộ đội” khác với thuật ngữ “quân đội” của miền Nam, chữ “bộ đội” làm nhớ đến đoàn quân tiến về phương Bắc một đêm đỏ lửa mùa hè 54 ở Phong An! Đoàn quân hào hùng đó ra đi không hẹn ngày về, làm Mẹ tôi, Dì tôi, đợi chờ qua những tiếng thở dài…đợi chờ…

Nếu hiểu rằng anh đi vì lũ giặc tham tàn …(5)

Và, tiếng thơ của Hữu Loan qua thầy Trịnh Ngọc Phòng làm sống lại trong tôi một tuổi thơ mất mát, chia ly, xót xa,….

Và, hồn thơ của “Màu tím hoa sim” khác hẳn với những câu hò vè của thời trẻ nhỏ! Thúc  giục tôi bước vào cõi thơ (bằng chất liệu giọng hò của đò phiên cam lộ) mang màu chia ly!

Và, thầy Trịnh Ngọc Phòng đã dẫn dắt tôi vào những biển  thơ - cuộc  đời!

Từ giã Quê hương, ra đi năm 1968, một năm rực trời đạn lửa, đất Sài Gòn tôi tưởng rằng đã lánh xa vùng chiến tranh, xa được sự chết chóc, sự chia ly… nhất là hình ảnh của thầy Trịnh Ngọc Phòng và sự ra đi đột ngột của thầy! Nhưng rồi tiếng người cố phụ đớn đau, với “Những đồi hoa sim”(6), qua giọng ca của Phương Dung trong một quán café nhỏ ở Bàn Cờ làm tôi quặn thắt! Rồi “Áo anh sứt chỉ đường tà” (7) qua tiếng hát nhẹ như tơ trời của Thái Thanh làm tôi rưng rưng!...Nhưng, Dũng Chinh hay Phạm Duy chỉ thoáng qua, chỉ có nguyên mẫu Màu tím hoa sim, và giọng ngâm của Thầy tôi, Thầy Trịnh Ngọc Phòng, đi theo tôi, “ám” tôi một đời.

“Duyên Thơ” đã đến với tôi từ chất liệu câu hò, ca dao của quê hương đã được thầy Trịnh Ngọc Phòng “điểm nhãn” qua bài thơ “Màu tím hoa sim”của Hữu Loan. Thơ ơi, vì duyên mà khổ! Kính ơn thầy đã gieo cho Em cái khổ ấy!
TĐ-NT,

Bình Dương

Mưa tháng Bảy 2013

From:nguyentuong1984@yahoo.com 
Chú thích:

(1) Phạm Thiên Thư

(2) Thơ thầy Nguyễn Đức Minh, 1958, người làng An Cư

(3) Hai vì sao lạc, Anh Việt Thu.

(4) Chợ phiên cam lộ

(5) Nhạc Trần Hoàn

(6) Nhạc Dũng Chinh

(7) Phạm Duy


HẠ NHỚ !
Mâm Thị Đài                                                                      


            “ Hè về rồi đây tâm hồn xuyến xao...”

Hằng năm, cứ vào mỗi độ hè về khi con ve sầu kêu rã rích trên những hàng phượng đỏ. Khối Triệu Phong 1970-1974 chúng tôi lại bắt đầu khởi xướng cho một cuộc hội ngộ mới - Cuộc gặp mặt năm 2013. Những cuộc điện thoại thông báo từ Ban liên lạc(BLL gồm có; Hoàng Đức Phong, Trịnh thị Lựu, Lê Mậu Ẩn), những lời nhắn tin gọi mời từ phía bạn bè ríu rít nôn nao ...  Nhớ về Cửa Việt!

Ngôi trường Triệu Phong! Cái tên thân thương sao nghe xa vắng - Có phải nơi tình yêu bắt đầu!? Nơi những khúc tình ca dạo đầu đã đi vào huyền thoại cho một cuộc tình buồn. Nơi tôi biết thêu dệt nổi nhớ vu vơ và vụng về góp nhặt những vần thơ xây thành kỷ niệm. Tuổi thơ qua mau, những nếp nhăn lớn mãi theo chân ai chưa nguôi ngoai nổi nhớ! Còn đâu những ngày “Em tan trường về, đường mưa nho nhỏ, ôm nghiêng tập vỡ tóc dài tà áo vờn bay...”, còn đâu những phút giây... “Răng mà cứ theo tui hoài rứa - Cái ông ni ngó lạ chưa tề - Sớm trưa chiều ba buổi đi về - Đưa với đón làm chi không biết...” Còn đâu, biết tìm đâu bây giờ !? 

Gió biển chiều nay hơi nóng - Đoàn chúng tôi đã đến điểm hẹn tại quán Hoa Tiến - Gio Hải- Cửa Việt. Gần 50 bạn xa gần từ Đà Nẵng, Huế, Khe Sanh, Lao Bảo...(có cả dâu và rễ) hội tụ về đây quây quần bên nhau mừng vui chuyện trò sôi nổi. Có những bạn mới tham gia lần đầu còn bỡ ngỡ chưa nhớ hết rõ tên. Với tôi, đây là lần thứ ba sinh hoạt cùng với khối nên ít nhiều cũng nắm được luật chơi rất thú vị như: Đốt lửa trại, thi đấu kéo co có thưởng, vui chơi văn nghệ trên bãi cát v.v... Cùng hát cho nhau nghe những bài ca của một thời đi học, lòng xôn xao khi thấy hè về: “Mỗi năm đến hè, lòng man mác buồn...” nhí l¹i thêi c¾p s¸ch ®Õn tr­êng tung t¨ng tµ ¸o tr¾ng bªn nhau: “Quay về kỷ niệm lúc còn học sinh, tà áo trinh nguyên tô thắm bao tình...” Mặc dù đôi tay nhịp nhàng vỗ theo nhau nhưng trên những ánh mắt vẫn nặng trĩu buồn !  Rồi đến những bài đồng ca hồn nhiên được cất lên nối nhau từ người nầy sang người khác rất là dễ thương và đầy xúc cảm như thầm đưa nhau về thăm lại mái trường xưa

Bốn mươi năm trôi qua, những sóng gió cuộc đời đưa đẩy ngược xuôi, bạn bè mỗi người mỗi hướng đi theo dòng chảy của thời gian với bao buồn vui thăng trầm. Có đứa tha hương mãi đến bây giờ vẫn chưa một lần về lại Quê hương ngắm nhìn con sông quê mình đổi màu mỗi khi có mùa mưa lũ – Vĩnh Định đây, Thạch Hãn đó – Ai xuôi ai ngược biền biệt không về để nghe dòng sông tuổi thơ uốn mình quằn quại nhớ thương- Để mỗi sáng mai thức giấc có tiếng gà gáy thôi thúc đến trường - Để trong cơn mơ còn ú - ớ những trò chơi trên lớp và để suốt đời còn vang vọng mãi những lời dạy dỗ của Thầy Cô...

Ngoài kia sóng biển vỗ rì rào, gió mơn man thổi- Có phải biển đang thầm thì hát, đang rộn ràng trong niềm vui của chúng tôi: “Ôi biển yêu thương, biển quê hương”. Không gian như hâm nóng lên, những người khách quán bên kéo sang cùng cất tiếng ca hòa nhịp. Tiếng hát vang xa hòa cùng lời ru của biển. Tôi thầm mơ ước, giá như tuối thơ của chúng tôi không dừng lại để được tận hưởng những ngày còn rong chơi trên bờ đê ruộng lúa, thả diều mỗi khi chiều về cùng đám chăn trâu. Rồi khao khát những ngày còn đi học có nhau trên dãy đường làng quê nghe bầy chim sơn ca ríu rít nhãy múa trên cành. Những giờ trốn học cùng hái hoa bắt bướm say sưa ép vào trang vỡ. Những cánh phượng hồng vừa chớm nở trao tay ai vội vàng, thầm kín, vấn vương...“ Ngày đôi ta quen nhau tuổi còn thơ, đi học chung cùng giờ, nhặt hoa đem cho nhau ghi vào thơ, đếm đầu tay mà chờ...”

Biển về đêm thật dịu hiền bởi những con sóng đã không còn dữ dội- Tôi muốn ôm trọn biển đêm nay để vơi bớt nổi khắc khoải đợi chờ !?

“ Trăng vờn trên mặt biển
   Nhấp nhô tiếng sóng vang
   Thuyền ai trôi biền biệt
   Để riêng biển lỡ làng...”


Xa xa lấp lánh những con đom đóm từ đoàn thuyền bắt cá giữa biển khơi chưa về neo đậu. Cả nhóm bắt đầu thấy mệt mỏi thu dọn chiến trường. Sau cuộc vui là sự luyến tiếc, đợi chờ – Thôi nhé ! Hẹn mùa sau gặp lại. Tiếng cười xa dần, những con mắt ngậm ngùi lặng lẽ tiển đưa...

Biển Gio Hải, Tháng 6 năm 2013
 
NGÔN TỪ CỦA KÝ ỨC

Lê Thị Thanh Hằng

CHS THTP K- 1967-1971

Quê gốc ;Cổ Thành,Triệu Phong,Quảng Trị


CP: 682-365-5392

- VỀ QUÊ HƯƠNG :

Tôi sinh ra và lớn lên trên một mảnh đất mà người ta thường hay nói là “cày lên sỏi đá”  với những trận gió Lào khô khốc vào mùa hạ, cùng những cơn mưa dầm suốt  ngày, suốt tháng đem đến sự lạnh lẽo của mùa đông.Trước mặt nhà tôi là chợ Sãi ,vùng đất được thiên nhiên ưu đãi có cùng hai con sông Thạch Hãn và Vĩnh Định hội tụ. Có lẽ vì thế nên đã sản sinh ra nhiều người đẹp, tôi cảm thấy như vậỵ. Nhưng tôi cũng rất tự hào về quê hương tôi, về mảnh đất này. Nơi đây có những con sông hiền hòa chảy qua, những lũy tre rì rào cho tôi bóng mát, cây đa đầu làng vẫn còn in kỷ niệm tình người ấm áp. Địa linh sinh nhân kiệt là thế đấy. Tuổi thơ tôi đong đầy dấu ấn theo ngày tháng với những phiên chợ Tết đông đúc, người người gồng gánh hàng hóa từ các làng quê lên bán, những đêm cùng vui chơi dưới ánh trăng. Và khi ông trời nổi giận gieo nên những trận lụt bão kinh hoàng, không biết bao nhiêu người mất nhà, mất của rất khủng khiếp. Thuở đó còn nhỏ tôi chưa biết gì nên mỗi lúc thấy nước lụt tràn vào tôi lại thích vì được đi lội nước, đi coi người ta vớt củi,vớt tép, nhìn giòng nước cuồn cuộn mà cảm nhận được sức mạnh của thiên nhiên.Đến năm 1972 khi tôi 16 tuổi bắt đầu mộng mơ thì chiến sự xảy ra, tôi hối hã bỏ đi mà không một lần nhìn lại, quê hương tôi bị đau thương từ dạo ấy…Mùa hè năm 1974, tôi ở Đà Nẵng trở về thăm quê, trong lòng hớn hở với biết bao xúc động, tôi nghĩ sẽ được gặp lại thầy cô, bạn bè ngày xưa. Nhưng tôi chỉ đến được ở Hải Lăng mà thôi, buồn ơi là buồn. Làng tôi đã không còn, thầy cô, bạn bè mỗi người một phương, cảnh cũ người xưa đâu rồi? Tôi thầm hỏi mà tâm hồn tan nát. Mãi đến năm 2006, trước khi đi thật xa nửa vòng trái đất tôi trở lại quê hương lần nữa. Lúc này tôi thật sự đứng trên mảnh đất đã gắn liền với thời niên thiếu của tôi mà sao tôi vẫn thấy khác lạ, ngôi nhà thân thương, Khu vực  chợ Sãi quen thuộc, bến Miễu, chùa Cổ Thành, cây đa giếng nước đầu làng đã không còn. Thay vào đó là những ngôi nhà mới, những khuôn mặt chưa quen. Nhưng tôi cũng mừng vì quê hương của mình đã hồi sinh và sẽ được xây dựng lại như ngày xưa, tôi cầu mong được như thế!.

-VỀ TRƯỜNGLỚP:

 Trường tôi mang tên Triệu Phong cũng là tên của quận tôi ở. Trường nằm kế bên Chi khu quận, trên một mảnh đất rộng lớn, trước mặt là Trạm Y tế, phòng Hành Chánh quận, sau lưng là một dải đất trống. Tôi còn nhớ mùa hè năm 1967, chị tôi chở lên trường Nam Tiểu học để thi vào đệ thất của trường. Trên đường đi trong lòng tôi cứ nơm nớp lo sợ. Ở phòng thi tôi tình cờ quen với bạn Hoa vì anh của Hoa ở cùng xóm và cùng đi dạy với cậu tôi. Sau này về trường hai đứa vào học một lớp. Lớp tôi sĩ số rất đông có lẽ cũng trên 50 bạn. Hiệu Trưởng lúc đó là thầy Thiên, khi thầy về Huế thì thầy Phong lên thay, Gíám Thị là thầy Bính, trong văn phòng có thầy Hòa. Từ năm lớp 6 đến lớp 9 tôi được học với rất nhiều thầy cô, như quý cô Thanh, cô Quy, cô Hoàn, cô Hường, cô Gái ... thầy Hóa, thầy Hạnh, thầy Kế, thầy Quang, thầy Duy...và còn những thầy cô khác nữa. Tôi vẫn nhớ những tiết học Anh văn với thầy Kế thật là vui nhất là những cây kem được thầy thưởng mỗi khi lớp học giỏi, hay những khuôn mặt chăm chú theo dõi cuộc đời truân chuyên của nàng Kiều trong lời bình văn của thầy Hóa; với thầy Duy thì chỉ có định nghĩa, định luật và chứng minh, mặc dù thầy dạy Toán nhưng thầy vẫn hay kể chuyện nên tiết Toán không thấy khô khan mà trái lại rất hấp dẫn nhất là chuyện tình của thầy và cô. Vào thuở đó tôi ngưỡng mộ nhất là cô Quy, cô rất hiền, dịu dàng, dễ thương, mỗi lần nhìn cô bước vào lớp là tôi lại muốn làm cô giáo. Rồi nhũng đôi mắt căng thẳng nhìn theo ngòi viết của thầy cô mỗi khi dò bài,và nhiều, nhiều nữa, làm sao kể hết những kỉ niệm, những tình cảm dạt dào của thầy trò dưới mái trường thân thương.

- VỀ BẠN BÈ :

Với tôi bốn năm học ở trường là bốn năm có nhiều kỉ niệm nhất. Tình bạn của chúng tôi lúc đó rất ngây thơ và chân thật. Đầu năm tôi thường đi học với bạn Hường, Quỳnh Như (cháu cô Hoàn). Vào thời đó chúng tôi đến trường thường đi bộ dù cho trời nắng chang chang hay những ngày mưa dầm dề  với giá rét lạnh lẽo. Quỳnh Như học được mấy tháng thì đổi trường chỉ còn lại tôi với Hường. Qua năm lớp 7 có thêm Kiệt đi chung, đến đầu năm lớp 8 thì Mỹ Thuần từ trường Bồ Đề mới chuyển về. Thế là bốn đứa chúng tôi kết thành bộ tứ chợ Sãi cho đến hết năm lớp 9. Tôi còn nhớ lúc chia nhóm để học Toán thì chúng tôi bị rẽ làm hai, tôi và Hường cùng nhóm với Trần Ứng, còn Kiệt-Thuần thì nhóm khác. Chúng  tôi thường học nhóm ở trong làng Nại Cửu cũng là quê ngoại của bạn Hường nên mỗi lần như thế đều ghé nhà bà ngoại của Hường và được bà cho khi thì củ khoai nướng lúc thì trái bắp đang còn nóng hổi, ngon ơi là ngon. Đôi lúc vì ham chơi thường đến trễ liền bị ông cụ non Trần Ứng cằn nhằn rất ư là dễ thương.

Rồi những khi nghe lớp trưởng Hoàng Tiễn báo thầy cô nghỉ là chúng tôi vui mừng không xiết. Những kế hoạch đi chơi bắt đầu vạch ra, có bữa đi về làng Phúc Lộc xuống nhà của Hoa chơi, ngày thì đi đò qua Nhan Biều thăm người quen của Kiệt được ăn đậu phụng mới nhổ ngoài vườn vào rất ngọt và bùi.Và khi hoa phượng nở đỏ rực cả một góc trời, tiếng ve bắt đầu râm ran báo hiệu cho mùa chia tay sắp đến thì chúng tôi lại có những buổi cắm trại trong trường rất là vui. Biết bao nhiêu là kỷ niệm chợt tràn trong ký ức về một miền đất không bao giờ quên được. Bây giờ ở đây cách xa nữa vòng trái đất cũng đang là mùa hè nhưng không có màu đỏ của hoa phượng, chẳng nghe được tiếng ve kêu vào mỗi buổi sáng, không có thầy cô, bạn bè xung quanh nhưng sao tôi vẫn mãi nhớ hoài về nơi ấy: “Triệu Phong quê hương của tôi”. 
LTTH- Arlington, hè-2013
Lê Thị Thanh Hằng 2013
 ( Hà BX Lâm Thìn)



Nhóm bạn trại và Kim B gặp nhau tai cafe SÔNG THƯƠNG bên bờ sông Thạch Hãn 9/13 ( 1972 -2013)


KÝ ỨC TRƯỜNG XƯA
Lê Bá Ích (Bình Phước) - K-1968-1972

     
Nhận quyết định đi công tác nước ngoài (Campuchia) vào buổi sáng thì buổi  chiều, Hai (bạn học cũ của tôi ) báo tin còn ba ngày nữa là họp mặt cựu học sinh Triệu Phong. Thật là cơ hội hiếm có để gặp lại thầy cô, bạn hữu sau bốn mươi năm xa cách. Thôi đành  liều tâm sự thật với Ông Giám đốc,  không ngờ được Ông  dể dàng  chấp nhận và cử  đồng nghiệp đi thay .

        Hai ngày sau vợ chồng tôi có mặt ở quê sau gần mười năm chưa trở lại. Chiều hôm đó, Hai, Minh và một số bạn ghé nhà “lai rai” lên kế hoạch họp mặt vào ngày mai. Sáng hôm sau, ghé nhà Minh (Bích Khê) uống cà phê, sau đó lên thẳng Tích Tường. Đi ngang qua trường Triệu Phong tôi cố hình dung lại vị trí của ngôi  trường ngày xưa nhưng không tài nào nhớ nỗi. Tôi chẳng khác nào Ông Từ Thức lạc vào tiên cảnh và khi quay trở lại trần gian thì đã mấy trăm năm rồi. Suy nghĩ miên man trên suốt chặng đường và đến Tích Tường lúc nào không hay. 

       Gặp lại chục đứa bạn của một lớp học ngày xưa có trên năm chục học sinh, chúng tôi nhìn nhau mừng mừng, tủi tủi. Đứa mất, đứa còn, đứa Nam, đứa Bắc, đứa xuôi, đứa ngược... Hỏi ra bạn nào cũng nói nhớ, nhưng thú thật tôi như lạc trên cung trăng mới quay trở lại, không nhớ nỗi một bạn nào. Cũng phải thôi, sống với nhau từ tuổi dậy thì bây giờ gặp lại bạn nào cũng đến tuổi mãn kinh, (dân y khoa nói hơi bạo miệng); ba, bốn cháu nội - ngoại thì làm sao mà nhận ra nhau được, duy chỉ có cái răng sứt của Hồ Sĩ Khán và ngồi chung bàn với tôi ngày xưa thì không sao quên được.

Tán gẫu một lúc chúng tôi bắt đầu đi tìm thầy, cô. Thầy mà tôi nhờ bạn Minh đi tìm đầu tiên là Thầy Quang bởi nhờ Thầy mà hình ảnh thầy, cô in mãi trong ký ức của tôi. Có 3 điều ở Thầy mà tôi nhớ nhất :

           Thứ nhất là bài Sớ Táo quân in trên tập san tết Kỷ Dậu của trường năm 1969  không sót tên  một thầy cô  giáo nào (tôi ghi lại bên dưới, đoạn nhớ, đoạn quên, câu đúng, câu sai). Ngày đó, từ một học sinh trường làng lên Quận , lần đầu tiên đọc được bài  Sớ nhiều học sinh rất thích trong đó có tôi, vì bài viết vui, mới lạ, dí dỏm, bông đùa. Hơn nữa, bài Sớ lại đúng vào cái năm tuổi của tôi (Đinh Dậu) nên tôi  gặm nhấm nhiều hơn . Dĩ nhiên, đây chỉ là một bài mang tính chất văn nghệ, không phải là bài tổng kết học kỳ, đánh giá nhân cách hay kết quả học tập của học sinh. Tuy nhiên, dưới góc nhìn của mỗi  thầy cô, tùy theo từng vị trí công tác, từng  môn học, tính  nghiêm khắc hoặc  bao dung, cũng phác họa lên vài nét của học trò ngày ấy: nghịch ngợm nhưng  lễ phép, ham chơi nhưng học tốt, đa số là đáng yêu, kính thầy, mến bạn. 

         Điều thứ hai tôi nhớ có một lần Thầy cho  bài tập về nhà, mỗi em phải  sưu tầm cho thầy 100 câu ca dao (mà tại sao là thầy, hay có lớp nào đó thầy dạy Quốc văn tôi cũng không nhớ rõ) .Vậy là mất hơn  hai ngày mẹ tôi phải tập hợp các O, dì để giúp đỡ cho tôi. Thế là :

          “ Râu tôm nấu với ruột bầu,

           Chồng chan , vợ húp gật đầu khen ngon”.

 Hoặc:

Chiều chiều ra đứng ngõ sau ,

           Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều”

 Hay là :

“Hết mùa toóc rã rơm khô

          Bạn về quê bạn, biết nơi mô mà tìm”

Được mẹ, O và  dì tôi lần lượt đọc cho tôi chép gần 20 trang giấy. Ngoài ra, tôi còn chép thêm của các bạn nữa. Vì vậy, vốn ca dao trong tôi vô cùng phong phú. Từ đó, tôi yêu thích ca dao, qua ca dao tôi thấy cuộc đời đáng yêu và đẹp đẽ hơn, đơn giản và lý thú hơn. Từ ca dao mình càng  thêm  yêu quê hương và đất nước. 

      Điều ấn tượng thứ ba, đó là khả năng giao tiếp Anh ngữ của Thầy với người bản xứ đã để lại qua nhiều thế hệ học sinh lòng kính yêu và khâm phục. Ngày đó,  nhiều bài học Anh văn Thầy cho học thuộc một đoạn văn.  Có lần  lên trả bài, đọc thuộc lòng  một đoạn  mà tôi còn nhớ  đến tận bây giờ: “Have you sometime dream of  flying in to space ?”… (Bạn có khi nào mơ ước  bay lên không gian không ?...). Sau đó trả lời thêm một vài câu hỏi, Thầy cho: “ Two. Twenty mark”. Thật không có sự sung sướng nào bằng. Thật lòng, ngày xưa tôi học không có môn nào coi được chứ nói chi đến giỏi và xuất sắc và yếu nhất vẫn  là môn văn, đến bây giờ cũng vậy, tôi chẳng viết được một câu văn cho ra hồn, ngữ pháp không  nắm vững, nhưng cảm thụ văn học  thì tôi có. Những bài văn ngày xưa: Tôi đi học của Thanh Tịnh, Cảnh trăng lên ở thôn quê của Thạch Lam, Lá rụng của Khái Hưng, Làng Từ Lâm… Đến nay tôi vẫn thuộc lòng nhờ cái tài học vẹt và yêu thích văn học. Viết bài này là một cố gắng quá lớn của bản thân, bởi  những kỷ niệm quá ư sâu sắc, những rung động đầu đời mà  không dám ngỏ, những cảm xúc dồn nén buộc tôi phải thốt ra lời,  cộng thêm sự  động viên của thầy cô, thúc giục  của  mấy đứa bạn .

Lại nói tiếp, sau khi gặp thầy Quang đọc cho Thầy nghe một đoạn trong bài Sớ, Thầy vô cùng ngạc nhiên và cũng không biết tác giả là chính mình. Thầy căn dặn: “Em nhớ viết bài đăng trên Ký ức trường xưa số kế tiếp”. Tôi gật đầu xin hứa. Biết thầy quá bận rộn trong công tác tổ chức nên:

     “ Em kiếu từ đi

     Đến cuối đường kia

Trông thấy Thầy Hóa

Nom Thầy cũng khá

Ra dáng phong lưu,

Lãng tử  ngày nào,

Vẫn còn nguyên vẹn”.

Gặp Thầy, định vào nhắc Thầy  tình khúc “Mùa thu chết” của Phạm Duy.  Ngày xưa Thầy hát làm cho bao nữ sinh xao xuyến, ngây ngất Thầy còn nhớ không, nhưng rồi  các bạn  đứng bao quanh Thầy đông quá không tài nào chen chân  vào được, thôi  đành thủ phận đứng xa để chiêm ngưỡng Thầy vậy. Sau này, về đọc lại bài viết của Thầy trên Ký ức trường xưa II, Thầy có nhắc đến bài hát Mùa thu chết” đã được  nhà nước cho lưu hành, có cả  bài dịch của thi sĩ  Bùi Giáng và nguyên bản tiếng Pháp của nhà thơ Apollinaire. Rồi Thầy Thiên, Cô Thanh, Thầy Phong, Thầy Lữ, Thầy Tiêu…Thầy, cô nào tôi cũng  đứng ngắm nhìn thật kĩ, thật lâu (Tất cả thầy, cô đối với  tôi đều có một vài kỷ niệm nhưng vì khuôn khổ  hạn hẹp của bài viết này tôi không thể kể ra hết). Dẫu thời gian tóc thầy có bạc đi, trán thầy có nhiều nếp nhăn hơn nhưng bóng dáng các thầy, cô vẫn không thay đổi, vẫn hiền từ và ấm áp như ngày nào.

      Sau đó là liên hoan họp mặt, nhìn sang lớp của Nguyễn Ba (Bảo)

- Hoàng Phóng thấy hoành tráng quá, bạn bè khá đông, đặc biệt là tập san in hình của thầy cô, từng gia đình cựu học sinh lớp, do một bà O - cựu học sinh của lớp bên Mỹ in tặng, đúng là đẹp thật.

Một bạn trong lớp tôi  chép miệng:

-“Lớp mình nghèo quá”.

Tôi  không nghĩ vậy, chẳng qua là lớp  mình chưa tập hợp được sức mạnh của lớp mà thôi. Tuy nhiên, sóng  mũi tôi  thấy cay cay khi nhìn lại lớp mình ít quá. Ai còn, ai mất, một lớp gần năm mươi bạn  ngồi ngẫm lại cũng chưa đến ba chục cái tên.

Trong  lần trở lại  gần đây, tôi  được  các bạn trao tặng một danh sách lớp  trên bốn chục đứa, đó là một tín hiệu đáng mừng. Xin cảm ơn tấm lòng của các bạn đã cố công sưu tầm, kết nối . Hy vọng  trong  họp mặt lần sau  lớp chúng ta sẽ đông hơn, vui hơn .

       Cuối cùng, xin cố Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn thứ lỗi cho tôi được nhái lại  bài “Ở trọ” của Ông để tặng bạn bè  của tôi: (Vì tôi thấy hai từ“xa xăm - cuối trời ” trong thơ Ông nghe buồn quá).

 Hai,Ích,Hòa,Diễm , Hậu,Tam, Khán , Minh, Anh,Đức
Lê Bá Ích và các thành viên gia đình

   Trần gian một thoáng rong chơi

Ngày mai về chốn an vui, vĩnh hằng

   Cuộc đời sắc sắc, không không

Công danh, phú quý tro tàn bụi bay’.
 Bình Phước, tháng 5/2013-LBI



Xin chép tặng bài:

SỚ TÁO QUÂN

của Thầy Nguyễn Văn Quang



Năm khỉ sắp qua

Năm gà sắp đến

Lòng con lưu luyến

Về với Triều Đình

Vội vã đăng trình

Lên trời ăn tết

Tiện đây xin phép

Tâu lại Ngọc Hoàng

Hoàn cảnh nhà trường

Thầy, trò tạm biệt.

…………………..

Con qua Thầy Phong

Thầy rằng tạm được

Có trò hỗn xược
Song nói mau nghe
Chào hỏi xong xuôi
Tạ từ đi thẳng
Mới ra một đoạn
Lại gặp thầy Quang
Còn đi lang thang
Ở ngoài đường cái
Thầy phanh xe lại
Tâm sự cùng con
Lòng dạ héo hon
Nỗi buồn chất chứa
Xin đừng hỏi nữa
Bực lắm ông ơi !
Học trò lôi thôi
Khuyên hoài chẳng được
Có thằng đi ngược
Có đứa đi xuôi
Thầy nói hao hơi
Trò đều giả điếc
Tôi xin thú thiệt
Khổ sở vô cùng
Không nói thì xung
Nói thành xích mích
Thấy thầy  bực tức
Con kiếu từ đi
Vào đến phòng kia
Thấy Cô Hoàn dạy
Cô toan dứng dậy
Con bảo rằng đừng
Hỏi cô chuyện trường
Cô liền ngúc ngoắc
Học trò xuất sắc
Hiếm lắm ông ơi
Còn đứa lôi thôi
Thì nhiều vô kể
Học cho có lệ
Chăm chú chi đâu
Lòng con hơi rầu
Bước sang Thầy Hổ
Thầy rằng quá khổ
Quân sự mới về
Bài vở nhiều ghê
Học trò chậm chạp
Mìm cười con đáp
Xin chúc Thầy vui
………………….
Phá hoại trường tôi
Mái lủng chộ Trời
Vách toe hở gió
Mặt Ông nhăn nhó
Ra dáng ưu phiền
Nào học không chuyên
Nào chưa lễ phép
………………….
Con qua Thầy Kế
Thầy rằng cũng Thế
Chẳng có chi đâu
…………………
Con qua Thầy Thiên
Hỏi đến Cô Thanh
Cô Thanh sắp sanh
Không đi dạy được
Nên phải nghỉ trước
………………….
À, quên Thầy Bính
Chẳng biết đi đâu
Con chạy trước sau
Quyết tìm cho được
Giờ lâu mới gặp
Thầy đứng bơ phờ
Lễ phép con thưa:
Sao Thầy buồn rứa
Thầy rằng tình thế
Bực bội quá chừng
Xin Bộ cho tiền
Bộ rằng phải đợi
Thấy thầy bực bội
Con nói lãng ra
Học trò trường ta
Thế nào Thầy nhỉ?
Thầy rằng: Tôi nghĩ
Đa số đều  ngoan
Những trò lười, hoang
Tôi đều phạt nặng
…………………

“  Nay tôi ở trọ trần gian
Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời ”.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét