Thứ Sáu, 23 tháng 10, 2009

Thủ phủ các Chúa Nguyễn1558-1775...













Thủ phủ các chúa Nguyễn (1558-1775) và vai trò của chúng đối với sự phát triển của Đàng Trong

Thế kỷ XVI đến XVIII là một giai đoạn lịch sử rất đặc biệt của Việt Nam với những biến động to lớn trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Từ sự khủng hoảng và suy yếu của chế độ phong kiến tập quyền triều Lê đã dẫn đến những cuộc nội chiến khốc liệt giữa những thế lực khác nhau trong chính giai cấp thống trị, khiến cho đất nước bị chia cắt kéo dài. Bên cạnh đó, tác động mạnh mẽ của các trào lưu khu vực và của thế giới như di dân, trao đổi thương mại, truyền bá Ki-tô giáo... đã góp phần tạo nên những thay đổi lớn lao của Việt Nam hồi ấy, mà tiêu biểu là sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế hàng hóa, sự mở cửa của nền kinh tế từ Bắc chí Nam cùng sự ra đời của hàng loạt phố cảng men theo miền duyên hải đất nước. Và đi cùng những thay đổi về mặt kinh tế, trật tự xã hội truyền thống đã bị phá vỡ, tư tưởng-đạo đức Nho giáo vốn được xem là tư tưởng-đạo đức chính thống để cai trị thiên hạ cũng bị khủng hoảng và lung lay dữ dội...





1. Đặt vấn đề: Từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa đến các thế hệ con cháu của ông, do nhu cầu tồn tại đồng thời do bị thúc đẩy bởi các động cơ về chính trị và kinh tế, quá trình Nam tiến nhằm mở rộng lãnh thổ đất nước đã diễn ra mạnh mẽ gấp bội phần so với các thế kỷ trước. Hệ quả là chỉ 200 năm, nước ta đã có lãnh thổ hoàn chỉnh cơ bản như hiện nay.

Trên nền của bối cảnh lịch sử ấy, Đàng Trong đã hình thành và phát triển như một vương quốc độc lập, tạo nên hình ảnh một nước Việt Nam khác ở phía nam với những bản sắc văn hóa mới, phong phú và đa dạng. Chính sự đối đầu với Đàng Ngoài của vua Lê-chúa Trịnh đã làm Đàng Trong của chúa Nguyễn phát triển nhanh chóng, mà đầu não quyết định sự phát triển ấy là các thủ phủ.

Trong hơn 200 năm tồn tại (1558-1775), Thủ phủ của Đàng Trong đã trải qua 8 lần dời dựng thay đổi vị trí từ Ái Tử (1558-1572), Trà Bát (1572-1600), Dinh Cát (1600-1626) đến Phước Yên (1626-1636), Kim Long (1636-1687), Phú Xuân lần thứ nhất (1687-1712), Bác Vọng (1712-1738) và Phú Xuân lần thứ 2 (1738-1775). Trong tham luận dưới đây, cùng với việc giới thiệu về các thủ phủ chúa Nguyễn, chúng tôi sẽ phân tích vai trò ảnh hưởng của chúng đối với sự hình thành và phát triển của Đàng Trong.

2. Các thủ phủ chúa Nguyễn, từ Ái Tử đến Phú Xuân

 Tám lần dời dựng thay đổi vị trí của các thủ phủ có thể phân làm 2 thời kỳ lớn: Thời kỳ gắn liền với khu vực Ái Tử-Quảng Trị trước khi Đàng Trong ra đời (1558-1626) và thời kỳ gắn liền với hệ sông Hương-Thừa Thiên Huế khi Đàng Trong đã hình thành và phát triển như một vương quốc độc lập.

 2.1. Thời kỳ thủ phủ  gắn liền với khu vực Ái Tử-Quảng Trị

 Đây là thời kỳ tạo dựng cơ sở ban đầu ở vùng đất Thuận Hóa và Quảng nam của Nguyễn Hoàng (1558-1611) và Nguyễn Phúc Nguyên (1611-1635). Lúc này, họ Nguyễn chưa ra mặt công khai chống lại triều Lê-Trịnh. Trong 68 năm này, thủ phủ của chúa Nguyễn đã thay đổi vị trí 3 lần, từ Ái Tử (1558-1570) đến Trà Bát (1570-1600), rồi Dinh Cát (1600-1626), nhưng vẫn gắn liền với khu vực sông Ái Tử-Thạch Hãn.

 Khảo sát của chúng tôi cho thấy, Ái Tử, Trà Bát và Dinh Cát đều nằm trên một địa bàn khá hẹp thuộc xã Triệu Giang, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Toàn bộ vùng đất trên được giới hạn bởi ba dòng sông Thạch Hãn,  Ái Tử và sông Vĩnh Phước. Tổng hợp  từ các nguồn tư liệu lịch sử và kết quả khảo sát thực tế chúng tôi đã xác định vị trí, quy mô của 3 dinh trấn đầu tiên như sau:
-Dinh Ái Tử: Trung tâm của dinh đóng tại Cồn Cát, trên đó có Cồn Kho. Thủ phủ này hướng mặt về phía đông nhưng hơi chếch về đông-bắc, tức gần như thẳng góc với sông Thạch Hãn. Trước mặt dinh có Chợ Hôm Ái Tử, phía tây bắc có Mô Súng, Tàu Tượng. Xung quanh có vòng tường thành bao bọc đắp đơn sơ bằng đất, cát hoặc hàng rào bằng tre, gỗ. Vòng tường (hoặc hàng rào) này có giới hạn về phía tây-bắc ở vị trí Thành Ao, còn các phía khác có thể chỉ đến hết chân cồn cát này.

- Dinh Trà Bát: Trung tâm của thủ phủ thứ hai này nằm tại khu vực chùa Liễu Bông mà ở trên chúng tôi đã xác định vị trí. Vòng tường luỹ có lẽ sẽ men theo bờ sông Ái Tử chạy quanh co ở mặt nam và mặt tây. Ở phía tây bắc và phía bắc, vòng tường luỹ (hoặc hàng rào) của thủ phủ có lẽ chạy men theo chân đồi cát (tức Cồn Dinh), giáp với các đồng ruộng trồng lúa nước. Còn ở mặt đông, vòng tường luỹ (hoặc hàng rào) ấy cắt ngang khoảng 1/2 Cồn Dinh-đoạn cồn cát này bỗng nhiên thấp hẳn xuống mà hiện nay đã xuất hiện một dòng sông cạn, dấu vết của nước sông Ái Tử băng qua trong mùa lũ lụt. Hướng của thủ phủ là hướng chính nam hoặc đông nam, tức hướng về phía sông Ái Tử chứ không phải về phía sông Thạch Hãn. Bên trong vòng luỹ này có một số địa danh là Xưởng, nằm phía tây và tây bắc.

- Dinh Cát: Trung tâm của Dinh Cát nằm tại khu vực Phủ Thờ, ở phần phía đông của Cồn Dinh. Thủ phủ này hướng mặt về phía đông-nam, thẳng góc với dòng sông Thạch Hãn. Vòng tường luỹ bằng đất cát (hoặc hàng rào bằng tre, gỗ) của Dinh Cát chạy men theo bờ sông Thạch Hãn và sông Ái Tử ở phía đông và phía nam. Ở phía tây và phía bắc, nó cắt qua 1/2 Cồn Dinh (gần trùng với ranh giới tường luỹ phía đông của dinh Trà Bát) và chạy ra hết chân Cồn Dinh, giáp các ruộng lúa. Trước mặt Dinh Cát, tức khu vực Ghềnh Phủ Phước Châu, xưa kia là bến cảng và có thể có cả chợ.

 Nhìn chung, 3 thủ phủ đầu tiên của chúa Nguyễn trên đất Quảng Trị về danh nghĩa thì chỉ là những dinh trấn của một viên tướng trấn thủ nơi biên ải, nhưng thực chất chúng đã mang tính chất của một trung tâm chính trị mới ở vùng đất phía Nam. Cùng với việc thiết lập và xây dựng các trung tâm đầu não này, Nguyễn Hoàng, và sau đó là Nguyễn Phúc Nguyên đã ra sức phát triển vùng đất Thuận Quảng, chuẩn bị lực lượng để mưu đồ một cơ nghiệp riêng. Vì vậy Ái Tử, Trà Bát và đặc biệt là Dinh Cát đã là nơi hội tụ không chỉ sức mạnh về quân sự mà còn bao hàm cả sức mạnh tổng hợp về kinh tế, xã hội...của đất Thuận Quảng. Chính dựa trên thành quả đó chúa Nguyễn Phúc Nguyên mới đủ tự tin ra mặt chống lại triều đình Lê- Trịnh. Quá trình xây dựng 3 thủ phủ đầu tiên này cũng để lại nhiều kinh nghiệm quý cho việc xây dựng các thủ phủ ở giai đoạn sau.

 2.2. Thời kỳ thủ phủ gắn liền với hệ sông Hương

 Năm 1626, Nguyễn Phúc Nguyên cho dời thủ phủ vào làng Phước Yên bên dòng sông Bồ. Năm sau, 1627, đại chiến giữa họ Nguyễn và họ Trịnh bùng nổ, Đàng Trong chính thức ra đời. Trong gần 150 năm (1626-1775), thủ phủ của họ Nguyễn đã có thêm 5 lần thay đổi dời dựng nữa, nhưng chúng đu gắn liền với hệ sông Hương của đất Thừa Thiên Huế (bao gồm sông Bồ và sông Hương).

 2.2.1. Thủ phủ Phước Yên (1626 - 1636)

Thủ phủ Phước Yên được thành lập năm 1626, được xác định nằm gọn trên địa bàn làng Phước Yên, thuộc huyện Quảng Điền, cách thành phố Huế khoảng 12km về phía bắc, đông - bắc. Cả ba mặt: Đông, Tây và Nam của làng được bao bọc bởi một chi lưu lớn của sông Bồ. Đây là một vị trí quan trọng trên con đường Thiên Lý Bắc-Nam cũ.

Tuy thủ phủ của chúa Nguyễn chỉ từng đóng ở Phước Yên 10 năm  và đã gần 360 năm trôi qua nhưng các dấu tích của một thời thủ phủ vẫn còn rất đậm nét. Qua quá trình nghiên cứu khảo sát cùng các kết quả thám sát khảo cổ học, chúng tôi đã xác định được quy mô của thủ phủ Phước Yên và thể hiện bằng sơ đồ.

Kết quả nghiên cứu về thủ phủ này cho thấy, chúa Nguyễn đã thể hiện ý đồ xây dựng Phước Yên theo hướng một đô thị. Đây là một bước chuyển biến lớn lao trong quá trình phát triển của các thủ phủ, được bắt đầu tính từ Ái Tử... Như vậy, Phước Yên đã được chuẩn bị các tiền đề về phát triển đô thị cho thủ phủ Kim Long sau đó.

2.2.2 Thủ phủ Kim Long (1636-1687)

Thủ phủ này được thành lập đầu năm 1636 tại vùng đất làng Kim Long dưới chân chùa Thiên Mụ. Đây là vùng đất được bao quanh bởi ba dòng nước: sông Hương, sông Kim Long và sông Bạch Yến, được đánh giá là hoàn hảo về phong thủy, tiện lợi về giao thông và đặc biệt phù hợp để phát triển kinh tế.

Nghiên cứu các nguồn tài liệu và khảo sát thực tế kết hợp với kết quả thám sát khảo cổ học, chúng tôi đã xác định được các dấu tích liên quan đến thủ phủ Kim Long.

Các dấu tích này đều tập trung trên địa bàn Tiền thôn của làng Kim Long. Từ đó, chúng tôi đã xác định vị trí, quy mô của thủ phủ Kim Long bằng sơ đồ.

Qua sơ đồ này chúng ta có thể thấy, thời Kim Long là thủ phủ của Đàng Trong, mô hình đô thị cổ đã hoàn chỉnh với hai trung tâm lớn là Kim Long và Thanh Hà. Kim Long là thủ phủ của chúa Nguyễn, là đầu não về chính trị, quân sự và hành chính của Đàng Trong, được người nước ngoài gọi là “thành phố lớn”. Cảng thị Thanh Hà, được hình thành gần như đồng thời với phủ Kim Long, cách Kim Long 7 km về phía hạ lưu sông Hương, thì bấy giờ đóng vai trò là một trung tâm giao dịch thương mại có tầm cỡ quốc tế, nhằm đáp ứng các nhu cầu về ngoại giao, kinh tế cho phủ chúa cũng như trên toàn khu vực Huế.

2.2.3. Thủ phú Phú Xuân lần thứ nhất (1687-1712)

 Sau hơn 50 năm tồn tại ở Kim Long và dù nơi đây đã được kiến thiết thành một "đô thị lớn", thủ phủ các chúa Nguyễn lại tiếp tục quá trình di chuyển, dời dựng để mong tìm được một vị trí "đắc địa hơn". Thủ phủ mới đã được thành lập vào mùa thu năm 1687 tại làng Phú Xuân ở phía hạ lưu sông Hương. Đây là vùng đất có nhiều ưu thế hơn so với Kim Long.

Căn cứ vào các nguồn tư liệu, nhất là các bản đồ cổ cùng với việc khảo sát trên thực tế, chúng tôi đã xác định vị trí thủ phủ Phú Xuân lần thứ nhất tại góc đông nam của Kinh thành, tại vị trí mà Lê Quý Đôn từng ca ngợi là "chỗ nổi bật giữa đất bằng, ngồi vị càn trông hướng tốn, dựa ngang sống đất, trông xuống bến sông".

Từ những kết quả nghiên cứu, chúng tôi đã phác họa thủ phủ Phú Xuân thời kỳ 1687-1712 bằng sơ đồ. Căn cứ vào sơ đồ này có thể thấy, ngay trong thời kỳ mới được khai sinh, đô thị Phú Xuân-Huế đã có những bước phát triển rất cơ bản. Đó là sự mở rộng quy mô đô thị, là sự thắt chặt và phát triển yếu tố thị đi đôi với sự củng cố phần đô. Phú Xuân vẫn thể hiện sự kế thừa và phát triển của thời kỳ Kim Long để bảo đảm được vai trò là trung tâm hàng đầu về chính trị, quân sự, hành chính, kinh tế của Đàng Trong trong tình hình mới.

2.2.4. Thủ phủ Bác Vọng (1712-1738)

Thủ phủ Bác Vọng được thành lập đầu năm 1712 tại làng Bác Vọng, huyện Quảng Điền, cách cựu phủ Phước Yên không xa lắm về phía bắc.

Căn cứ vào các nguồn tư liệu, kết quả khảo sát thực tế và cả công tác thám sát khảo cổ học, chúng tôi đã xác định được vị trí, quy mô của thủ phủ này.

Kết quả khảo sát và nghiên cứu về thủ phủ Bác Vọng cho thấy đây chỉ đơn giản là một trung tâm đầu não về chính trị hành chính của Đàng Trong. Bác Vọng thuần tuý chỉ mang tính chất của một khu vực đô chứ không có phần thị. Quy mô và cách bố trí của thủ phủ chúa Nguyễn thời kỳ này gần tương tự như thời kỳ Phước Yên (1626-1636). Nó thiếu hẳn sự kết hợp với phần thị kiểu như thời kỳ phủ chúa đóng ở Kim Long, Phú Xuân. Trong thời gian tồn tại đây là nơi đóng phủ chính của chúa Nguyễn Phúc Chu và Nguyễn Phúc Chú. Chức năng chủ yếu của thủ phủ này là chức năng chính trị: nơi ở và làm việc chính của chúa cùng triều đình của ông. Bác Vọng hoàn toàn không phải là một đô thị và chúa Nguyễn cũng không hề có ý định xây dựng nơi đây trở thành một đô thị.

2.2.5. Thủ phú Phú Xuân lần 2 (1738-1775)

Thủ phủ Phú Xuân được tái lập vào năm 1738 trên đất Vương đảo, thuộc địa phận làng Phú Xuân. Đây là vùng đất được phát triển liên tục từ năm 1687, dù có một thời gian (1712-1738) không giữ vai trò thủ phủ của Đàng Trong. Năm 1744, chúa nguyễn đổi tên phủ thành Đô Thành và sau đó xây dựng nó trở thành một đô thị quy mô của Đàng Trong.

Từ những thông tin về tư liệu khá phong phú và kết quả khảo sát thực tế, chúng tôi đã xác định vị trí, quy mô của Đô Thành Phú Xuân.  Qui hoạch đô thị của Đô thành Phú Xuân đã khá hoàn chỉnh và về cơ bản, nó đã tương tự như qui hoạch kinh đô Huế đầu thế kỷ XIX. nhưng mức độ tập trung và qui mô đô thị còn nhỏ hơn.

 Đô thành Phú Xuân là giai đoạn sau cùng trong quá trình 8 lần dời dựng thay đổi thủ phủ của chúa Nguyễn. Những mô tả của các tư liệu lịch sử cũng như các dấu vết trên thực địa cho thấy, Đô thành không chỉ có quy mô lớn nhất mà còn là một đô thị hoàn bị nhất về mọi mặt so với các thủ phủ trước đó. Chính vì lí do này, các triều đại sau đó vẫn sử dụng Đô thành làm trung tâm của miền Trung (quân đội Lê Trịnh), hay làm kinh đô của cả nước (triều Tây Sơn).

Nhìn chung, sau khi rời bỏ lưu vực sông Ái Tử trên đất Quảng Trị với 3 dinh trấn đầu tiên (Ái Tử, Trà Bát và Dinh Cát), các chúa Nguyễn đã chuyển thủ phủ vào lưu vực sông Bồ, nhưng quá trình dịch chuyển các thủ phủ chưa kết thúc mà nó còn trải qua đến 5 lần thay đổi, dời dựng nữa, đó là các thủ phủ: Phước Yên, Kim Long, Phú Xuân lần 1, Bác Vọng và Phú Xuân lần 2. Dù trải qua đến 5 lần thay đổi, nhưng thực chất các thủ phủ của chúa Nguyễn đều gắn bó với hệ thống sông lớn nhất của vùng Thừa Thiên Huế là hệ sông Hương. Hình thức, qui mô của thủ phủ có sự thay đổi theo hướng phát triển, ngay cả tên gọi của chúng cũng có sự thay đổi: Sau thời kỳ Dinh trên đất Quảng Trị (Dinh Ái Tử, dinh Trà Bát, Dinh Cát), từ khi chuyển vào khu vực Thừa Thiên Huế, thủ phủ của chúa Nguyễn đã được nâng cấp lên thành Phủ (thời kỳ Phước Yên, Kim Long, Phú Xuân lần 1, Bác Vọng), rồi lên mức cao nhất là Đô Thành (thời kỳ Phú Xuân lần 2).

 Tính chất đô thị của các thủ phủ cũng có sự thay đổi theo hướng phát triển. Khi còn gắn liền với hệ thống sông Thạch Hãn- Ái Tử, các dinh Ái Tử, Trà Bát và Dinh Cát (từ năm 1558-1626), thủ phủ mới chỉ là những trấn dinh hoàn toàn mang tính chất quân sự. Yếu tố đô thị (thể hiện qua sự kết hợp giữa phần “Đô” và phần “Thị”) chỉ xuất hiện và phát triển bắt đầu từ thời kỳ Phủ Phước Yên (1626-1636) và càng về sau càng phát triển mạnh. Qua thời kỳ Đô thành Phú Xuân (1738-1775), thủ phủ của chúa Nguyễn đã là một đô thị tầm cỡ của Đàng Trong, được qui hoạch chu đáo với các ý đồ rất rõ ràng. Có thể nói, tư tưởng qui hoạch đô thị của thời kỳ Đô thành Phú Xuân đã có nhiều điểm tương đồng với thời kỳ sau nó - thời kỳ Huế trở thành Kinh đô của cả nước Việt Nam thống nhất, đầu thế kỷ XIX.

3. Vai trò của các thủ thủ đối với quá trình hình thành và phát triển của Đàng Trong

Nghiên cứu sự hình thành, phát triển của các thủ phủ, chúng tôi cũng đánh giá vai trò và ảnh hưởng của chúng đối với sự ra đời và phát triển của Đàng Trong trên hai khía cạnh chính:

- Tác động trực tiếp đối với quá trình đô thị hóa khu vực Thuận Hóa cùng sự ra đời của đô thị Huế;

- Tác động đối với sự ra đời, phát triển của Đàng Trong trên các lĩnh vực phát triển lãnh thổ, xây dựng phát triển nền kinh tế, phát triển văn hóa, xã hội.

3.1. Vai trò thủ phủ đối với quá trình đô thị hóa khu vực Thuận Hóa cùng sự ra đời của đô thị Huế

Trong thời kỳ đầu tiên, khi gắn liền với hệ thống sông Thạch Hãn, các thủ phủ Ái Tử, Ái Tử, Trà Bát rồi Dinh Cát vẫn mang đậm tính chất của những trung tâm quân sự, chính trị và chưa xuất hiện các yếu tố cơ bản của một đô thị. Chỉ từ khi thủ phủ của chúa Nguyễn được gắn liền với hệ sông Hương thì một mô hình đô thị gắn kết vai trò đầu não về chính trị, quân sự với vai trò một trung tâm kinh tế, văn hóa mới thực sự định hình.

 Thực ra, Nguyễn Hoàng với tầm nhìn chiến lược của mình đã phát hiện ra vai trò đặc biệt của vùng đất ở hạ lưu sông Hương. Năm 1601, ông cho dựng chùa Thiên Mụ để “bền long mạch, bồi tụ linh khí”. Năm 1602, ông lại cho trùng tu chùa Sùng Hóa ở phía hạ lưu. Những công việc này hoàn toàn không phải ngẫu nhiên mà thực chất là một sự chuẩn bị lâu dài cho cơ nghiệp của họ Nguyễn. Vùng đất từ chùa Thiên Mụ đến chùa Sùng Hóa (đối diện với Thanh Hà-Bao Vinh) chính là khoảng không gian mới dọc sông Hương mà Nguyễn Hoàng đã phát hiện và giới hạn cho đô thị Huế sau đó. Kế thừa ý nguyện của Nguyễn Hoàng, cháu nội ông là Nguyễn Phúc Lan đã chọn lựa và xây dựng thủ phủ ngay dưới chân chùa Thiên Mụ. Thủ phủ Kim Long (1636-1687) đã được quy hoạch và xây dựng khá chỉn chu, trở thành một “đô thị lớn” của Đàng Trong hồi bấy giờ. Thủ phủ Kim Long đã có sự kết hợp chặt chẽ giữa phần Đô (Kim Long) với phần Thị (cảng Thanh Hà), giữa trung tâm đầu não chính trị với trung tâm tín ngưỡng tôn giáo (chùa Thiên Mụ), giữa trung tâm đô thị với hệ thống làng nghề thủ công bao quanh... Chính vì điều này mà thời kỳ Kim Long đã được xem là thời kỳ đầu tiên của đô thị Huế, năm 1636 đã được xem là mốc thành lập của thành phố Huế.

  Đến thời kỳ thủ phủ Phú Xuân (1687-1712), mà đặc biệt là giai đoạn Đô thành Phú Xuân (1752-1775), thủ phủ của chúa Nguyễn mới thực sự được quy hoạch và xây dựng một cách bài bản với đầy đủ các yếu tố của một đô thị phương Đông điển hình. Đồng thời đây cũng là giai đoạn kiến tạo và định hình phong cách đô thị Huế với những đặc trưng nổi bật, như đô thị phong thủy, đô thị nhà vườn… mà sau này, khi xây dựng lại kinh thành Huế, triều Nguyễn đã kế thừa trọn vẹn.

 Trong việc xây dựng các thủ phủ gắn liền với sông Hương, việc kế thừa truyền thống và tạo lập bản sắc đô thị Huế được thể hiện rất nổi bật. Đây là công việc được nhiều đời chúa Nguyễn kế tục nhau thực hiện. Thành tựu của quá trình này được thể hiện trên nhiều phương diện mà chủ yếu là:

- Ứng dụng và phát triển cách qui hoạch “đô thị giữa hai dòng sông” và định hướng cho đô thị theo trục Tây bắc-Đông nam.

- Kết hợp mô hình đô + thị với sự phát triển của các hoạt động thương mại.

 - Sáng tạo và đặt cơ sở cho phong cách quy hoạch đô thị nhà vườn.

- Quy hoạch đô thị với các yếu tố phong thủy.

3.2. Vai trò thủ phủ đối với sự ra đời, phát triển của Đàng Trong trên các lĩnh vực phát triển lãnh thổ, xây dựng chính quyền, phát triển nền kinh tế, phát triển văn hóa, xã hội.

 3.2.1. Sự ra đời và phát triển của các thủ phủ gắn liền với quá trình Nam tiến và phát triển của Đàng Trong

 Công cuộc Nam tiến mở rộng lãnh thổ là một trong những đặc điểm nổi bật của lịch sử Việt Nam trong giai đoạn từ thế kỷ XVI đến XVIII mà kết quả của nó đã làm thay đổi cả diện mạo đất nước. Công cuộc Nam tiến đã gắn bó chặt chẽ với vị trí, vai trò của các thủ phủ ở Đàng Trong. Từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa (1558) cho đến khi chúa Nguyễn cuối cùng phải rời bỏ đất này để chạy vào Nam trước sự tấn công của quân đội Lê Trịnh (1775), họ Nguyễn đã luôn luôn lựa chọn Thuận Hóa làm nơi đóng đô. Sự thay đổi các vị trí đóng thủ phủ tuy xảy ra đến 8 lần nhưng đều gắn liền với 3 hệ thống sông lớn thuộc địa bàn 2 tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế, là hệ thống sông Thạch Hãn, hệ thống sông Bồ và hệ thống sông Hương, và đều nằm trong khu vực trung tâm của trấn Thuận Hóa hồi bấy giờ. Quá trình dịch chuyển vị trí của các thủ phủ luôn gắn liền với công cuộc Nam tiến của người Việt trong thời kỳ này và bản thân các vị trí đó tuy cũng có xu hướng dịch chuyển về phía Nam.

Nhưng khoảng cách của sự dịch chuyển ấy về cơ bản không phải là lớn, chỉ giới hạn trong khoảng cách chừng 60km (từ Ái Tử đến Phú Xuân). Như vậy, cùng với công cuộc Nam tiến để mở rộng lãnh thổ, đảm bảo cho sự tồn tại cùng tương lai của họ Nguyễn, sự Nam tiến “chút ít” của các thủ phủ chỉ là nhằm đảm bảo sự an toàn cho trung tâm chính trị của mình. Còn nhìn trên tổng thể, các thủ phủ của chúa Nguyễn chưa bao giờ rời bỏ đất Thuận Hóa.

 3.2.2.Thủ phủ với công cuộc phát triển kinh tế của Thuận Hóa và Đàng Trong

Như đã trình bày, quá trình xây dựng và phát triển của các thủ phủ đều gắn liền với quá trình xây dựng, phát triển của vùng đất Thuận Hóa và cùng với nó là quá trình hình thành, phát triển của cả Đàng Trong. Đây cũng là điều dễ hiểu, bởi trong mối quan hệ trên, nếu xem các thủ phủ là những hạt nhân, thì Thuận Hóa là cơ sở, là vỏ bọc trực tiếp của các hạt nhân ấy, còn Đàng Trong là môi trường tổng thể để nuôi dưỡng và phát triển các hạt nhân trên. Ngược lại, chính sự hình thành và phát triển của các thủ phủ với vai trò là trung tâm đầu não của cả xứ sở đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của Thuận Hóa và của cả Đàng Trong. Bởi vậy, ngay từ khi thủ phủ đang còn ở quy mô nhỏ, hoặc mang đậm tính chất quân sự thì chúng vẫn có tác động quyết định đến sự phát triển chung của Đàng Trong bằng những mệnh lệnh và chính sách cụ thể phát ra từ đây.

 Đối với nền kinh tế, trước hết, các chúa Nguyễn chú trọng phát triển nền nông nghiệp để ổn định đời sống nhân dân, đảm bảo đầy đủ binh lương để đối phó với các cuộc tấn công của thù trong giặc ngoài.

 Và cùng với việc phát triển nền nông nghiệp, các ngành thủ công nghiệp cũng được quan tâm chú ý phát triển để phục vụ cho các nhu cầu của phủ chúa, cho các yêu cầu chung của xã hội, đặc biệt là để đáp ứng cho việc phát triển thương nghiệp và phục vụ chiến tranh.

 Nhưng ngành kinh tế có vai trò quan trọng trong việc biến đổi toàn diện bộ mặt của Đàng Trong, khiến vùng đất mới này trở nên hùng mạnh và đứng vững trước những cuộc tấn công của quân đội Lê- Trịnh từ Đàng Ngoài lại là thương nghiệp.

 Như vậy, chính chủ trương xây dựng và phát triển kinh tế với vai trò chủ đạo của các thủ phủ đã tạo nên cơ sở sức mạnh vững chắc cho họ Nguyễn, khiến họ tạo lập được một vị thế chính trị hùng mạnh trong cuộc chiến tranh giành quyền lực diễn ra hàng thế kỷ.

 3.2.3. Các thủ phủ và việc xây dựng chính quyền chúa Nguyễn

 - Chính quyền trung ương tại thủ phủ

 Sự ra đời của Đàng Trong dĩ nhiên gắn liền với sự ra đời của chính quyền Đàng Trong và bộ máy chính quyền trung ương đều được thiết lập ngay tại các thủ phủ. Tuy nhiên, thời kỳ dinh chúa Nguyễn Hoàng đóng tại bờ sông Thạch Hãn (Ái Tử, Trà Bát, Dinh Cát), bộ máy trên vẫn mang tính chất một chính quyền địa phương của một viên tướng ngoài chốn biên viễn. Về cơ bản, nó vẫn được sắp đặt theo khuôn mẫu của triều Lê.

 Sau khi kế vị cha, ngay từ năm 1614, Nguyễn Phúc Nguyên đã quyết định cải cách bộ máy cai trị của vùng đất mới theo xu hướng một chính quyền riêng, độc lập với Đàng Ngoài. Chính quyền trung ương của họ Nguyễn từ thời Nguyễn Phúc Nguyên đến năm 1744-thời điểm Nguyễn Phúc Khoát xưng vương hiệu và cải cách lại hệ thống chính quyền-về cơ bản được thiết lập theo cơ cấu như sau: Chúa Nguyễn là người đứng đầu với chức danh “Tiết chế thủy bộ chư dinh kiêm Tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự”, nghĩa là nắm quyền tổng chỉ huy quân đội và quyền chỉ huy mọi công việc đối nội đối ngoại. Bên dưới có 4 vị “Tứ trụ đại thần” giúp chúa cai quản các phương diện công việc. Dưới nữa là Tam Ty với 3 cơ quan trực thuộc là ty Xá Sai, ty Tướng Thần Lại và ty Lệnh Sử (tại thủ phủ thì có thêm ty Nội Lệnh Sử và ty Lệnh Sử Đồ Gia) với chức quan đứng đầu là Đô tri, Ký lục, Cai bạ, Nha úy. Có thể nói, cơ cấu chính quyền trung ương của các chúa Nguyễn lúc đầu khá gọn nhẹ và thể hiện tính tập trung quyền lực rất cao. Tuy nhiên, mô hình chính quyền trung ương của các chúa Nguyễn trên thực tế đã được xây dựng và phát triển dần chứ không phải hoàn chỉnh ngay từ thời Nguyễn Phúc Nguyên. Năm 1744, Nguyễn Phúc Khoát xưng vương và tiến hành cải tổ, sắp xếp lại bộ máy chính quyền trung ương thành một vương triều thực sự. Cùng với triều đình chúa Nguyễn, tại thủ phủ luôn luôn tập trung một lực lượng lớn lực lượng quân đội và những người phục vụ, tạo nên vẻ đông đúc, đô hội của thủ phủ, nhất là từ thời Kim Long trở đi. Bộ máy này chính là đầu não của Đàng Trong, chỉ huy mọi hoạt động của vùng đất mới phía Nam, tách biệt hẳn với chính quyền Lê-Trịnh ở Đàng Ngoài.

 - Chính quyền cấp cơ sở

Cùng với quá trình nam tiến, các đơn vị hành chính mới liên tục được thiết lập. Đến năm 1744, Đàng Trong đã được tổ chức lại thành một vương quốc với 12 dinh và một trấn, kéo dài từ Quảng Bình đến Hà Tiên.

Bên dưới dinh, trấn (tương đương với cấp tỉnh) là các đơn vị phủ-huyện-tổng-xã (miền núi và ven biển thì có đơn vị thuộc) với hệ thống quan chức đặc thù.

3.3.4. Xây dựng các cơ sở để tạo lập bản sắc văn hóa vùng đất mới

Vai trò này thể hiện trên hai khía cạnh chủ yếu:

- Thủ phủ đóng vai trò là trung tâm trong việc kế thừa và phát huy các yếu tố văn hóa truyền thống của dân tộc.

Từ đầu thế kỷ XIV, sau cuộc hôn nhân chính trị Huyền Trân - Chế Mân cho mãi đến sau này, những lớp di dân Nam tiến người Việt, dù đi tới vùng đất nào vẫn mang theo tâm thức văn hóa truyền thống. Hướng về cội nguồn đất Bắc cũng đồng nghĩa với tình yêu đất nước và quê hương. Tâm thức văn hóa truyền thống Việt cũng chính là cơ sở về mặt tinh thần giúp họ trụ vững trên miền đất mới mà không bị đồng hóa ngược bởi nền văn hóa bản địa, như trường hợp dân tộc Mãn Thanh sau khi vào Trung Nguyên. Nhưng phải từ khi họ Nguyễn vào đất Thuận Hóa trở về sau, những truyền thống văn hóa tinh thần mới được xây dựng một cách có định hướng mạnh mẽ. Cùng với việc thờ cúng tổ tiên tục thờ Thành Hoàng được khuyến khích. Những ngôi đình làng được dựng nên khắp nơi để cố kết nối quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng. Các chúa Nguyễn còn hết sức xiển dương và tạo mọi điều kiện cho Phật giáo Đại Thừa, một tôn giáo quen thuộc của người Việt, gây dựng ảnh hưởng trong xứ sở của mình. Chúa Nguyễn “không xóa bỏ các truyền thống Việt Nam khác: đặc biệt họ sùng kính đạo Phật phái Đại thừa, coi đó là những nền tảng cho những nhu cầu về ý thức và tâm linh đối với dòng họ cầm quyền. Đạo Phật là chỗ dựa cho ý thức dân tộc Việt Nam và củng cố vị thế hợp pháp của họ Nguyễn” [7: 187].

Từ thời kỳ Phước Yên đóng vai trò là thủ phủ của Đàng Trong trở về sau, họ Nguyễn đã dần dần công khai ý đồ thành lập một vương quốc riêng, ly khai với Đàng Ngoài.

Các thủ phủ-kinh đô của “vương quốc” mới này đã được xây dựng với phong cách khá đặc trưng nhưng vẫn là một “đô thị giữa hai dòng sông” theo mô thức truyền thống của phần lớn đô thị Việt ở đồng bằng Bắc Bộ. Và mô hình này đã được nhân rộng và áp dụng cho hầu hết các đô thị của Đàng Trong. Thêm nữa, triều đình họ Nguyễn từ Kim Long đến Phú Xuân dù đã cố gắng xây dựng những nghi thức, nghi vệ, cho riêng mình nhưng thực chất vẫn là sự mô phỏng các kiểu thức của triều đình nhà Lê ở miền Bắc. Và bản thân chúa Nguyễn, cho đến năm 1744, khi Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, công khai lập một nước riêng, thì vẫn coi mình là thần dân nước Việt, sử dụng niên hiệu của vua Lê trong tất cả các văn bản, giấy tờ.

Ở một lĩnh vực khác là lễ nhạc cung đình, chúa Nguyễn cũng đều dựa trên truyền thống nghi lễ và âm nhạc dân tộc. Trong thời kỳ phủ chúa đóng ở Phước Yên, Nguyễn Phúc Nguyên đã gặp Đào Duy Từ, một nhân tài của đất Bắc nhưng không được họ Trịnh trọng dụng vì xuất thân từ gia đình ca kỹ. Đào Duy Từ đã giúp chúa Nguyễn không chỉ về binh bị mà còn về việc xây dựng lễ nhạc cung đình.

Như vậy, các thủ phủ vẫn đóng vai trò trung tâm trong sự kế thừa và phát huy các truyền thống của dân tộc trên vùng đất mới. Điều đáng nói là sự kế thừa ấy mang tính linh hoạt và có sự sáng tạo rất cao nên các truyền thống văn hóa Việt ngày càng có thêm sức mạnh và khả năng hòa nhập. Bởi vậy, nền văn hóa xứ Đàng Trong, dù đã được họ Nguyễn cố tình xây dựng theo một mô hình mới, thì vẫn là một nền văn hóa Việt với tâm thức luôn luôn gắn bó và hướng về cội nguồn. Bởi vậy, dù bị các tập đoàn phong kiến chia cắt đến 200 năm, nhưng ngay sau khi biên giới ngăn cách giữa hai miền Đàng Trong, Đàng Ngoài bị xóa bỏ, văn hóa hai miền Nam-Bắc đã nhanh chóng hòa hợp thống nhất.

- Tiếp quản và kế thừa các yếu tố văn hóa bản địa cùng các yếu tố văn hóa mới.

Một trong những đặc tính đã làm nên sức mạnh của văn hóa Việt là khả năng tiếp thu, chắt lọc những tinh hoa của nền văn hóa khác để biến thành cái của mình. Khi vào tiếp quản Thuận Hóa và dần dần chiếm lĩnh cả Đàng Trong, các chúa Nguyễn đã phải đương đầu với một bối cảnh xã hội hoàn toàn mới. Nền văn hóa bản địa vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn minh Ấn Độ của người Chăm, người Khmer và các dân tộc thiểu số có nhiều điểm khác xa với văn hóa Việt, vốn mang nặng ảnh hưởng của nền văn hóa Nho giáo. Tuy nhiên, các chúa Nguyễn đã khéo léo biết kế thừa, tiếp thu những điểm ưu việt hay có lợi trong nền văn hóa bản địa để phục vụ cho sự phát triển của mình.

Ngay từ khi mới vào trấn thủ xứ Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng đã rất  khôn ngoan tạo ra sự thừa nhận và ủng hộ của các vị thần bản địa đối với ông. Ở Ái Tử, ông được Thần sông báo mộng và bày cách để đánh bại Lập Bạo; đến Huế, ông lại tự coi mình là chân chúa theo lời truyền của bà tiên “quần xanh áo đỏ” hiện hình trên đồi Hà Khê, để từ đó mà khởi dựng chùa Thiên Mụ, củng cố vùng đất, chuẩn bị cho cơ nghiệp lâu dài cho dòng họ.

Điều đáng chú ý ở đây là Nguyễn Hoàng đã biết đồng hóa hình ảnh vị thần đất vĩ đại Po Nagar của người Chăm với hình ảnh một bà tiên của Đạo giáo (Thiên Mụ hay Thiên Mẫu) thân thuộc của người Việt cùng lời tuyên bố về vai trò đặc biệt của ông đối với tương lai vùng đất. Đây là một việc làm có ý nghĩa chính trị to lớn, một cách tuyệt vời để “bản địa hóa” và chính danh sự nghiệp của mình. Ngay sau khi được xây dựng, chùa Thiên Mụ đã trở thành biểu tượng của sự linh thiêng, biểu tượng của sự hòa hợp các loại hình tôn giáo tín ngưỡng tại địa phương, và cũng là biểu tượng cho sự ủng hộ của thần linh bản địa đối với họ Nguyễn.

Các thủ phủ chúa Nguyễn đều đặt trên những trung tâm cũ của người Chăm nhưng họ vẫn giữ lại những “Thành Lồi”, “Cồn Lồi”, “Miếu Giàng”… Qua một thời gian được Việt hóa, các vị thần linh được thờ ở đó đều trở thành những thần linh bản địa của người Việt, trở thành những thế lực phò giúp chúa Nguyễn về tâm linh. Chính sách khôn ngoan trên của chúa Nguyễn đã được ứng dụng từ các thủ phủ ra toàn bộ Đàng Trong và đã đạt được sự thành công tuyệt vời.

Như vậy, việc sử dụng Phật giáo Đại thừa với tư cách như một quốc giáo của chính quyền họ Nguyễn không chỉ nhằm làm chỗ dựa cho ý thức tư tưởng truyền thống Việt trên vùng đất mới mà còn là phương tiện để dung nạp các hệ tư tưởng và văn hóa mới, trong đó có việc kế thừa có chọn lọc các yếu tố văn hóa bản địa. Đối với công việc này, các thủ phủ thực sự đã nắm vai trò trung tâm trong việc hội tụ và tiếp biến các yếu tố văn hóa mới để hình thành nên sắc thái văn hóa đặc biệt của Đàng Trong.

Trong công trình nghiên cứu về lịch sử, kinh tế và xã hội của Đàng Trong, thế kỷ XVII-XVIII, Li Tana đã dành hẳn một chương để phân tích về nền văn hóa của xứ sở này và lấy tựa đề là: "Cuộc sống ở Đàng Trong: Hội nhập và sáng tạo". Bà cho rằng khi tiến xuống phía Nam, người Việt ở Đàng Trong đã tiếp xúc chặt chẽ với các dân tộc địa phương thuộc các nền văn hóa khác biệt. Đứng đầu trong số các dân tộc này là người Chăm. Các di dân người Việt đã tiếp nhận và thích nghi một cách thoải mái với nhiều yếu tố của nền văn hóa Chăm trong một quá trình dài vay mượn có chọn lọc cái mới và loại bỏ cái cũ không còn phù hợp nơi vùng đất mới. Tác động qua lại phong phú này cuối cùng đã cho ra đời một ý thức về bản sắc Việt Nam, cắm rễ sâu trong môi trường xã hội, văn hóa và tự nhiên của vùng đất mới ở phía Nam. [6: 193].

Cái mà Li Tana gọi là bản sắc văn hóa Việt Nam trên vùng đất mới chính là những sắc thái văn hóa đặc trưng mà những lớp di dân Việt đã tạo dựng được trên cơ sở các giá trị văn hóa truyền thống kết hợp với các giá trị văn hóa mới nhằm thích nghi với những điều kiện mới.

4. Thay lời kết

Với một quá trình lâu dài đóng vai trò trung tâm chính trị quân sự, văn hóa và cả kinh tế của Đàng Trong, các thủ phủ đã có vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của xứ sở này. Đây chính là đầu não của các cuộc chiến đấu và giành chiến thắng trong cuộc chiến với Đàng Ngoài, bảo vệ được cơ đồ của họ Nguyễn ở phương Nam.

Cũng từ đây, công cuộc Nam tiến diễn ra mạnh mẽ và hiệu quả, để lãnh thổ đất nước không ngừng được mở rộng. Đối với công cuộc đô thị hóa tại Thuận Hóa và Đàng Trong, từ các thủ phủ với chính sách ngoại thương rộng mở, với việc xây dựng một mô hình đô + thị tiêu biểu Kim Long - Thanh Hà - Hội An, hay Phú Xuân-Thanh Hà-Hội An... đã thực sự làm cho nền kinh tế hàng hóa trong toàn xứ có bước phát triển nhảy vọt, tạo cho Đàng Trong một diện mạo kinh tế thật phong phú và phồn thịnh. Các thủ phủ còn góp phần quan trọng trong việc kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, trên cơ sở đó lại có sự tiếp thu rộng rãi và linh hoạt các yếu tố văn hóa bản địa và yếu tố văn hóa ngoại lai để định hình nên những sắc thái văn hóa đặc biệt của Đàng Trong. Và như vậy, từ thế kỷ XVII trở đi, một trung tâm văn minh mới của người Việt đã ra đời ở phía Nam-trung tâm Phú Xuân Huế-như một sự đối sánh với trung tâm Thăng Long-Đông Đô trên đất Bắc. Còn vùng Thuận Quảng giàu có với thế mạnh đặc biệt về thương nghiệp đã trở thành một trung tâm kinh tế lớn, có thể so sánh với trung tâm kinh tế ở đồng bằng Bắc Bộ.

Riêng đối với Huế, các thủ phủ Kim Long-Phú Xuân cũng là những đô thị đầu tiên của người Việt gắn liền với dòng sông Hương. Với gần 140 năm tồn tại và phát triển (1636-1775), thời kỳ Kim Long-Phú Xuân đã đặt cơ sở và bước đầu định hình cho một phong cách Huế - không chỉ về đặc trưng đô thị mà còn bao hàm nhiều mặt của khái niệm văn hóa.

Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, sự phát triển của các thủ phủ không đảm bảo cho sự bền vững của chính quyền các chúa Nguyễn. Điều này không phải do các thủ phủ, mà do sự vận động chủ quan của tổ chức bộ máy vương quyền. Kể từ thế kỷ XVIII về sau, bộ máy tổ chức vương quyền họ Nguyễn đã bộc lộ nhiều yếu kém: cồng kềnh, bất hợp lý, tham nhũng, hủ bại... Sau cái chết của Nguyễn Phúc Khoát, các mâu thuẫn trong xã hội bị đẩy lên đến mức cao trào. Điều này đã khiến các chúa Nguyễn không đủ sức chỗng đỡ để tồn tại trước sự tấn công của họ Trịnh, của Tây Sơn, và cuối cùng bị diệt vong.

Vương quyền họ Nguyễn sụp đổ, nhưng thủ phủ-Đô thành Phú Xuân vẫn giữ vị trí trung tâm của vùng đất mới, và của cả nước dưới các triều đại kế tục: triều Tây Sơn, triều Nguyễn. Đặc biệt, từ năm 1802-1945, triều Nguyễn đã kế thừa và phát triển đô thị Phú Xuân-Huế lên một tầm cao mới, trở thành “một mẫu mực về kiến trúc đô thị” [2: 9] mà di sản của nó để lại đã được UNESCO vinh danh là Di sản Văn hóa Thế giới.

THƯ MỤC THAM KHẢO

1. A.D.Rhodes (1994), Hành trình và truyền giáo, bản dịch của Hồng Nhuệ, Tủ sách Đại Kết, Ủy ban Đoàn kết Công giáo Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Amadou Mahtar M’Bow (1999), “Vì công cuộc bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hóa của Thành phố Huế”, in trong sách Huế-Di sản Văn hóa thế giới, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế xuất bản, Huế.
3. Dương Văn An (1961), Ô châu cận lục, bản dịch của Bùi Lương, Văn Hóa Á Châu, Sài Gòn.
4. Christophoro Borri (1998), Xứ Đàng Trong năm 1621 (Cochinchina), bản dịch của Nguyễn Khắc Xuyên và Nguyễn Nghị, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Lê Quý Đôn (1977), Phủ biên tạp lục (Lê Quý Đôn toàn tập- tập I), Nxb KHXH, Hà Nội.
6. Li Tana (1999), Xứ Đàng Trong, lịch sử Kinh tế-Xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, Bản dịch của Nguyễn Nghị, Nxb Trẻ, TP HCM.
7. Li Tana (2001), “Xứ Đàng Trong thế kỷ XVII và XVIII -Một mô hình khác của Việt Nam”, In trong tập Những vấn đề lịch sử Việt Nam, Tạp chí Xưa & Nay - Nxb Trẻ, Hà Nội.
8. Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam Thực Lục, Tập I, Bản dịch Viện Sử học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
9. Thích Đại Sán (1963), Hải ngoại kỷ sự, Viện Đại học Huế- Ủy ban Phiên dịch sử liệu Việt Nam, Huế.

TS. Phan Thanh Hải (Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế).





* Nhắp đúp chuột vào các mục dưới sẽ đọc trực tiếp các mục của HSH .( Kiến thức Lịch sử) giúp ta hiểu rõ hơn....














Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét