Thứ Hai, 2 tháng 12, 2013

Tập thơ TÂM TÌNH HOA AN- Lê Hữu Khư



Blog Hương Thời gian kính giới thiệu tập thơ của Hoa An  là thân sinh của thầy Lê Hữu Thăng CGC trường Trung học Nguyễn Hoàng tại Quảng Trị gửi tặng 
Cố thi sĩ: HOA AN - LÊ HỮU KHƯ 
Sinh năm Nhâm Dần (1902), tại Giáp Đông- làng Bích La, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, đã tham gia xây dựng một số công trình thủy lợi - giao thông ở các tỉnh Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Trị, Quảng Bình. Mất ngày 22  tháng 6 năm Ất Sửu (08/8/1985). 
BÚT TÍCH CHỮ VIỆT và NÔM  CỦA  CỐ THI SĨ HOA AN
LỜI BẠT

Với ý nguyện tưởng nhớ công ơn sinh thành của Song Thân, chúng tôi sưu tập thơ “TÂM TÌNH HOA AN” mang nổi niềm hy vọng:

“ Thác là thể phách, còn là tinh anh”

Chút “ tinh anh” đó là lẽ sống, “Sống sao khỏi thẹn với thân này”. Cái thân suốt một đời tận tụy với nghề xây dựng giao thông- thủy lợi; lặn lội suốt sáu tỉnh miền Trung nước Việt; cho dù có lúc phải ngược lên nơi núi ngàn heo hút với ngựa thồ, người gánh vất vã trong hơn bốn mươi năm ròng rã với công việc.

Lương vốn ít, nhưng lương tâm nghề nghiệp lại nhiều, tính tình lại cương trực, không ham lợi, hết lòng với bà con, họ mạc; đùm bọc nhau tha hương kiếm sống. Một cuộc sống tuy đạm bạc, nhưng hạnh phúc vô cùng là đã góp phần làm nên nhiều công trình dân sinh. Qua thời gian   chiến tranh tàn phá với bao nổi phủ phàng đến vơi thân phận; cái còn, cái hỏng. Chút “ tinh anh” đó là tấm lòng tha thiết với quê hương, dòng họ. Dù ở đâu tâm hồn vẫn luôn hướng về nơi mảnh đất có “ Nương, vườn, miếu, mộ”. Đó là tình người mang hơi ấm nồng nàn đối với gia đình thân thuộc, tâm huyết với bạn bè, đậm đà cùng thi hữu.

Cuộc đời “ HOA AN” cũng đã gặp những hoàn cảnh éo le, cay đắng, đã ngậm ngùi câu “Sầu ngâm” buồn tủi; nấc lên lời “Tự trào” tê tái; viết nên “Bức tâm thư” ứa lệ… cũng đã trãi qua bao thăng trầm, mất mát trong cuộc sống. Nhưng vốn là người nhân hậu, biết đạo lý và thời cuộc, gia đình lại thuận hòa, nề nếp nên Hoa An đã có một tuổi già thanh thản để rồi nhẹ bước ra đi, lưu lại cho con cháu những nét đẹp của tâm hồn qua những dòng bút tích của mình.

Ước mong sao chút “tinh anh” đó của HOA AN sẽ được đâm chồi, nẩy lộc trong gia tộc như con suối nhỏ sẽ trở thành con sông lớn.

Và sẽ may mắn biết bao khi tập thơ và những bài thơ như trải hết tâm hồn của Người; xem đây là kỷ vật chan chứa tình thương để các lớp hậu duệ của các thi hữu đã nêu danh trong thi tập có dịp liên lạc được với nhau, nối tiếp mối nhân duyên một cách thân tình của thế hệ tiền bối đã gieo tạo.

Quảng Trị, ngày giỗ năm thứ 10 (1995) 
Các con của HOA AN - LÊ HỮU KHƯ


TỰ TRÀO



Mẹ già cũng bỏ, nước có loạn ngồi yên, mầy râu như thế !!!

Vợ không dễ mà xa, con không từ mà biệt, gan ruột nhường nào!!!

1947
SẦU NGÂM
…Lên vùng tạm chiếm núp nằm buồn quá, có mấy câu “sầu ngâm”

VỊ QUỐC VONG GIA
MẠC NẠI NHI SI TÙY ĐẠI NGHĨA

SỰ THÂN KHÓA TỬ
KHAM LÂN NỘI TƯỚNG ĐÃI NGÔ LAO
1947
Dịch:
Vì nước quên nhà
Vẫn biết nam nhi thì nghĩa vụ
Thờ trên dạy trẻ

Xót thương bồ liễu gánh giang sơn
 

72 TUỔI TỰ THỌ

Tinh thần minh mẫn sức còn dai
Ăn ngủ không hơn chẳng kém ai
Tuổi thọ trời cho, Ờ! Nhớ lại
Năm mươi năm trước mới hăm hai
                                       1974

73 TUỔI TỰ THỌ

Tính lại xuân thu đã bảy ba
Ăn ăn ngủ ngủ nói ba hoa
Giang hồ dong duổi chân còn cứng
Chỉ kém Trần Quân đại tiểu khoa*

Bảy chục xuân thu lại lẻ ba
Thi thơ ăn nói cũng văn hoa
Nếu sinh gặp lúc e không dám
Cùng với Trần quân thử một khoa
1975
* Chú thích: Đại đăng khoa: Thi đậu
- Tiểu đăng khoa : Cưới vợ, sinh con.
Ông Trần Tu 73 tuổi đậu Trạng nguyên vua gả công chúa cho
 
79  TUỔI TỰ THỌ

Sang năm Thượng thọ sướng hung hè!
Mắt rỏ răng nguyên chỉ kém nghe
Ăn uống ngon lành không chuộng vị
Đứng đi khỏe khoắn chẳng cần xe
Thi thơ ngâm vịnh vui ngày tháng
Trà rượu tiêu diêu với bạn bè
Thế sự thăng trầm không chút bợn
Nhàn lai vô sự khỏe khòe khoe
              Canh Thìn 1980

XUÂN TÂN DẬU 80 TUỔI

Thượng thọ người thường những ước mơ
Tớ nay tám chục chẳng ai ngờ
Mày râu lốm đốm dầu chưa bạc
Da thịt hồng hào dáng vẫn tơ
Nghe ngóng chuyện đời tai đã chán
Nhìn xem cuộc thế mắt không mờ
Hay hay dỡ dỡ chi chi mặc
Tết đến vui đề mấy vần thơ

Sống trên tám chục sướng trời ơi!
Nhất phẩm triều đình cũng thế thôi
Chúc thọ cháu con nhà chật ních
Niệm tình bạn hữu thiệp đưa rồi
Sẵn heo xách cổ  làm đôi chú
Lấy nếp đem hông đại ít nồi
Hương Lý tìm hoài không thấy bóng
Ai ăn mà hết thịt và xôi
* Bài này nói khoác loác chơi cho vui “ Tước xì ngang nhau” “ Triều đình mac trọng ư tước” “ Hương đăng  mạc trọng ư xì”

Sống trên tám chục sướng chi bằng
Danh vọng lâng lâng giữa xóm làng
Thường tình phải có chi ra mắt

Không lẽ làm thinh rứa mãi răng ?
Bò heo đắt đỏ không làm nổi
Gà vịt thô sơ đủ gọi rằng
Con cháu xa xôi về một số
Quây quần múa hát dưới đèn trăng

XUÂN QUÝ HỢI 82 TUỔI

Chúc thọ lắm người chúc đủ trăm
Mà mình chỉ mới tám hai năm
Đường còn xa lắc không lùi bước
Ta hãy làm ngơ giữ vững tâm
Ngủ ngủ ăn ăn thường tịnh dưỡng
Thi thi phú phú mãi nhàn ngâm
Ai mà thấy sổ Thiên Tào rứa
Vui vẻ cho mình thử hỏi thăm
                                           1983

XUÂN GIÁP TÝ 1984

Tiệc thọ chung vui để gọi là
Mừng tôi sống đến tám mươi ba
Tùy gia phong kiệm không bò lợn
Khỏi tiếng xa hoa chỉ vịt gà
Bàn cổ thô sơ tình mật thiết
Thơ văn chúc tụng nghĩa sâu xa
Dâu con cháu chắt dù chưa đủ
Hớn hở đua nhau nhộn hát ca

Trời cho tám chục lẻ thêm ba
Sức khỏe còn y lúc tuổi già
Tuổi thọ mừng vui nâng chén nhắp
Tình nồng man mác nhớ người xa
Tiếc không đây đó ngồi chung chiếu
Để thấy dâu con đứng chật nhà
Ông Cậu trông hoài không đến dự
Xe tàu gay cấn khó bề ra

Xuân này nữa mới tám mươi ba
Thanh vắng canh khuya ta với ta
Chăn gối lỡ làng dù phải vậy
Cháu con đông đúc đủ vui mà
Trong Nam ngoài Bắc đi thăm khắp
Xe điện tàu bay chẳng ngại xa
Hưởng phước an nhàn cho đến lúc
Cùng nhau thiên cổ hội chung  nhà

Tám mươi ba tuổi sống dài lâu
Tiệc thọ thô sơ thết một chầu
Nội ngoại hai bên mừng khánh hỷ
Con dâu phân nửa trể xe tàu
Bạn bè thứ lỗi không tin trước
Thơ rượu xin hầu sẽ gặp sau
Yến tiệc sao bằng tình hữu ái
Những câu vàng ngọc đậm đà sâu

XUÂN ẤT SỬU 1984
  
Xuân này tuổi tớ tám mươi tư
Rằng phải thêm hơn tớ cũng ừ
Chín chục mon men đang thấy thiếu
Mười mươi đầy đủ cũng không dư
Giàu sang đất nứt không hề thiết
Phúc thọ trời ban chẳng dám từ
Ai bảo sống dai ăn uổng gạo
Bắc thang mà hỏi thử “ Răng chừ”
 
Vào đời gió bụi tám tư xuân
Sướng cực buồn vui đã mấy lần tỏ mở tinh bốn mắt

Đường đời dư sức siu vững ba chân
Từng quen lao động
Đâu chịu an nhàn đợi bữa ăn
Rèn luyện đấu tranh gây phản xạ
Đẩy lùi lão hóa của thời gian
1985
                                         
XUÂN NHÂM TUẤT 1982

Tết đến đồi mai hớn hở cười
Nhí nha nhí nhảnh áo vàng tươi
Chúa xuân mơn trớn tô thêm nhụy
Trước gió đưa hương nhảy múa chơi

Đón xuân

Tuổi già cùng trẻ đón xuân sang
Vui nhộn đua nhau hát nhịp nhàng
Tóc bạc đầu xanh còn lắm lúc
Trái tim hòa hợp ấm tình thương

Mừng mến tặng
hai cháu gái nhỏ

Tết đến vui mừng được tiếng khen
Đứng đầu toàn diện phải đâu hèn
Tường-  Minh nay rỏ thông minh thật
Cố gắng trau dồi vững tiến lên
LẼ SỐNG

Cuộc sống riêng ai chẳng phải vay
Sống sao khỏi thẹn với thân này
Quần sờn díp lại sao cho sạch
Cơm thiếu thêm canh cũng thất đầy
Bửa củi xong rồi ra cuốc đất
Khêu đèn lật sách ngẫm thơ hay
Diêm vương nếu có lên nhà hỏi
Dạ bẩm: “Thưa ông có tớ đây!”.

TƯỢNG ÔNG PHỔNG ĐÁ

Cái anh phổng đá có ra chi
Tháng lụn ngày qua cứ đứng lì
Lắm kẻ đói nghèo đâu có biết
Mặc ai xua đuổi chẳng thèm đi
Tuy cao danh vọng mà ba láp
Nói đến tài năng có mốc xì
Hòn đất nắn nên rồi cũng đất
Tượng kia vẫn đá, chúng khinh khi.

CỦA TRỜI

Của trời đây đó chẳng riêng ai
Mặc sức cho ta cứ việc xài
Mát mẽ rừng thông nằm thẳng cẳng
Cợt đùa sóng biển ngập ngang vai
Ráng mây vọng cảnh thâu vào mắt
Kinh kệ huyển không rỏ tận tai
Sức khỏe đang còn, còn lắm lúc
Du sơn du thủy hưởng chung vui

QUÊ TÔI

Quê tôi Quảng Trị xác xơ nghèo
Sánh với Thừa Thiên đặng chút cheo
Triệu Hải đôi nơi hai vụ cấy
Gio Cam lắm trũng một mùa gieo
Ba lòng đất đỏ thừa ngô sắn
Hương Hóa rừng xanh lắm cọp beo
Vườn ruộng hoa màu dù kém cỏi
Nhân tài thì khỏi phải cheo leo
                                         1972

ĐỊNH CƯ

Định cư ta bảo chúng ta ơi
Oan ức kêu vang đến tận  trời
Là kẻ mất nhà lo chạy bữa
Dân phường xơi nước cứ ngồi chơi
Tham lam quen thói ăn phân bón
Liếm láp luôn người thiếu nón tơi
Chi phiếu lấy rồi ngâm lấy lợi
Chầu chục cả tháng mấy trăm người

CAO LƯƠNG CẢM TÁC

Cao lương tên đẹp biết bao người

Ăn lắm vào nghe ruột khó tiêu

Thiếu gạo đành cam đun ghế lộn

Lưng bầu khó chịu cứ xơi liều

Đêm nằm ậm ịch sôi trong bụng

Sáng dậy lon bon chạy xuống cầu

Khắc khổ đề ra tuân rắp rắp

Đâu đâu dân chúng vẫn kêu rêu
CẢM TÁC
KHI GẶP LẠI ÔNG BẠN THÂN NGƯỜI QUẢNG NGÃI
Nhân ông và chú em tôi, tôi và chú em ông mới là người chí thân, nên gặp nhau không sao quên được hai chú em ấy nay kẻ chết người đi xa.

Ba chục năm hơn lại gặp nhau

Dung nhan không khác, khác hàm râu

Trời cho mạnh khỏe âu là quý

Tiền đủ tiêu pha lọ phải giàu

Thi phú ngâm nga ngồi nảy gối

Ngựa xe lên xuống đứng khom đầu

Mừng mừng tủi tủi tôi cùng bác

Mấy chú em mình đâu… ở đâu?



Mấy chú em mình đâu… ở đâu?

Trách cho con tạo khéo cơ cầu

Non sông gấm vóc bơ phờ mặt





Cây cỏ xanh tươi ủ rủ mầu

Bạn hữu xưa nay lâu lại gặp

Anh em máu mủ cũng xa nhau

Sa trường dư hạ bao nhiêu nhỉ  
Cảnh ấy ai gây tội lút đầu.

 
 Ảnh chụpcủa Hoa An tại Nha Trang  tháng 6/1985

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét