Thứ Ba, 12 tháng 5, 2015

Kha Tiệm Ly và các bài thơ phú ...

     KHA TIỆM LY

Tên thật: THÁI QUỐC TẾ 
Quê quán: Mỹ Tho, Định Tường
Cựu giáo sư Việt Văn, Hán Văn
Các bút hiệu : Lam Kha, Vũ Chương,
Liêu tần Chương, Thái Quốc Tế 

và từ 2008 là KHA TIỆM LY.
Sáng tác: 

Truyên ngắn, các thể loại thơ, phú, tiểu phẩm và bình luận Văn Học.
Cộng tác với nhiều báo chí, website khắp nơi.


Gồm các bài thơ Phú:
- Hoàng sa nộ khí phú - Hùng ca Quang Trung- Tự Trào Phú -Hoàng Sa tiếu ngạo phú - Điểm mặt quân thù- Tráng Sỹ hành- Trường Sa Tâm thư phú, Điểm mặt quân thù, đối diện quân thù phú.

Bia chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa năm 1930.
 ĐỐI DIỆN QUÂN THÙ PHÚ 
                                              Kha Tiệm Ly
  
Bắc biên địa, hận cũ chẳng nguôi ngoai
Đông lãnh hải, lại giở trò lếu láo.
Kéo dàn khoan ỷ thế nghênh ngang,
Bày thế trận vẫn thói quen hung bạo!

Than ôi!
Đau lòng biết mấy, giặc nuốt rồi mấy dặm Nam Quan,
Ôm hận bao năm, thù chiếm trọn Hoàng Sa hải đảo!
Ngông cuồng vẽ đường chín khúc, không kiêng công ước rạch ròi,
Nghênh ngang kéo cả dàn khoan, để lộ mặt mày ngổ ngáo.
Ỷ mạnh kéo tàu to tàu nhỏ, hiếp ngư thuyền không súng không gươm ,
Thẳng tay dùng cây ngắn cây dài, nện ngư dân chẳng giày chẳng áo!
Thảm sát Đồng Chúc, phụ nữ mang thai mà chúng giết như giết lợn giết bò,
Đánh chiếm Gạc Ma, chiến sĩ tay không mà chúng bắn như bắn cò bắn sáo!
Niềm uất hận chất kín gầm trời,
Biển tang thương đỏ tươi màu máu!
Cho vợ khóc chồng lệ xót lâm li,
Để mẹ nhớ con canh dài áo não!
Câu “Bốn tốt” đã thành lời lẽ yêu ma,
“Mười sáu chữ vàng” nay lòi tim gan chồn cáo!
Thế mới hay,
Vì mộng bành trướng mà mắt cú láo liên,
Bởi thói bá quyền nên lòng lang trơ tráo.
“Không có đối thủ nào trọn kiếp thù hằn,
Chẳng có hữu bằng nào trăm năm vĩnh hảo”
Mất lòng dân, thì dù tấc đất khó gìn,
Được lòng dân, sợ chi quân thù trở giáo!
Từ xưa:
“Hiền tài là nguyên khí quốc gia”
“Giang sơn mất thì nhà tan cửa nát”
Cho nên:
Chớ xui hào kiệt lên rừng đốt củi làm than,
Đừng đẩy sĩ phu ra đường bán rong hát dạo!
Nếu lúc bình thời mãi dùng củi mục làm quan,
Thì cơn quốc loạn lấy ai bảo toàn cương thổ?
Lũ vô tài vô đức, chỉ biến nhân dân thành chó thành dê,
Người đại trí đại nhân mới giúp giang sơn hóa rồng hóa hổ.
Hỡi quân thù!
Mi xua tàu chiến, chồn ló mặt chồn,
Mi kéo dàn khoan, cáo lòi đuôi cáo!
Miệng lằn lưỡi mối khác gì trôn đĩ thối tha,
Khẩu Phât tâm xà nên ló mặt mo vênh váo!
Dân ta lòng gang dạ sắt, chớ bày trò nhát khỉ rung cây,
Bọn mi mắt chột mắt mù, chớ lấy tơ trói hùm trói báo!
Giang sơn li loạn, trăm sông ta liền hóa Như Nguyệt, Bạch Đằng,
Tổ quốc lâm nguy, triệu dân ta đều trở thành Ngô Quyền, Hưng Đạo.
Trải bao binh lửa, Cửu Long Giang luôn chín khúc hào hùng,
Qua bấy phong ba, Hoàng Liên Sơn vẫn nghìn mây vời vợi.
Thử lửa đi! Chiến sĩ ta đạn đã lên nòng,
Xung phong đi! Nhân dân ta gươm chờ tuốt vỏ!
Thắng trăm trận cũ, Đại Cồ giữ nước nghìn năm,
Thắng một trận nầy, Việt Nam lưu danh vạn thuờ.
Anh em ơi!
Giặc đã đến rồi!
Giặc đã đến rồi!
Ta nhân nhượng cũng có mức có chừng
Chúng hung hăng ngày tự tung tự tác.
Thương giống nòi, chân mạnh bước hiên ngang,
Vì tổ quốc, máu sôi lòng bất khuất.
“Đánh cho để răng đen,
Đánh cho luôn dài tóc”.
Đống Đa  gươm khua chan chát, máu thù dơ bước chân voi,
Đằng Giang sóng cuộn ầm ầm, xác giặc còn tanh mũi cọc.
Diên Hồng vang rền “Sát Thát”, quyết bảo toàn hải phận, biên cương,
Như Nguyệt sang sảng lời thơ, không để mất ngọn rau, tấc đất.
Lao thân đạn lửa, mới biết ai dũng ai hèn,
Đối diện quân thù, mới rõ ai vinh ai nhục!
Dù máu đỏ loang lòng biển, quyết bảo toàn hạt cát quê hương,
Dù xương trắng chất  đầu non, không để mất bờ cây tổ quốc.
Hỡi anh em!
Vung tay lên, trăm triệu chung lòng!
Trước giặc thù, một còn một mất! 

                               Kha Tiệm Ly

 

ĐIỂM MẶT QUÂN THÙ PHÚ - Kha Tiệm Ly


     Nhà thơ Kha Tiệm Ly vốn được rất nhiều người biết đến với các bài phú hào khí ngất trời như HOÀNG SA NỘ KHÍ PHÚ, HOÀNG SA TIẾU NGẠO PHÚ, thể hiện nhiệt huyết sục sôi của dòng giống Lạc Hồng luôn luôn bất khuất trước hành vi ngang ngược của Trung Quốc trên Biển Đông. Anh vừa gửi đến chúng tôi bài phú mới nhất ĐIỂM MẶT QUÂN THÙ PHÚ. Xin mời quý bạn cùng đọc! 


                                         

ĐIỂM MẶT QUÂN THÙ PHÚ





Biển đông cao sóng hờn căm,

Hải đảo cựa mình đau đáu.

Nhìn về Hoàng Sa, tan dạ nát gan,

Nghĩ tới Trường Sa, đứng tim sôi máu!



Hỡi quân thù!



Chớ ỷ mạnh mà quen thói hung tàn,

Chớ cậy đông mà giở trò thô bạo!



Nói cho mi biết:



Đụng tới viên sỏi đảo ta, là đụng tới ngàn năm công đức tổ tiên,

Làm nhục một người dân ta, là làm nhục trăm triệu anh em máu thịt!

Hiếp biển nước ta, là bôi mặt nòi giống Tiên Rồng,

Cướp đất đảo ta, là sỉ nhục giang sơn Đại Việt!

Cha, chú ta, dân cày ruộng cũng là hảo hán anh hùng,

Mẹ, chị ta, người nấu bếp cũng là nữ lưu hào kiệt!

Trước họa nước, bao hiểm địa cũng thành Vạn kiếp, Chi Lăng,

Trước nạn dân, mọi trường giang đều hóa Bạch Đằng, Như Nguyệt!

Hồi trống trường, cũng thành trống trận thúc quân,

Bóng cờ lau, cũng thành bóng cờ quyết thắng!



Nói cho mi nhớ,



Triệu Nương, một dải yếm đào mà Lục Dận chẳng một tàn quân,

Trưng Vương, hai mảnh quần hồng mà Tô Định không còn manh giáp!

Sức mạnh ta là Hội Nghị Diên Hồng,

Khí thế ta là cánh tay sát thát!

Sao không lấy gương Liễu Thăng, Ô Mã mà soi?

Sao không lấy chuyện Thoát Hoan, Vương Thông mà xét?

Thấy Sầm Nghi Đống treo cổ sao chẳng rớt tim?

Nghe Hứa Thế Hanh bỏ mạng mà chưa vỡ mật?

Thanh gươm Lê Lợi, trăm năm sau, mi vẫn còn phách mất hồn tan.

Vó ngựa Lý Thường, hai châu cũ (**), đất chẳng dám hoa khai cỏ mọc!



Với bọn mi,



Tổ tiên ta từng bẻ trúc rừng làm ngọn giáo dài,

Cha anh ta đã lấy lưỡi cày đúc thanh kiếm bạc.



Thế mà,



Đằng Giang mấy lần nhuộm máu, máu thù chẳng hết  tanh hôi,

Đống Đa một trận phơi xương, xương giặc vẫn chưa rũ mục!

Chương Dương gươm khua chan chát, xác cản mũi tàu, xác nghẽn bước quân,

Khâm Châu sét nổ ầm ầm, máu ngập chân thành, máu dơ chân ngựa!



Huống chi nay,



Tiềm thủy đỉnh xuất quỷ nhập thần,

Chiến đấu hạm, đi giông về lốc.

Đầy căn cứ, muôn (*) dàn hỏa tiển đối không,

Nghẹt vùng trời, hàng đội phi cơ tiềm kích.

Cờ phất, đạn bay khiếp quỷ kinh thần,

Bấm nút, bom rơi long trời lở đất.

Tàu ta ầm ầm lướt biển, trèo lên sóng dữ gió to,

Quân ta ào ạt băng rừng, đạp nát cây gai lá sắc.

Gươm anh linh thép vẫn ánh ngời ngời,

Tim chính khí máu luôn sôi sùng sục!



Dù vũ khí có chia rõ nhược, cường.

Nhưng ý chí mới định phân cao, thấp:

Quân mi mấy mươi vạn (*), mà Đằng Giang xác nổi như bèo?

Quân mi mấy mươi muôn, mà Hồng Hà thây trôi như rác?

Quân ta mấy vạn, mà xác bọn mi làm nghẽn đường chiến tượng Quang Trung?

Quân ta mấy muôn, mà máu lũ mi đã đẫm giáp chinh y Hưng Đạo?

Lớn miệng khoe đất rộng, mà chịu làm tôi tớ bởi bầy ngựa Nguyên Mông,

Cao giọng ỷ người đông, lại đành làm tai sai do mấy đoàn quân Nhật!



Chúng ta đây,



Hướng ra biển, triệu triệu anh em chung dạ sẵn sàng,

Muốn hồi hương, vạn vạn kiều bào một lòng háo hức.

Đem tim gan tôi đỏ chí quật cường,

Lấy đoàn kết, nấu sôi lòng son sắt!

Cờ tổ quốc đâu để nhạt màu,

Máu hùng anh không cho phai sắc!

Liệt sĩ Hoàng Sa luôn bám bước quân hành,

Liệt sĩ Gạc Ma vẫn theo người cứu quốc!

Từng đánh mi trăm trận, đã biết đâu đá đâu vàng,

Giờ thử lửa một phen, cho biết ai gang ai sắt?



Anh em ta,



Nam nhi hề, chí tại biển đông,

Chiến sĩ hề, thân treo đầu súng.

Cửu Long vẫn hiên ngang chín khúc hào hùng,

Hoàng Liên mãi sừng sững mấy tầng cao ngất.

Lúc gian nguy, ra trước ngõ lại thấy anh hùng

Buổi quốc nạn, xoay bai bên đụng người kiệt xuất!

Vì chung trăm trứng, nên đá nghìn non  thương về hải đảo anh em,

Cũng bởi một nòi, mà nước muôn lạch tìm đến biển xanh cốt nhục.

Chung mẹ Âu Cơ, nên máu chảy ruột mềm,

Cùng cha Long Quân, mới lòng đau dạ thắt.

Trăm triệu đồng bào đều muốn vượt trùng khơi,

Mấy triệu anh em luôn hướng về cố quốc.

Bọn chúng bây, nào một lần cướp nước, hại dân,

Anh em ta, đã bao bận đuổi thù, giết giặc.

Thân vắt mạn tàu, bao anh hùng muôn thuở thơm danh,

Chết dưới ngọn cờ, máu liệt sĩ ngàn năm đỏ sắc!

Hét lên đi! Đại Việt hùng cường!

Vung tay lên! Việt Nam bất khuất!

Máu đọ máu thử coi ai đỏ ai đen?

Tim đọ tim thử xem ai vinh ai nhục?



Lời cuối cho mi:



Lịch sử Âu Lạc không thiếu đấng kiên trung,

Nhân dân Đại Cồ chẳng có người khiếp nhược!

Hải đảo ta một vùng khiêm tốn, vẫn đủ cho lũ giặc chôn thây,

Biển đông ta bốn hướng mênh mông, dư sức để muôn tàu dìm xác!

Ta nói có cội có nguồn,

Mi liệu tính sau tính trước!



                                                     KHA TIỆM LY


Chú thích:

(*) Những con số chỉ có giá trị biểu kiến

 

HOÀNG SA  NỘ KHÍ PHÚ

Ngựa cũ quen đường,
Đĩ già lậm nết. 
Việc phế hưng mỗi thuở khác nhau,
Mộng bá chủ bao đời y hệt!

Ta thấy ngươi,
Từ Đông Chu bị họa Thất Hùng,
Đến Hậu Hán bị xiềng Tam Quốc.
Đất Trường An thây chất chập chùng,
Bờ Vô Định xương phơi chất ngất!

Đã biết,
Hễ gieo chinh chiến là kín đất đau thương,
Nếu động can qua thì mịt trời tang tóc.

Vậy mà sao,
Chẳng lo điều yên nước no dân,
Lại quen thói xua quân chiếm đất?

Như nước ta,
Một dải non sông, nam bắc chung giềng,
Trăm triệu anh em, trước sau như nhất.
Hoàng Liên, Tam Đảo, Hồng Hà, Cửu Long , muôn đời là máu là xương,
Phú Quốc, Côn Sơn, Trường Sa, Hoàng Sa, vạn kiếp  là da là thịt.
Máu xương ta, ai dám tách rời?
Thịt da ta, mi đòi chia cắt?
Bốn nghìn năm, một tổ quốc phồn vinh,
Ba miền đất, khối giang sơn gấm vóc.

Người trăm triệu nhưng vốn một lòng,
Tim một trái dẫu nhiều sắc tộc!
Nữ nhi chẳng thiếu bậc anh hùng,
Thiếu niên cũng thừa người kiệt xuất.

Mười năm phục quốc, gươm Lê Lợi thép vẫn sáng ngời,
Ba lượt phá Nguyên, sông Bạch Đằng cọc còn nhọn hoắt.
Liên hồi giục, trống Ngọc Hồi hực bước tiến quân.
Luôn miệng thét, điện Diên Hồng, vang lời sát thát.
Ải Chi Lăng, Liễu Thăng chết còn lạc phách kinh hồn,
Sông Nhị Hà, Sĩ Nghị chạy từng đứng tim vỡ mật.
Rầm rộ vó câu Thường Kiệt, Khâm Châu ngàn dặm, không còn bóng quỉ bóng ma,(1)
Âm ầm tiếng sét Đống Đa, Quảng Đông toàn tỉnh chẳng tiếng con gà con vịt. (1)

Hùng khí dù dậy trời Nam,
Nghĩa nhân lại tràn đất Bắc:

Thương ngươi binh bại, tàn quân về, bọn ngươi còn được cấp xe ngựa rình rang (2)
Trọng kẻ trung can, hổ tướng chết, tổ tiên vẫn cho thắp khói hương chăm chút?(3)
Mạc Cửu đem quân lánh nạn, chúa ta vẫn mở dạ đón người,
Hoa kiều mượn đất ở nhờ, dân ta vẫn chia cơm xẻ thóc.

Phúc cùng hưởng khi mưa thuận gió hòa,
Họa cùng chia lúc sóng vùi gió dập.
Giúp các ngươi như kẻ một nhà,
Thương bọn ngươi như người chung bọc!

Thế mà nay,
Ngươi lại lấy oán trả ơn,
Ngươi lại đem thù báo đức!
Ăn đàng sóng, nói đàng gió, y như đĩ thúi già mồm.
Lộn bề ngược, tráo bề xuôi, khác nào điếm già bịp bạc.

Kéo neo tuần hạm, ào ào đổ bộ Hoàng Sa,
Quay súng thần công, ầm ỉ tấn công Đá Bắc.
Chẳng chấp hải qui,
Chẳng theo công ước.
Quen nết xưa xấc láo, giở giọng hung tàn,
Lậm  thói cũ nghênh ngang, chơi trò bạo ngược.

Nói cho bọn ngươi biết; dân tộc ta:
Từng đánh bọn ngươi chỉ với ngọn giáo dài,
Từng đuổi bọn ngươi chỉ bằng thanh kiếm bạc.
Từng đánh Tây bằng ngọn tầm vông,
Từng đuổi Nhật với thanh mác vót!

Vì khát độc lập mà thường uống nươc lạch, nước đìa,
Vì đói tự do  mà quen ăn  muối mè, cơm vắt.
Sá chi tóc gội sa trường,
Há quản thây phơi trận mạc.

Hãy liệu bảo nhau,
Nhìn thây Gò Đống mà liệu  thắng liệu thua,
Thấy cọc Bạch Đằng mà nghĩ sau nghĩ trước!
Đừng để Biển Đông như Đằng Giang máu nhuộm đỏ lòm,
Đừng để Hoàng Sa là Đống Đa xương phơi trắng xác!

Nếu ngươi dựa vào hỏa tiển, phi cơ,
Thì ta cũng có tuần dương, đại bác.
So vũ khí, thì kẻ nhược người cường,
Đọ trái tim, coi ai gang ai sắt?

Thư hãy xem tường,
Hoàng Sa hạ bút.

KHA TIỆM LY
(1) Sử ghi: Khi Lý Thường Kiệt  xua quân qua Khâm Châu, Liêm Châu, cũng như khi quân Thanh bại trận Đống Đa chạy về, thì dân Tàu vùng biên giới kinh hoàng chạy  theo. “Từ Nam Quan về bắc hàng trăm dặm vắng tanh, không thấy bóng con gà, con vịt”
(2) Sự kiện Lê Lợi cấp ngựa và lương thực cho tù binh quân Minh về nước
(3) Sự kiên dân ta lập miếu thờ Sầm Nghi Đống, hạ tướng của Tôn Sĩ Nghị.





HẬN HOÀNG SA

Bốn mươi năm mà như hằng thế kỉ

Hoàng Sa quặn mình bao vết chém đau

Mắt tổ quốc chưa bao giờ ráo lệ

Quàng khăn tang lên ngàn sóng bạc đầu



Máu hùng anh nhuộm lòng biển đỏ

Càng đớn đau càng sục chí kiên cường

Quân thù hỡi! Bạch Đằng Giang rực lửa

Mi chờ đi, ngày xác ngập sa trường!



Trăm triệu anh em cùng chung hòn máu

Như Hoàng Liên Sơn cao mãi chí ngang tàng

Năm tháng xót thương người em hải đảo

Cuồn cuộn căm hờn sông nước Cửu Long Giang



Muôn lạch suối chung lòng về biển cả

Ngàn núi non luôn bền chí phục thù

Người bé lớn giáo mài, gươm tuốt vỏ

Thề một lòng cùng trả hận thiên thu



Vỗ kiếm, giận đời chưa thỏa chí

Đối diện quân thù một trận đá tro bay

Ôm nhục nước nén vào tim chánh khí

Rượu ba miền không đủ một ta say!
                                          Kha Tiệm Ly

 VĂN “HÀNH”

 “Văn dĩ tải đạo”, lời cũ thường khuyên,
“Đức khả thắng tài”, kẻ sau chẳng nhớ!
Trộm nghe:
Thế nhân vốn một mặt muôn lòng,
Văn chương cũng năm đường bảy ngõ!
Trò đời đã nhiều chuyện lá lay,
Con tạo lại bày trò cắc cớ!

Nhớ xưa,
Bao thi nhân hùng khí chưa mờ,
Bao kiệt tác ngôn phong còn đó.
Đồ Chiểu đâm mấy thằng gian, bút thép chẳng tà,
Cử Trị mắng bao phường nịnh, lòng son vẫn tỏ.
Hịch Tướng Sĩ, sông Bạch Đằng nước cuộn sóng gào,
Cáo Bình Ngô, núi Chí Linh cây rung lá đổ.
“Văn dĩ tải đạo”, lời cũ thường khuyên,
“Đức khả thắng tài”, kẻ sau chẳng nhớ!

Thế mà nay,
Học hành đôi chữ lem nhem,
Văn vẻ ba xu ú ớ.

Vỗ bụng cứt, khoe ráp được vần ngược, vần xuôi,
Vểnh tai trâu, thích nghe nịnh lời nầy, lời nọ.
Văn nghe  trớt huơ trớt hướt, giống hệt nước mắm chấm dùi,
Thơ viết lốc cốc lom com,  y như thầy chùa gõ mõ!
Không rành luật đối, cũng xưng mầy đó ta đây,
Chẳng sạch vần gieo, cũng vô hội nầy hội nọ!
Thơ in vài tập, bán chẳng ai mua, mà chừng như đội đá vá trời,
Văn  viết đôi bài, mời không ai đọc, mà đã vội khua môi múa mỏ.

Vậy mà,
Báo ngày lâu lâu thấy “tụng”, chỉ có quỉ mới tường.
Báo tháng thỉnh thoảng lại “ca”, chỉ có trời mới rõ!
Chỉ tội người nghe con ráy lùng bùng,
Chỉ thương người xem con ngươi lổ đổ!
Ráng banh miệng, mà cười chẳng ra cười
Cố xệch môi, mà khổ không ra khổ!

Vinh chăng?
Đi xe đời mới, đặt đít sướng mông,
Ở nhà lầu cao, ngẩng đầu trật cổ!

Như ta đây,
Dù cái thi, cái phú chưa đầy lá mít, lá mơ,
Nhưng cái nghĩa, cái tâm khá hơn loài sâu loài bọ.
Ghét quân khẩu Phật tâm xà,
Ghét phường miệng hùm gan sứa.
Không dè lời, cứ thẳng mực tàu.
Theo đúng thước, làm đau lòng gỗ!
Bao năm “bán phổi”, đệ tử mấy ngàn,
Một thuở khua chèo, bạn bè vô số.

Ngặt vì,
Kết bạn thì “Tri mãn nhân gian”
Ngoãnh mặt lại,”Vô thân tứ cố”!
Không độ nỗi những kẻ cúi lòn,
Chẳng theo kịp mấy thằng bợ đỡ!
Chẳng bù cái mũi có giàm,
Không giống đồng xu có lỗ!
Chẳng phải bành voi mặc kẻ leo lên,
Không như trôn đĩ mạnh ai mấy xỏ!

Dù cho,
Thời buổi nầy mà rách dép rách giày,
Xe đạp nọ luôn trật sên trật chó!
Dù áo Châu Trí (1) cũng đành mạn cổ, vá vai,
Nhưng mặt Trần Minh (2) dễ gì bôi vôi, trét nhọ.

Đã từng,
Văn chương treo ở đầu giàn,
Bút mực đem quăng một xó.
Nào chê bai chữ nghĩa rẻ như bèo,
Mà  tức khí vàng thau cùng một rọ!

Khổ vì,
Muốn hoàn lương mà nghiệp đĩ cứ đeo,
Muốn quăng bút, mà đường văn còn nợ!
Sá gì gạo vét mòn lon,
Thây kệ giày đi há mỏ!
Lời bẩn trét đầy trang giấy, thì mặc ai làm bồi bút mà no,
Lòng sạch ực nước cành hông, thây kệ người nói thanh bần là khổ.

Thôi thì,
Mặc ai pha muối pha đường,
Mặc nó lộn vừng lộn đỗ.
Tự hào vì thứ ta đủ, mà họ không cần,
Kiêu hãnh bởi điều họ dư, mà ta không có!

Xem xong,
Ai nhột thì cứ “xổ nho”
Ai khoái thì xin cổ võ!

SẮC TÀI THÁN PHÚ
                                     Phú Kha Tiệm Ly  

Trộm nghe,

Nghề văn muôn thuở như nhau,
Gái đẹp mỗi thời có khác!
Người luôn chê chữ nghĩa giá bèo,
Ai dám bảo hồng nhan phận bạc?

Ôi! Cái văn,

Thường được coi là món bổ tinh thần,
Sao lại rẻ hơn thú vui nhục xác?

Hẩm hiu thay!

Đợi bài lên báo, ngóng dài cổ vạc cổ cò,
Đến lúc lãnh tiền, đếm được đồng trinh đồng cắc!
Sách kim sách cổ, có ra chi ngọn bút vẽ vời.
Ông cống ông nghè, sao sánh bằng cái mông lúc lắc!
Nhuận bút bài báo, mua không được một cái quần xì,
Tiền thưởng bài văn, sắm chẳng nổi nửa manh áo ngực!
Ngày tối cơn ho lục khục, mồm khạc cục tím cục bầm.
Vợ con cái mặc lem nhem, áo vá miếng chằng miếng đụp!
Thân như bệnh nhân chờ thuốc, ốm tỏng ốm teo,
Nhà như người đẹp khoe lưng, trống huơ trống hoác!

Chi bằng,

Tối ngày ôm đít vợ, cố rặn ra một đứa "tiểu thư”
Hôm sớm nựng má con, ráng "tút” được một nàng "khuê các”!
Quần soọc (short) phơi đì phơi háng,  lổ lộ của trời,
Áo dây khoe rún  khoe lưng, chênh hênh bộ ngực!

Nhìn ai kia,

Lúc nhúc dáng ngồi cao thấp, giống hệt "ruồi bu…” (… ngựa!”)
Tác hoác  miệng há nhỏ to, y chang  chó ngáp!

Trớ trêu thay!

Nhà văn bao lần đoạt giải, mơ mấy triệu ngoài sức mỏi mòn,
Hoa hậu một bận đăng quang, ôm vài tỉ trong tay cầm chắc!
Nhờ sự bảo kê của mấy thằng lắm bạc nhiều tiền,
Nhờ thói rửng mỡ của lắm tên thừa gân dư nạc!

Mới hay,

Sắc trọng như vàng,
Văn khinh như rác!

Nhìn xem,

Bao người cơ nhỡ vất vưởng vất vơ,
Bao kẻ lang thang cù bơ cù bấc.
Có em nghèo khó mà nửa chừng dang dở sách đèn,
Có phận hẩm hiu mà suốt đời chưa vào trường học!
Tiền tỉ đó sao không giúp kẻ khốn cùng?
Tiền tỉ đó, sao không giúp người đói rách?

Hay chi,

Đo chữ hư danh bằng vòng ngực vòng mông,
Lấy thói phù hoa thay cái nhân cái đức?

Hay là,

Lòng nhân gió cuốn tro bay,
Thể xác gió lên cờ phất?

Nhớ câu:

"Ăn gì mỗi lúc một ngu,
Uống chi mỗi ngày một dốt!”

Than ôi!

Cái tâm nhỏ xíu nào khác lá đa,
Chữ đức nhẹ hều, y như cọng lác!
Sự đời hao hao mõm chó, đen thủi đen thui,
Chữ tình tờ tợ mảng mông, trắng xơ trắng xác!
Ngẫm mà dạ xé như bào,
Thấy mà ruột đau như cắt!

Thương thay các nhà văn,

Tài năng sanh chẳng gặp thời;
Tinh hoa trỗ không đúng lúc.
Viết ngàn trang sao bằng một cái vẹo mình,
Thức trắng đêm tiếc cho trăm năm mài bút!

Đúng quá cho câu:

"Thế gian kẻ dại người khôn”
"Óc khôn không bằng trôn (l…) mập”!!

Thôi thôi,

Thói đời lắc léo đành ngả mủ chào thua.
Màn kịch éo le xin tuột quần bái phục!
Ngửa mặt khóc ba tiếng hu hu,
Nhắm mắt cười mấy tràng hặc hặc
                                                           Kha Tiệm Ly
                                                           ĐT: 0987 701 952
                                                  Email: khatiemly@gmail.com


 

HÙNG CA QUANG TRUNG

 “Đánh cho chúng chích luân bất phản,
Đánh cho chúng phiến giáp bất hoàn”
Vó ngựa thù …
Vang rền biên ải
Nhói tim người áo vải, cờ đào
Tuốt gươm thiêng, lấp lánh mấy tầng sao,
Quyết giữ lấy quê hương từng ngọn cỏ.
Máu hùng anh cháy ngời như ngọn lửa,
Máu ba quân sùn sụt chí kiêu hùng.
Ứng lời người,
Dài một dãy non sông…
Trường sơn vội vươn mình cao thêm thước
Hoành sơn vội xoay mình vươn tới trước, (1)
Cho dòng quân như thác lũ dâng tràn
Một lời thề rúng động cả giang san….
“Đánh cho chúng chích luân bất phản,
Đánh cho chúng phiến giáp bất hoàn” (2)
Từng dòng người như thác đổ miên man
Tiếng ngựa hí vang vang trời một cõi.
Sau bạch tượng, vó câu ào đá sỏi,
Sau tướng quân, gươm thép tuốt sáng ngời!
Bạch Đằng giang háo hức máu xưa sôi.
Ngàn sông rạch như lưới trời bủa sẵn.
Sóng trường giang ào ào cơn quốc hận
Hoàng Liên sơn ngân ngất dáng ngang tàng…
Trống Ngọc Hồi chấn động đến Nam Quan,
Đồn Khương Thượng quân thù thây chất đống (3)
Tiếng quân reo, cướp hồn Sầm Nghi Đống (4)
Tiếng quân reo, cuồn cuộn sóng sông Hồng…
 
Vó ngựa tung hoành giữa núi đao,
Cứu dân thoát khỏi biển ba đào.
Sông Hồng xác giặc lênh bênh nổi,
Gò Đống thây thù chất ngất cao.
Bảo kiếm sáng ngời rung ánh nguyệt,
Chiến công chói rạng dậy tầng sao.
Giang sơn một cõi nghìn thu vững,
Tanh máu xâm lăng nhuộm chiến bào!

Hồ Thơm Nguyễn Huệ,
Mãi mãi về sau:
Chiến tích một thời rung bốn biển,
Uy linh ngàn thuở động năm châu!
Hồ Thơm Nguyễn Huệ
Áo vải Tây Sơn:
Đường cũ dẫu mờ muôn dấu ngựa,
Sử sanh còn rạng tấm lòng son.
KHA TIỆM LY

Chú thích :
(1): Hoành sơn là dãy núi nằm ngang cũng muốn vươn mình theo hướng Bắc Nam
(2): Lời vua Quang Trung nói với tướng sĩ trước khi xuất trận
(3)+(4): Sầm Nghi Đống chết tại đồn Khương Thượng, và quân sĩ tại đồn này chết hàng vạn, gom lại thành 12 đống

TỰ TRÀO PHÚ

Trộm nghe,
 Lấy gương soi mặt giai nhân,
Lấy TÂM soi lòng kẻ sĩ.
Đem gian nan thử bậc cao tài,
Đem lửa đỏ thử vàng đúng tuổi. 

Cười cho mỗ,
 Một đời múa bút, chữ "sĩ" lăm le,
Bao bận khoa gươm, chữ "hùng" lấp ló.
Chỉ vì bút nghiên chuệch choạc, mà văn chẳng ra văn,
Cũng tại chân cẳng quều quào, mà võ không ra võ!
Ngũ kinh lập bập, rặn ba bài phú mà đọ với Dương Hùng,
Tam lược nghêu ngao, lượm mấy cơ mưu, lại sánh ngang Tôn Vũ! 

Lại cười cho mỗ:
Dốt không chịu dốt, bày trò thi phú búa xua,
Hèn chẳng chịu hèn, giao kết đệ huynh lố nhố.
Muốn trương buồm ngâm câu Thiên Địa, rượu rót tràn ly,
Thích tuốt kiếm ca khúc Lương Sơn, ngựa phi thẳng vó.
Chí tồi mà muốn vọt thấu mây,
Guơm sét lại đòi bung khỏi vỏ!
  
Chẳng nhớ câu:
Giao long lỡ vận nào khác tép tôm,
Mèo chó đắc thời xem tuồng báo hổ!
Mỉa mai thay câu "sinh chẳng gặp thời",
Chua xót thay lời "tài không thắng số"!

Thì thôi,
Thân đã ở nhà lá nhà tranh,
Miệng ráng ăn rau đay rau ngổ!
Đã cam tâm ngậm cục bồ hòn,
Thì mơ tưởng chi hơi cam lộ?
Thênh thang năm dài tháng rộng, tội mỗ đây lấy nhục làm vinh,
Chắt chiu bữa muối bữa dưa, xót mẹ đĩ chịu thương chịu khó!
Trong cơn dâu bể, hữu bằng đầy dẫy Lý Thông,
Sau trân phong ba, đồ đệ có bao Tử Lộ?
Thắp đuốc danh, lòi mặt kẻ hai lòng,
Khè lửa lợi, đổi màu vàng bốn số!
Chưa chứng Thiên Nhãn mà thấy tâm can kẻ đứng sau tường,
Chưa chứng Tha Tâm, mà biết thức thần người nằm dưới mộ!

Thương cho,
Vợ ăn cháo hoa lỉnh bỉnh, lại chịu ngày đói ngày no,
Con mặc áo khính thùng thình, còn vá miếng xanh miếng đỏ!
Vải dỏm loang màu, giặt một nước, lông lá bèo nhèo,
Chuối chát độn cơm, ăn một miếng, lưỡi môi ngờ ngợ! (cháo heo)
Dù lành dù rách, gìn nếp riêng, chẳng mở lời than,
Dù đói dù no, noi phép cũ, không châu miệng ngó!

Nay thì,
Vinh nhục như đã hết duyên,
Văn thơ xét ra vẫn nợ.
Năm xe kinh điển, quyển mất quyển còn,
Một lố bạn văn, đứa đi đứa ở.
Miệt mài trên báo, xem "thơ tự do" mà bụng dạ hãi hùng,
Lang thang trên mạng, coi "thơ Đường luật" làm mặt mày mắc cỡ!

Chỉ vì.
Thẹn cho tài, dẫu gọt hết trúc rừng làm bút, cũng chẳng thành danh,
Tủi cho phận, dù mài vơi nước sông làm mực, cũng chưa tiệm ngộ!
Luật niêm trớt lớt, nào dám xưng văn nọ văn kia,
Đối chác lem nhem, đâu dám vô hội nầy hội nọ!
Thơ viết người không muốn đọc, mà ca ù tai hơn tiếng ve kêu,
Sách in mối chẳng thèm ăn, lại bốc điếc ráy còn hơn bom nổ!
Mùi chưa dậy mà mắc buồn nôn,
Bụng không chửa lại lên cơn ói!

Làm thơ mà:
Cho không ai nhận, thì đem về nhóm lửa nấu cơm.
Đọc chẳng người nghe, cứ để dành gói xôi gói đỗ!
Những tưởng, tay nắm tay cùng dắt lên mây,
Dè đâu, mặt đưa mặt thay phiên trét lọ!

Ôi thôi!
Thà đành há miệng chờ sung,
Chẳng chịu trói voi bỏ rọ.
Kệ miệng người nói thẳng nói xiêng,
Mặc trôn đĩ đóng ngang, đóng dọ! (dọc/hi)


HOÀNG SA TIẾU NGẠO PHÚ


Tưởng rằng,
Tổ tiên có lắm bậc đại hiền,
Tử tôn ắt nhiều người cao đức.

Ngờ đâu,
Cây cha thẳng, mà tủa cành, nhánh cong queo,
Giống mẹ lành, lại trỗ trái, hoa đắng nghét!
Thương cho các ông thầy Lão Đam, Mặc Địch, Khổng Khâu,
Lại có mấy thằng trò Bàng Quyên, Hòa Thân, Hòa…Thiết (!)
Lời cũng như sách, đều dạy phong ngôn hòa ái, khiêm cung,
Mặt dẫu giống người, nhưng quen dã tính hung hăng, tàn ác.
Với kẻ thù, mi quen tuồng làm tớ làm tôi,
Với đồng bào, mi giở thói sát nhơn sát đức!

Đạo đức thì,
Làm thức ăn bằng giấy các-tông,
Chế thuốc uống bằng đồ bá nạp!
Xem con người như chó như heo,
Coi mạng sống như rơm như rác!

Chí khí thì,
Dân hàng trăm triệu (1), mà chịu bại dưới vó ngựa Mãn, Mông,
Quân mấy mươi muôn (1), mà đầu hàng trước gót giày Anh, Nhật!
Để chúng lấy Giang Bắc nhanh như trở mặt bàn tay,
Để chúng chiếm Giang Nam dễ như lấy đồ trong bọc!
Mất muôn dặm đất (1) mà  phải chịu hèn?
Đọa trăm triệu dân (1) lại chưa biết nhục?

Ôi !
Thẹn cho đất rộng nghìn vuông,
Tủi cho thân cao bảy thước!
Trên đầu lột mũ cánh chuồn, bỏ hết cổ trang,
Nửa sọ thắt tóc đuôi sam, tuân theo tân pháp!
Mỏi gối vì câu “vạn tuế” mà bỏ nước bỏ dân,
Trẹo lưng bởi kiếp “nô tài” nên quên vinh quên nhục!

Chẳng trách,
Tình đồng chí vừa mới quen tai,
Câu hảo bằng còn chưa ráo mực!
Cắt cáp tàu, không chừa thói cuồng ngông,
Cướp hải phận , lại ló mòi láo xấc!
Vạch đường Chữ U (2), đúng là lưỡi mối miệng lằn,
Nói câu hữu nghị, khác chi tâm xà khẩu Phật!

Nầy bọn mi !
Chớ huênh hoang mà lấy thịt đè người.
Đừng khờ dại mà lấy gươm chém sắt!
Hoàng Sa ta còn trăm triệu anh em, chỉ có mấy giờ bay,
Hoàng Sa ta còn hàng vạn kiều bào, cách nửa vòng trái đất.
Nếu mi liều lĩnh cho hỏa tiễn rời giàn,
Thì ta lập tức quay thần công nhả đạn!
Hàng vạn tấm lòng đang náo nức hồi hương,
Hàng trăm con tàu đang sẵn sàng rẽ nước!
Lãnh thổ, lãnh hải, xưa nay đâu phải một bận tranh cường,
Bọn ta, bọn mi, đến giờ cũng đã bao phen đọ sức?

Nhớ chăng?
Chèo Ngô Vương sụt sôi sóng nước, dìm xâm lăng dưới đáy Bạch Đằng,
Gươm Thường Kiệt sang sảng lời thơ, truyền tuyên ngôn bên bờ Như Nguyệt.
Đánh đường núi, thây chất kín đèo,
Đánh đường sông, dòng trôi nghẽn xác!
Tiếng quân hò rung chuyển Ải Nam Quan,
Khí thế dậy lung lay Thành Kinh Bắc.
Mới nghe tên, đã sợ mất thần hồn,
Nhác thấy bóng, vội chạy bung đầu tóc!


Vì thế,
Thấy cây nhọn, ngỡ cọc Bạch Đằng, rồi bịt mắt ôm tim,
Thấy sắc đỏ, tưởng nước Hồng Hà, vội lấy tay bưng mặt!
Thấy yếm đào, nhớ hồn ma Lục Dận chợt kiêng hùng khí Triệu Nương;
Vào hiểm địa, nhớ mồ tổ Liễu Thăng bỗng sợ thần oai Lê Sát!
Nếu ta lại đem Mã Yên ra dọa, ắt  mặt lắm kẻ xanh lè,
Nếu ta còn đem Tốt Động ra  đe, chắc môi bọn mi tím ngắt!

Mới đây thôi,
Ngụy Văn Thà theo tàu tuẩn tiết, chữ DŨNG còn ghi,(3)
Trần Đình Phương vì đảo hi sinh, chữ TRUNG mãi nhắc.(4)
Xem tử sinh là hạt bụi, sợi lông,
Đặt chí khí như tấm gang, lá thép!
Khè lửa mạnh mới biết vàng thau,
Đọ sóng dữ mới hay hào kiệt!

Xưa nay,
Kế hành binh ngoài chỗ dựa quân cơ,
Giành thắng lợi cốt nhằm vào nhân đức.

Huống chi ta,
Bên sau, lớp lớp nhân dân đang ngụt chí diệt thù;
Phía trước, hàng hàng chiến sĩ quyết đồng lòng giữ nước.
Gươm tôi đúng lửa, hào quang lòe ba cõi quỉ thần,
Binh dụng phải thời, hùng khí át hai vầng nhật nguyệt!

Còn mi,
Tay bốc tay hốt, sao không tu tánh sửa mình,
Trước bại sau thua, sao chẳng kiêng oai nễ mặt?
Nếu mi ngoan cố còn vẽ “lưỡi bò”,
Thì ta quyết tâm luôn tung kiếm thép!
Với chúng ta mà dám dựa pháo, cậy tàu,
Thì bọn mi ắt phải lấy phân bôi mặt!

Một mai,
Dù cho gió đổi màu mây,
Dù cho máu pha màu cát.
Hoàng Sa ta cũng không cho mi lượm viên sỏi của Duy Mộng, Quang Hòa,
Hoàng Sa ta cũng không cho mi lấy phân chim của Cam Tuyền, Vĩnh Lạc.

Đó là công lao cha mẹ ta, dựng nên một dải sơn hà,
Đó là xương máu anh em ta, giữ yên ba miền tổ quốc.
Ta giữ nước bằng mưu trí thần sầu,
Ta giữ nước bằng chiến công oanh liệt!
Ta giữ nước bằng một dân tộc anh hùng,
Ngươi “giữ nước” bằng dãy trường thành khiếp nhược!

Cảm khái câu:
“Thà làm quỷ nước Nam”;
Hơn làm vua đất Bắc”.

Hoàng Sa ta,
Thân dựa mũi gươm,
Ngựa treo đầu giặc.
Đem xương gởi  ở chiến trường.
Lấy máu giữ từng tấc đất. 
Hẹn với lòng một nhục một vinh,
Thề với giặc một còn một mất!

Nhớ cho biết,
Coi mặt mà bắt hình dong,
Hối hận bây giờ còn kịp!
Bút thép lời gang,
Hoàng Sa hạ bút!
KHA TỆM LY 
________


Chú thích:
(1)Những con số minh họa. Tượng trưng cho nhiều, lớn.
 (2) Đường Chữ U hay Đường Lưỡi Bò, là vùng biển mà Trung quốc tự khoanh vùng, rồi đòi làm hải phận cho mình
 (3) Sự kiện, năm 1974: Khi tàu HQ-10 bị địch bắn cháy, Hạm trưởng Ngụy Văn Thà  tuẩn tiết theo tàu.
 (4) Sự kiện năn 1988, Trung úy Trần Đình Phương trước lúc hi sinh, nói: “Thà hi sinh, chứ không để mất đảo!” 


ĐIỂM MẶT QUÂN THÙ PHÚ



Biển Đông cao sóng hờn căm,
Hải đảo cựa mình đau đáu.
Nhìn về Hoàng Sa, tan dạ nát gan,
Nghĩ tới Trường Sa, đứng tim sôi máu!

Hởi quân thù!
Chớ ỷ mạnh mà quen thói hung tàn,
Chớ cậy đông mà giở trò thô bạo!
Nói cho mi biết:
Đụng tới viên sỏi đảo ta, là đụng tới ngàn năm công đức tổ tiên,
Làm nhục một người dân ta, là làm nhục trăm triệu anh em máu thịt!
Hiếp biển nước ta, là bôi mặt nòi giống Tiên Rồng,
Cướp đất đảo ta, là sỉ nhục giang sơn Đại Việt!
Cha, chú ta, dân cày ruộng cũng là hảo hán anh hùng,
Mẹ, chị ta, người nấu bếp cũng là nữ lưu hào kiệt!
Trước họa nước, bao hiểm địa cũng thành Vạn kiếp, Chi Lăng,
Trước nạn dân, mọi trường giang đều hóa Bạch Đằng, Như Nguyệt!
Hồi trống trường, cũng thành trống trận thúc quân,
Bóng cờ lau, cũng thành bóng cờ quyết thắng!

Nói cho mi nhớ,
Triệu Nương, một dải yếm đào mà Lục Dận chẳng một tàn quân,
Trưng Vương, hai mảnh quần hồng mà Tô Định không còn manh giáp!
Sức mạnh ta là Hội Nghị Diên Hồng,
Khí thế ta là cánh tay sát thát!
Sao không lấy gương Liễu Thăng, Ô Mã mà soi?
Sao không lấy chuyện Thoát Hoan, Vương Thông mà xét?
Thấy Sầm Nghi Đống, treo cổ sao chẳng rớt tim?
Nghe Hứa Thế Hanh bỏ mạng mà chưa vỡ mật?
Thanh gươm Lê Lợi, trăm năm sau, mi vẫn còn phách mất hồn tan.
Vó ngựa Lý Thường, hai châu cũ (**), đất chẳng dám hoa khai cỏ mọc!

Với bọn mi,
Tổ tiên ta từng bẻ trúc rừng làm ngọn giáo dài,
Cha anh ta đã lấy lưỡi cày đúc thanh kiếm bạc.

Thế mà,
Đằng Giang mấy lần nhuộm máu, máu thù chẳng hết tanh hôi,
Đống Đa một trận phơi xương, xương giặc vẫn chưa rũ mục!
Chương Dương gươm khua chan chát, xác cản mũi tàu, xác nghẽn bước quân,
Khâm Châu sét nổ ầm ầm, máu ngập chân thành, máu dơ chân ngựa!

Huống chi nay,
Tiềm thủy đỉnh xuất quỷ nhập thần,
Chiến đấu hạm, đi giông về lốc.
Đầy căn cứ, muôn (*) dàn hỏa tiển đối không,
Nghẹt vùng trời, hàng đội phi cơ tiềm kích.
Cờ phất, đạn bay khiếp quỷ kinh thần,
Bấm nút, bom rơi long trời lở đất.
Tàu ta ầm ầm lướt biển, trèo lên sóng dữ gió to,
Quân ta ào ạt băng rừng, đạp nát cây gai lá sắc.
Gươm anh linh thép vẫn ánh ngời ngời,
Tim chính khí máu luôn sôi sùn sụt!
*
Dù vũ khí có chia rõ nhược, cường.
Nhưng ý chí mới định phân cao, thấp:
Quân mi mấy mươi vạn (*), mà Đằng Giang xác nổi như bèo?
Quân mi mấy mươi muôn, mà Hồng Hà thây trôi như rác?
Quân ta mấy vạn, mà xác bọn mi làm nghẽn đường chiến tượng Quang Trung?
Quân ta mấy muôn, mà máu lũ mi đã đẫm giáp chinh y Hưng Đạo?
Lớn miệng khoe đất rộng, mà chịu làm tôi tớ bởi bầy ngựa Nguyên Mông,
Cao giọng ỷ người đông, lại đành làm tai sai do mấy đoàn quân Nhật!

Chúng ta đây,
Hướng ra biển, triệu triệu anh em chung dạ sẵn sàng,
Muốn hồi hương, vạn vạn kiều bào một lòng háo hức.
Đem tim gan tôi đỏ chí quật cường,
Lấy đoàn kết, nấu sôi lòng son sắt!
Cờ tổ quốc đâu để nhạt màu,
Máu hùng anh không cho phai sắc!
Liệt sĩ Hoàng Sa luôn bám bước quân hành,
Liệt sĩ Gạc Ma vẫn theo người cứu quốc!
Từng đánh mi trăm trận, đã biết đâu đá đâu vàng,
Giờ thử lửa một phen, cho biết ai gang ai sắt?

Anh em ta,
Nam nhi hề, chí tại biển đông,
Chiến sĩ hề, thân treo đầu súng.
Cửu Long vẫn hiên ngang chín khúc hào hùng,
Hoàng Liên mãi sừng sững mấy tầng cao ngất.
Lúc gian nguy, ra trước ngõ lại thấy anh hùng
Buổi quốc nạn, xoay bai bên đụng người kiệt xuất!
Vì chung trăm trứng, nên đá nghìn non thương về hải đảo anh em,
Cũng bởi một nòi, mà nước muôn lạch tìm đến biển xanh cốt nhục.
Chung mẹ Âu Cơ, nên máu chảy ruột mềm,
Cùng cha Long Quân, mới lòng đau dạ thắt.
Trăm triệu đồng bào đều muốn vượt trùng khơi,
Mấy triệu anh em luôn hướng về cố quốc.
Bọn chúng bây, nào một lần cướp nước, hại dân,
Anh em ta, đã bao bận đuổi thù, giết giặc.
Thân vắt mạn tàu, bao anh hùng muôn thuở thơm danh,
Chết dưới ngọn cờ, máu liệt sĩ ngàn năm đỏ sắc!
Hét lên đi! Đại Việt hùng cường!
Vung tay lên! Việt Nam bất khuất!
Máu đọ máu thử coi ai đỏ ai đen?
Xương đọ xương thử xem ai vinh ai nhục?

Lời cuối cho mi:
Lịch sử Âu Lạc không thiếu đấng kiên trung,
Nhân dân Đại Cồ chẳng có người khiếp nhược!
Hải đảo ta một vùng khiêm tốn, vẫn đủ cho lũ giặc chôn thây,
Biển đông ta bốn hướng mênh mông, dư sức để muôn tàu dìm xác!
Ta nói có cội có nguồn,
Mi liệu tính sau tính trước!

KHA TIỆM LY
(Tên thật: Thái Quốc Tế
Địa chỉ: 99/5 Đinh Bộ Lĩnh, P2, TP Mỹ Tho)
Chú thích: (*) những con số trong bài nầy chỉ có giá trị minh họa.
(**) Khâm Châu, Liêm Châu

TRÁNG SĨ HÀNH
(Viết tặng Vĩnh Thuyên)
Kha Tiệm Ly

Tạm dừng vó ngựa ở nơi đây,
Quán cũ phong sương phủ lớp dày.
Còn ta, nửa kiếp phiêu linh đó,
Gom vào bầu chưa đủ cuộc say!

Hàng liễu vật mình theo gió chướng,
Chợt nhớ quê nhà tóc liễu bay.
Hoa đào trước quán bâng khuâng rụng,
Chẳng biết người xưa má vẫn đầy?
Môi xưa còn mọng màu mận chín,
Tóc xưa còn thoảng chất hương lài?
Bóng xưa mờ nhạt lung linh chén,
Lá xưa buồn thoảng gió heo may?

Tống Giang rượu uống đong nghìn chén,
Mà giận mình chưa đổi cuộc xoay.
Muốn tung cánh đại bàng muôn dặm,
Mà giận mình chưa đủ sức bay!
Sờ tóc bạc, thẹn cùng tuấn mã,
Vỗ gươm thiêng, thẹn với cỏ cây.
Vó ngựa kì hồ chưa mỏi bước,
Mà áo phong trần đã bạc vai!


Thẹn nỗi bình sanhchưa toại chí,
Gươm anh hùng đã vuột tầm tay,
Thẹn nghiên bút chợ đời rao bán,
Thẹn ơn cha, ơn mẹ, ơn thầy!
Lỡ hẹn cùng Lương Sơn hảo hán,
Lại thẹn cùng bóng nguyệt non tây.

Kinh Kha lấy mạng treo đầu kiếm,
Dịch Thủy dòng xưa nước thở dài.
Gươm múa bồi hồi theo tiếng trúc,
Tráng sĩ đi hề, sắc nhuộm màu mây!
Mang chủy thủ, lạnh lùng qua sông Dịch,
Xác gởi Hàm Dương, máu chảy nhầy!
Dũng sĩ hề, vì người tri kỉ,
Hàm Dương hề, mây trắng bay bay!
Có cái chết sáng ngời chữ NGHĨA,
Trượng phu hề, đá vỡ tro bay.
Đô Cương lệ ướt bâu tân khách,
Rượu Yên bang không đủ một Đan say!
Chợt ngưỡng mộ Hoàng Sào rạch đất,
Một thước gươm thiên hạ chia hai.
Rừng gươm giáo vào Quang Trung lãnh địa,
Mà ta còn ngơ ngác chốn thiên nhai!
Ai mài kiếm Lương Sơn mòn đá núi,
Thẹn đầu non chênh chếch bóng trăng lay!
Nghe gió lạnh, đồi cao ngựa hí,
Để trường giang thao thức canh dài!

Tầm Dương kĩ nữ ôm đàn hát,
Hơi rượu mơ hồ, thương nhớ phôi phai?
Nàng nức nở làm sầu tiếng nhạc,
Ta bâng khuâng dở chén Mao Đài.
Bóng người cũ tan dần trong men đắng,
Em và nàng, ai tri kỉ hơn ai?

Dũng sĩ ngày mai nào dám hẹn.
Nên nghìn đêm, còn lại đêm nay.
Nén u uất, rượu nồng luôn cạn chén,
Giấu đau thương, tóc liễu rũ che mày.
Nàng nửa kiếp đón đưa người mấy lượt,
Nên đắng lòng mà rượu ngọt thành cay?
Ta nửa kiếp giang hồ chân mỏi bước,
Gom vào bầu chưa đủ một cơn say! 
KHA TIỆM LY
TRƯỜNG SA TÂM  THƯ PHÚ


Trộm nghe:
Giặc ngoài dễ phòng,
Bệnh trong đáng sợ!


Hãy xem,
Hoàng Sa đã ngập trong chảo dầu sôi,
Biển Đông sắp chìm trong cơn bão tố.
Kẻ thất phu hừng hực thù căm,
Bậc trí giả  phừng phừng phẫn nộ.

Nhìn kẻ địch:

Bao phen cắt cáp hiếp tàu, diệu võ dương oai,
Mấy lượt tập trận dàn binh, khua môi múa mỏ.
Tàu cá khoang không tấc sắt, để nó bắn súng ngắn súng dài,
Ngư dân phơi tấm lưng trần, mặc chúng nện cây to cây nhỏ!
Làm con nhớ cha, cạn lệ lâm li,
Để vợ khóc chồng, tàn canh vò võ.
Hải đảo ta mà chúng đóng quân, xem giống của chùa,
Lãnh hải ta mà chúng thăm dò, làm như của chợ!


Chớ nên,

Thấy đồng bào mình nhục, mà đành ngoảnh mặt làm ngơ,
Nhìn tổ quốc mình đau, lại cứ khoanh tay đứng ngó!
Nghe qua  mấy câu chính khí, cầm bằng ăn ớt ăn tiêu,
Đạp vào mặt kẻ yêu dân, tưởng chừng đạp heo đạp chó!
Đi xe nệm dày một chống, bà ngồi êm đít sướng mông,
Nhà dựng lầu ngót mấy tầng, ông ngước ngoẹo đầu trẹo cổ!
Thênh thang Hoàng Sa trăm dặm, địch đã cướp rồi xương máu cha ông.
Leo heo Tiên Lãng mấy sào, ngươi lại chiếm cho anh em giòng họ!
Ba hoa miệng lưỡi thì biết đâu ai quỉ ai người,
Bề thế tiện nghi thế mới rõ ai thầy ai tớ!
Mãi tham ô nên đất nước mãi nghèo,
Còn lãng phí nên nhân dân còn khổ:
Bỏ một màn lãng phí, sẽ cứu bao nạn dịch  thiên tai,
Gom mấy trận tham ô, xem còn hơn mưa giông bão lũ!
Lạm công quĩ nên vật giá leo thang,
Rút công trình nên cầu đường thành hố!
Xoay qua, xoay lại, để cầu lộc hưởng bách niên,
Xét tới xét lui, rõ là tội lưu thiên cổ!


Có hết đâu!

Là cậu tú, mà viết chữ còn trật hỏi, ngã, tê, xê, trông giống cua bò,
Đậu ông nghè, mà hỏi sử còn ngọng ú, ớ, u, ơ, tưởng đâu lưỡi đớ!
Người mưu ích nước lợi dân, thì đong bằng vỏ hến vỏ sò,
Kẻ lo chạy chức mua quan, lại lường bằng cái thau cái rổ!
Khi tàu vũ trụ đã đến sao hỏa, sao kim,
Mà nền quốc học còn ở bờ đê, đầu lộ!
Khác nào bộ máy cà tàng,
Giống y con tàu cổ lỗ!
Kẻ vô sỉ thì đầy như lông chó lông mèo,
Quan thanh liêm lại hiếm như sừng heo sừng thỏ!
Lệ buồn lịch sử phải khóc sụt sùi,
Mồm thúi quân thù lại cười hô hố!


Tỉnh lại đi!
Hãy soi đạo đức Hồ Chủ tịch để tự răn mình,
Hãy lấy tài năng Ngô Bảo Châu mà  làm xấu hổ.
Một trăm năm thuộc Pháp, lấy đó mà lo,
Một ngàn năm thuộc Tàu cớ chi không nhớ?
Chẳng thấy cái nguy phải chịu làm lệ làm nô,
Thì ở trong mơ cũng chẳng thành rồng thành hổ!


Một mai,

Trường Sa bốn hướng sóng trào,
Tổ quốc ngập trời lửa đỏ.
Thì của tham ô có ngăn được hỏa tiễn địch rời giàn,
Thì tiền hối lộ có đánh tan chiến hạm thù đổ bộ?
Hơi rượu ngọt “hàng hiệu” không làm cho lũ giặc lui binh,
Móng tay nhọn “chân dài” đâu xé được quân thù đứt cổ!


Đã tự hào:
“Một dân tộc anh hùng”
“Bốn nghìn năm lịch sử”.

Thì chớ quên câu:

“Dân gần trăm triệu mà lại yếu xìu,
Nước bốn ngàn năm vẫn như trẻ nhỏ!” (1)
Chớ để quân thù coi cọc Bạch Đằng là… cọng lạt xỉa răng,
Đừng để kẻ địch xem gươm Lê Lợi là… cây kim may áo!


Mà cho chúng biết,

Gươm Lê Lợi chất thép vẫn ngời,
Sông Bạch Đằng máu xưa còn đỏ.(2)
Quân ta đi đường núi, ầm ầm mấy hướng núi mòn,
Tàu ta lướt biển đông, ào ạt bốn bên biển lở!
Đổ máu đào cho tổ quốc quyết sinh,
Khai hỏa lực cùng quân thù quyết tử!

Trường Sa ta,

Hiên ngang đi trên ngọn lửa hồng,
Dũng cảm đạp lên làn sóng dữ.
Mặt quân thù càng lạnh như băng,
Lòng chiến sĩ càng sôi như lửa.
Lấy ba miền tổ quốc làm nhà,
Lấy trăm đảo biển đông làm mộ.
So gươm cùng địch, để xem ai sắc ai cùn,
Đọ máu với thù, thử coi ai đen ai đỏ!

Nay,

Tim sắt lòng son,
Trường Sa  hạ bút./.


KHA TIỆM LY DD 0987 701 952

Chú thích:

(1) Nhại theo  thơ Tản Đà: “ Dân hai nhăm triệu ai người lớn/ Nước bốn ngàn năm vẫn trẻ con”
(2) Trộm nghĩa câu: “ Đằng Giang tự cổ huyết du hồng


LỜI CHÁNH KHÍ
Kha Tiệm Ly
Không cam lòng sống kiếp tôi đòi
Thà cổ bị lìa, hơn chết toi.
Bởi Đá Bạc bầm mình hứng lửa,
Nên Hoàng Sa Nộ Khí xung trời.
Một bào cha mẹ, chung hòn máu ,

Mười vạn anh em, rặt giống nòi
Muôn lạch đều xuôi về biển lớn,
Trăm non mãi mãi vẫn cao vời!

VĂN TẾ THAM QUAN
 
Hởi ôi!

Nước chảy lạnh lùng,
Mưa bay lất phất!
"Cây trong núi ngàn tuổi dễ tìm,
Người ở đời trăm năm khó gặp!”
Lúc sống, nhà còn ở mấy tầng,
Khi chết, thây cũng vùi ba tấc!

Nhớ linh xưa,

Quyền thế ngang trời,
Uy phong lệch đất!
Đi nửa bước, hộ vệ bám kè kè,
Ho một tiếng dân đen run lập cập!

Rõ là:

Trôn con trẻ trây cứt trây phân,
"Miệng nhà quan có gang có thép!”
Mánh mung rút bòn vật liệu, mà cầu, đường nhà nước xuống cấp ào ào,
Lập lờ cắt xén đất đai, nên nhà, xe quan ngài lên đời tới tấp!
Mặc người đi đường té xuống té lên,
Thây kẻ qua cầu rớt tim rớt mật!
Nói sao xuể, bao điều vô sỉ từ nhỏ đến to,
Ghi khôn cùng, đủ lối gian manh từ A tới Z!
Xem báo viết, thiếu điều nhức óc nhức xương,
Mở "web- sai”, càng thêm tối mày tối mặt!

Thế mà,

Vào công vào việc, lơ mơ tựa giống cù lần,
Thấy của thấy tiền, lít xích như con lật đật!
Thời làm lính, học lem nhem ba chữ i tờ,
Lúc lên quan, "đậu” lủ khủ một lô bằng cấp!
Ruộng tốt trăm vuông,
Vàng ròng thiên dật!
Cược ván cờ vài tỉ, việc tưởng như đùa,
Đặt canh bạc vạn "đô”, không dè chuyện thật!
Châu đầu châu mặt cố moi dự án trên trời,
Quơ tay quơ chân cứ nhét bạc vàng đầy túi.
Là trưởng giả ai lại xài thứ bèo Phú Lễ, Gò Đen.
Đã nhà quan thì phải chơi hàng hiệu Mạc-Ten, Cô-Nhắc!
Tiền "chùa” đem bỏ vào tráp vào rương,
Xe công mang đi sờ đùi sờ nách!
Của chùa của miễu, xài hoang vung thẳng hai tay;
Thằng cu thằng đen, chạy thuế lòi đom một khúc!
Bất lương đâu kém đám Tần Cối, Tần… Chày,
Vô sỉ chẳng thua lũ Hòa Thân,  Hòa… Thiết! (!)

Lạ chi,

Tai trâu mặt lợn, nào dè muôn tiếng thị phi,
Mồm thép miệng gang, chẳng tiếc trăm điều hống hách!.
Báo ngày tốn bao nhiêu mực, xem chừng đàn khảy tai trâu,
Báo mạng mất bấy nhiêu công, nào khác nước ngoi đầu vịt!

Chỉ vì,

Cái óc cái tim đen cỡ mực tàu ,
Cái mặt cái mày, dày như tấm thớt!

Để rồi hôm nay,

Khi thân tại chức, chẳng xì được tiếng thơm tho,
Lúc xác ém sâu, vẫn bốc ra mùi thúi hoắc!
Ngán uy sợ thế, bao người trước mặt cúi đầu,
Miệt đức khi tài, khối kẻ sau lưng đấm c…*
Con thơ nhóc nheo mấy hệ, mặc người xưng bố, xưng ba,
Vợ trẻ mơn mởn dăm bà, mạnh kẻ đổ lờ đổ lọp!
Tim gan dơ tợ máu cùi,
Tiếng tăm thúi hơn cóc chết!
Ngưu đầu mã diện đành cúi mặt chào thua,
Quỉ sứ ma vương cũng dập đầu bái phục!

Những tưởng,

Sống, tiếng nổi lẫy lừng,
Chết, người thăm chật ních!

Nào dè,

Từ lúc xuôi tay,
Tới khi liệm xác.
Ngoài vợ con thì khóc hu hu,
Còn ai nấy đều cười khặc khặc!

Hôm nay,

Rặn dăm câu dăm chữ, thảo điếu văn thống thiết một bài,
Quệt chút ớt chút tiêu, cho làng xóm xốn xang đôi mắt!
Đã không cửa đi đến Tây Thiên,
Thì chắc ăn tìm về Địạ Ngục!
Thành kính dâng ngài,
Nói nhiều không tốt!

Ô hô! Có linh xin hưởng!


Kha Tiệm Ly   
Chú Thích: * Thành ngữ:  "cúi đầu trước mặt, đấm c… sau lưng”.

 

111 
Đường luật xướng họa Kha Tiệm Ly & Tsaituvant.Vuhnid

Thơ Đường luật xướng họa của Kha Tiệm Ly & Tsaituvant.Vuhnid
Thơ Đường luật xướng họa của Kha Tiệm Ly & Tsaituvant.Vuhnid

Kha Tiệm Ly
Tên thật: Thái quốc Tế
Địa chỉ:  99/5 Đinh Bộ Lĩnh, P2, TP Mỹ Tho, Tiền Giang
ĐT: a/. 0987 701 952  -  b/.  01229 880 310
Email: khatiemly@gmail.com                       




Hồn trăng
(Tsaituvant.Vuhnid Mời họa)

Bao giờ trăng sẽ phải già nua?
Để má em tôi bớt thẹn thùa
Lúc gió xuân choàng thôi bẽn lẽn
Khi mưa hạ thấm chẳng se sua
Bao giờ trăng sẽ già đây nhỉ?
Muôn thuở em đang trẻ đấy ừa!
Già trẻ đâu còn ranh giới nữa
Khi tình tuôn chảy cả nay xưa.
                                                  Qui Nhơn, 10/7/2012
                                                  Tsaituvant.Vuhnid 

Aí tình
(Bài họa Tsaituvant.Vuhnid)

Em có già đâu sao phải nua?
Khung thêu đang sẵn đợi ai thùa
Bướm xuân muốn bẽn hoa đừng lẽn!
Mây hạ chờ se mưa có sua?
Hoa bướm bao giờ duyên hết nhỉ?
Mây mưa khoảnh khắc nợ xong ừa!
Ái tình ai bảo già nua hởi!
Cái thuở đầu đời chẳng dễ xưa.
                                                    Qui Nhơn, 10/7/2012
                                                    Tsaituvant.Vuhnid 


Hồn chữ 
(Bài họa2 Tsaituvant.Vuhnid)

Nhờ có "Hồn trăng" rọi nghĩa "nua”
Không gian huyền ảo vẽ, thêu thùa
Thêu tình lên mắt người thi sĩ
Vẽ tứ vào hồn chữ láy "sua”
Ray rức! đời thơ là thế đấy
Thản nhiên! bóng nguyệt cúi xin ừa
Nhìn bao hương sắc quàng đôi lứa,
Con chữ trở mình sáng nét xưa!
                                                         Qui Nhơn, 10/7/2012
                                                         Tsaituvant.Vuhnid 


GIÁC NGỘ
(Kha Tiệm Ly mời họa)

Thương ta thường lấy khổ làm vui,
Tham, dục, sân, si, hết nửa đời!
Manh áo cần lao cay đắng mắt,
Bát cơm vinh nhục xót xa người!
Vì danh có lúc khôn thành dại,
Hám lợi đôi khi khóc dỡ cười!
Ngã Phật từ bi luôn cứu độ,
Sen vàng muôn cánh sắc vàng tươi.
                                                           Kha Tiệm Ly

Ngộ 

 (Bài họa Tsaituvant.Vuhnid)

Nặng lòng chi lắm khổ và vui!
Nó ở trong ta bám lấy đời
Vui thú, hoa tàn ra trái khổ
Vui tâm, mầm bén kết tình người
Lợi danh- bến dục, neo khôn dại
Ái ố- thuyền si, chở khóc cười
Giác ngộ dìu ta xa cõi lụy
Nơi về ngan ngát đóa sen tươi!
                                                  Tsaituvant.Vuhnid


GIÁC NGỘ 2
(Kha Tiệm Ly mời họa)

Một quyển đèn mờ, một quyển kinh,
Thương ta từng lạc nẽo u minh.
Đã còn lẩn quẩn vòng sanh tử,
Mà lại mơ màng chuyện nhục vinh!
Tiếng kệ phá tan đường tam ác,
Hồi chuông đánh thức giấc quần sinh.
Thường tâm trì niệm Nam Mô Phật,
Đánh nát tâm mê, tiếng mõ kình.
                                                      Kha Tiệm Ly

Ngộ 2 (Bài họa Tsaituvant.Vuhnid)

Kho sách người xưa- vựa sử kinh
Từ hoàng hôn đến buổi bình minh
Loanh quanh vạn vật- sanh qua diệt
Lẩn quẩn bao điều- nhục tới vinh
Chữ nghĩa khuyên răn câu đạo nghĩa
Nhân sinh ý thức lẽ tồn sinh
Tĩnh tâm để ngộ đâu là bến
Dẫu bể trầm luân lắm cá kình.
                                                Tsaituvant.Vuhnid

THAN ÔI!
                (Kha Tiệm Ly mời họa)

Tình người ấm lạnh, nước đầy vơi,
Sống giữa quần sinh lại lạc loài!
Hương lửa dụi vào tro, lạnh ngắt,
Tào khang chà dưới háng, đen thùi!
Đã đem chữ TÍN lau trôn trẻ,
Còn giả cái NHÂN trét mặt người!
Nhìn trước, nhìn sau; nhìn phải, trái,
Khóc không ra khóc, chẳng ra cười!
                                                           Kha Tiệm Ly

Nét Trăng (Bài họa Tsaituvant.Vuhnid)

Trăng hởi đầy lên chớ có vơi!
Để đêm rạng mặt với muôn loài.
Kìa! bao cô gái bày phơi phới
Ấy! mấy chàng trai đứng thụt thùi
Có phải đang lo mùa nguyệt khuyết
Hay là chờ luận chuyện con người?
Cho dù dời đổi hay mờ tỏ,
Trăng của thiên thu rạng nét cười!
                                                       Tsaituvant.Vuhnid

THỨC TỈNH
                    (Kha Tiệm Ly mời họa)

Một kiếp nhân sinh, một kiếp sầu.
Vô thường có hẹn với ai đâu!
Đã chưa tát cạn sông phiền não,
Thì vẫn xoay vòng bể khổ đau!
Bởi chẳng nhân lành từ kiếp trước,
Nên không quả ngọt ở ngày sau.
Nhất tâm thường niệm Di Đà Phật,
Mới thấy vô biên lẽ nhiệm mầu!
                                                       Kha Tiệm Ly
 
HÁT TUỒNG
                     (Kha Tiệm Ly mời họa)

Mấy thằng mặt trắng, mấy thằng đen,
Đứa thấp đứa cao có mấy quèn.
Mão ốp tai, bỏ lời phải trái.
Râu ôm mồm, táp miếng chê khen.
Vợ lên vai mẹ, đâu còn lạ,
Con chửi thằng cha, riết cũng quen!
Xiêm áo mập mờ che bộ vó,
Phấn son sao gột lớp chân phèn!
                                                       Kha Tiệm Ly

Sầu (Bài họa Tsaituvant.Vuhnid)

Chưa thấy đông đâu đã thấy sầu!
Sầu đông đã mỏi sẽ sầu đâu?
Sầu rơi trên lá, vàng trơ trái
Sầu rụng xuống vườn, chín mọng đau
Sầu vướng bóng quyên bay ngõ trước
Sầu vương tiếng cuốc gọi bờ sau
Chiều đông cánh cánh sầu đâu hởi!
Chợt tím vườn xoan… lá rụng màu.
                                                         Tsaituvant.Vuhnid

Tuồng  



(Bài họa Tsaituvant.Vuhnid)

Tuồng tích phơi bày thói trắng đen
Của vua, quan, cướp tới dân quèn
Mặt đen vẽ kẻ ham mùi lợi
Thảm đỏ chờ người thích tiếng khen
Uốn éo, hét la- trò chẳng lạ
Lẳng lơ, luồn cúi- thói từng quen
Thế sao trong mắt người muôn thuở?
Cứ sáng long lanh giọt nước phèn!                               
                                                          Tsaituvant.Vuhnid

Xuân thán!
(Bài tự họa2 của Tsaituvant.Vuhnid)

Ai lấy hồn hoa ra khỏi xác
Để màu rũ rượi vàng câu hát
Đung đưa cành gió áo mùa thay
Run rẩy lá sương làn điệu nhạc
Lòng tôi sóng gợn nỗi ai hoài
Mắt em mây nhuốm màu rơi rắc
Cho ngày xuân úa tóc xuân phai
Cho bước chân đời đang xệch xạc
                                                         Qui Nhơn, 12/7/2012
                                                          Tsaituvant.Vuhnid
Sắc hạ
(Bài tự họa2kèm của Tsaituvant.Vuhnid)

Cái nắng ngày hè cứ xấm xác
Ve sầu ra rả thay nhau hát
Lao xao bụi sóng phả chân trời
Nhốn nháo đàn chim run nốt nhạc
Trắng rát đầu ta trắng rã rời
Khô rang lòng đất khô răng rắc
Sao mà rốc quá mùa hạ ơi?
Tàu gió chiều hanh khua xậm xạc!
                                                          Tsaituvant.Vuhnid

Ảo giác
(Bài tự họa1 của Tsaituvant.Vuhnid)

Áo em quá trắng nhòa trong muốt
Phơ phất lưng trời đang lướt thướt
Anh ngỡ mắt mình thấm khói sương
Lòng như tơ liễu hòa mây nước
Chìm say ảo giác làm sao buông
Thức tỉnh giấc mơ đành phải ngước
Biết tỏ cùng ai nỗi vấn vương
Ai đã cho ai niềm vui ngược.
                                                          Tsaituvant.Vuhnid
Tàng đông
(Bài tự họa1kèm của Tsaituvant.Vuhnid)

Cái lạnh làm da em tái muốt!
Còn đâu sớm tối tha và thướt
Heo may đã nhuốm xuống đêm ngày
Sấm chớp đang òa vào mây* nước
Chiếc áo u sầu ai đã may?
Tấm tranh rực rỡ màu không ngước
Thì ra mùa đông* đang dang tay
Lùa cả sắc màu vào lối ngược.
(*)phá luật
                                                 Tsaituvant.Vuhnid 

Thu ngân
(Bài xướng2 của Tsaituvant.Vuhnid)

Thu về rắc xuống màu xao xác
Thổn thức lòng ai bao tiếng hát
Thu chết thu vàng thu mắt nai
Lá rơi lá úa lá âm nhạc
Hòa tan trong gió giọng bi ai
Thấm đẫm vào hồn âm réo rắc
Như tiếng vĩ cầm nức nở dài
Làm nhòe tiếng rơi(*) đang xào xạc
(*)phá luật
                                                         Qui Nhơn, 11/7/2012
                                                          Tsaituvant.Vuhnid 

Gẫm
(Bài họa2 của Kha Tiệm Ly)

Chẳng phải chim muông, chẳng giáp xác,
Hay chi ngọng nghịu mà ca hát!
Trớ trêu lũ khỉ đòi đeo hoa,                     
Trấm trất tai trâu nghe khảy nhạc!
Cay xé nào do tại ớt dầm,
Xốn xang chẳng bởi vì tiêu rắc!
Cũng vì mình tự thấy đơn côi,
Hay gẫm thói người sao xịch xạc?
                                                       Kha Tiệm Ly

Nàng của tôi
(Bài xướng1 của Tsaituvant.Vuhnid)

Tôi có người em da trắng muốt
Tròn ba lăm tuổi dáng tha thướt
Ngực mông mướt rượt ngó tê người
Môi má hồng hào nhìn đổ nước
Khi đứng bên tôi thỉnh thoảng cười
Lúc ngồi với bạn thường hay ngước
Tôi yêu nàng nhất vì nàng tươi
Mặc cửa miệng đời hay nói ngược
                                                   Qui Nhơn, 11/7/2012
                                                          Tsaituvant.Vuhnid
TA VÀ NGƯỜI
(Bài họa1 của Kha Tiệm Ly)

Chẳng kể hồng hào hay tái muốt
Mặc người gầy béo hay tầm thước
Dịu hiền chẳng khác kho tàng vàng,
Kiều mị y như bong bóng nước!
Bốn đức ba tùng ta muốn tìm,
Năm thê bảy thiếp, người mong ngước.
Ai khinh ai trọng, mặc thây ai,
Sở thích của ta thường trái ngược!
                                                       Kha Tiệm Ly

ĐỐT ĐUỐC TÌM NGƯỜI
(Thơ mời họa)
Kha Tiệm Ly

Bắt chước người xưa đốt đuốc soi.
Rọi qua rọi lại kiếm… con người!
Rọi lên lúc nhúc bầy chồn cáo,
Rọi xuống lăng xăng lũ lọ nồi.
Rọi tới, ló đuôi thằng bất chánh,
Rọi lui, lòi mặt đứa tôi đòi.
Đuốc ta sáng tỏa ngoài muôn dặm,
Ấy thế còn đem thúng úp voi!
                                                 Kha Tiệm Ly

Soi
      (Bài họa của Tsaituvant.Vuhnid)

Tìm người há phải đuốc gì soi!
Soi rọi càng thêm rối chữ người
Soi mói lòi ra hai mắt cáo
Soi càn chạm phải đống xoon nồi
Soi tình lại sợ tay bà véo
Soi túi thêm lo chủ nợ đòi
Ấy thế tìm người, soi phí lắm
Khác nào … "thầy bói mù xem voi"!
                                                          Tsaituvant.Vuhnid

MỘT MẮT NHÌN ĐỜI
(Kỉ niệm ngày mổ mắt)
Kha Tiệm Ly

Buồn tình bịt một mắt xem chơi.
Nên thấy chuyện đời được nửa thôi:
Nửa mặt làm quan, nửa mặt cướp,
Nửa bên trét phấn, nửa bên vôi!
Nửa như hào kiệt, nửa vô lại,
Nửa giống đười ươi, nửa giống người!
Một mắt đã đành thấy một nửa,
Còn hơn hai mắt cũng như đui!
                                                    Kha Tiệm Ly
                                                    ĐT: 0987 701 952
Lơ mơ
            (Bài họa của Tsaituvant.Vuhnid)

Mắt nhắm mắt mở* vào cuộc chơi
Trẻ già, đẹp xấu cũng bằng thôi
Cướp to, quan lớn phường quan cướp
Vôi bạc, phấn hồng lớp phấn vôi
Hào kiệt, bất lương xem sắc áo
Tiểu nhân, quân tử ngắm phong người
Lơ mơ mở nhắm sao nhìn thấu
Thà nhắm cả mà sướng cái đui!
(*) phá luật
                          
                            Tsaituvant.Vuhnid

Kha Tiệm Ly
Email: khatiemly@gmail.com
© Tác giả giữ bản quyền.



                                            



*Thăm dàn tên lửa tối tân nhất thế giới tại VN.
Kỷ niệm 86 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam, hôm qua, Quân chủng Phòng không - không quân tổ chức cho đoàn cán bộ, phóng viên các cơ quan thông tấn, báo chí giao lưu và tham quan buổi luyện tập khí tài tổ hợp tên lửa S-300PMU1 của Đoàn tên lửa phòng không 64 - Sư đoàn phòng không 361. Đây là tên lửa tối tân nhất thế giới hiện nay, có thể bảo vệ vững chắc vùng trời Thủ đô và miền Bắc.
Trung tâm điều khiển hoạt động của tên lửa S-300. 
Trung tâm điều khiển hoạt động của tên …
Phải đội nắng đứng giữa thao trường để xem đơn vị luyện tập nhưng nắng chưa kịp đổ lửa lên đầu người thì buổi diễn tập đã xong vì quy trình khởi động và điều khiển tổ hợp tên lửa S-300 PMU1 hoạt động chỉ mất có mấy phút.


Khí tài tên lửa S-300PMU1 là hệ thống tên lửa đất đối không tầm xa do Liên bang Nga sản xuất, được đánh giá là tối tân nhất hiện nay. So sánh các tính năng với tên lửa Patriot của Mỹ thì tên lửa phòng không S-300 PMU1 đều vượt trội, như: cự ly tiêu diệt xa nhất, độ cao tiêu diệt cao nhất, vận tốc mục tiêu bị tiêu diệt lớn nhất; trọng lượng đầu đạn, diện tích che phủ bảo vệ của khí tài tên lửa phòng không S-300 PMU1 cũng lớn hơn.


Tổ hợp tên lửa này là hệ thống tên lửa phòng không cơ động, đa kênh dùng để tiêu diệt tất cả các phương tiện tập kích đường không hiện đại của đối phương trong hiện tại và tương lai, gồm các loại máy bay chiến lược và chiến thuật, các loại tên lửa đạn đạo chiến lược, chiến dịch-chiến thuật ở mọi giải độ cao, vận tốc, trong mọi điều kiện có nhiễu cường độ lớn và các thủ đoạn kỹ, chiến thuật khác.


Cự ly phát hiện là 300 km, diệt mục tiêu cự ly gần là 5 km, cự ly xa là 150 km, độ cao 27.000 m và thấp nhất là 10 m.




Tên lửa S-300.Tên lửa S-300.
Tổ hợp tên lửa lửa phòng không S-300 PMU1 có khả năng vượt địa hình phức tạp, đường xấu, lầy lội, vượt hào rãnh có độ rộng đến 2,5 km, độ chênh cao mặt đường đến 60 cm. Số lượng mục tiêu được bám sát và bắn cùng lúc là 6 mục tiêu. Số lượng tên lửa được điều khiển cùng lúc là 12 tên lửa. Thời gian chuyển từ hành quân sang chiến đấu và ngược lại dưới 5 phút; từ trạng thái trực ban sang chiến đấu 40 giây và nhiều tính năng hiện đại khác. Giá mỗi tổ hợp tên lửa phòng không S-300 PMU1 từ 120-150 triệu USD, giá một quả tên lửa là 1 triệu USD.


Thượng tá Lê Văn Thanh - Đoàn trưởng Đoàn tên lửa phòng không 64 - cho biết: Đơn vị đã tiếp nhận khí tài này được mấy năm. Trang bị tổ hợp phòng không là quyết tâm cao của Đảng, Nhà nước và nhân dân, được tiếp nhận và sử dụng khí tài hiện đại nhất là vinh dự và trách nhiệm của đơn vị.


Để làm chủ khí tài tối tân này, đơn vị ngoài cử cán bộ sang học tập ở nước bạn tiếp cận với khoa học công nghệ thế giới còn nâng cao trách nhiệm, học tập nghiên cứu, sáng tạo, ứng dụng khoa học, công nghệ, sẵn sàng chiến đấu, đối phó với các tình huống xảy ra trên không, bảo vệ bầu trời Thủ đô Hà Nội và miền Bắc.


Với khí tài này, lực lượng phòng không yên tâm bảo vệ vững chắc bầu trời Tổ quốc.


Theo Pháp luật VN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét