Thứ Bảy, 14 tháng 12, 2013

Quang Tuyết và các bài viết ...

gồm các bài viết:
- Ngàn thu áo tím- Không chỉ riêng ai - Bảng màu cuộc sống 
 
NGÀN THU ÁO TÍM

 
Ngày xưa xa xôi em rất yêu màu tím
Ngày xưa vô tư em sống trong trìu mến
Chiều xuống áo tím thường thiết tha bước trên
đường gấm hoa, ngắm mây chiều thiết tha….

Mỗi lần nghe bài hát nầy, tôi lại liên tưởng đến một người con gái xứ Huế, rất đổi dịu dàng với mái tóc dài ngang lưng, yêu màu tím nhưng chẵng kém nghiêm trang khi đứng trên bục giảng, như đóa hoa sim rừng mộc mạc giữa vườn hoa thơm cỏ lạ rực rỡ sắc hương. Đó là cô: Võ thị Hồng, giáo sư phụ trách môn văn, cũng là giáo sư Cố Vấn lớp 10C của chúng tôi ngày xưa .
Cô ơi! từ hình ảnh đầy nữ tính dung dị ấy mà chúng em đã bí mật thành hình nhóm thơ áo Tím gồm Lê Khương, T.Vân (Mây xanh) M.Diệu và Quang Tuyết ( Tử Y Vân), tiếc là chỉ mới xây dựng trên danh nghĩa còn thơ thì vừa mới thẩn, chưa dám công khai một bài nào ngoài nhóm, chỉ có bốn tà áo dài sim chín điệu đàng tung bay trên phố mỗi chiều chủ nhật, hay những tấm thiệp mừng xuân vẽ và viết bằng bút lông màu trắng trên nền tím, em tự làm mỗi lần Tết đến tặng bạn bè thôi. Thời gian đầu năm lớp 10, em cực ghét môn Văn, vì thích và quen văn tả cảnh đầy màu sắc bay bổng tưởng tượng, giờ chuyễn sang văn nghị luận luân lý khô khan đầy thực tế… Nhưng rồi em dần bị chinh phục từ cách dạy cuốn hút cùng giọng giãng êm dịu của cô, nên lại yêu thích môn văn như trước. Thích nhất là giờ thuyết trình, lớp được chia thành từng nhóm theo sơ đồ chổ ngồi, làm những bài thuyết trình và luân phiên trở thành những thuyết trình viên, Công tố viên hay Luật sư bào chữa về những số phận nghiệt ngã trong tác phẫm văn học của nhóm Tự Lực Văn Đoàn: Đoạn Tuyệt, Nữa chừng Xuân, Gánh hàng hoa…. .Những lúc ấy không khí lớp thật sôi nổi, và ai cũng lâng lâng với cãm giác tự hào như vừa đấu tranh thành công cho người yếu thế, hàm oan, như vừa hoàn thành một nghĩa vụ rất cao cả: góp phần thay đổi những lề lối cổ hủ của xã hội. Thuở ấy em không dám gần gũi cô như một số bạn trong lớp, vì cứ mang cảm giác là cầu thân, là nịnh bợ, mãi sau nầy gặp lại, khi tóc cả cô lẫn trò đã phai màu, khi hàng rào Tôn Sư có lẽ nhẹ nhàng đi, tình cảm cô trò mới tự nhiên thân mật. Cô trong lòng em không còn là cô giáo nghiêm trang xa cách với những kiến thức sách vở, mà hiện thân một người mẹ, người chị cả bao dung, dịu dàng, luôn quan tâm hỏi han dù chúng em đã thành những ông, bà chủ gia đình. Căn nhà dể thương ở hẽm Huỳnh đình Hai cho chúng em có những giây phút ấm nồng vô cùng quý giá.Không vui sướng nào bằng khi thỉnh thoảng cô lại vào bếp thết đãi các cô cậu học trò cũ những món ăn Huế rất ngon, làm Bích Hường ở Đà Nẵng phải ấm ức ghê gớm dù bạn ấy đã không ít lần được cô “săn sóc” lúc gia đình cô chưa chuyễn vào Sài Gòn (các bạn thấy B.Hường ích kỷ ghê chưa? Muốn dành cô cho riêng mình thôi). Nhớ nhất là món muối sả ăn với cơm nóng, chao ôi là tuyệt vời, Trị có vẻ khoái khẩu nhất ăn liên tù tì, cô còn vui vẻ khuyến khích ghé nhà cô ngày một để ăn kia đấy. Còn tôi thì ra chợ mua về tự làm, mấy đứa con trong nhà tấm tắc khen nhưng không hiểu sao em ăn vẫn thấy không ngon bằng mùi vị muối sả do chính cô làm đó cô ơi! Sau nầy thấy cô không được khỏe nên cả nhóm bảo nhỏ nhau đừng” Mè nheo” cô nữa, để cô nghỉ ngơi và giữ sức khỏe thật tốt. Không phải đứng trên bục giảng mới là cô giáo. Cô vẫn đang tiếp tục dạy chúng em bài học đạo đức từ cách sống thường ngày một cách dung dị, tự nhiên đó thôi.
Đó là chữ Hiếu Đạo: cô chăm sóc hai người mẹ già rất chu đáo dù sức khỏe của mình đang có vấn đề, mà lúc nào em cũng thấy cô nhẹ nhàng, vui vẻ trước những khó khăn tâm lý của người già. Đến ngày mẹ ruột cô ra đi, em thấy cô buồn và xanh xao hẵn, lòng lo lắng sợ cô suy sụp, nhưng dường như chữ Hiếu cho cô thêm sức mạnh để tiếp tục hoàn thành trách nhiệm người dâu hiền: Bà Nội đang cần bàn tay chăm sóc của cô...
Đó là chữ Nghĩa tình: Thầy và cô cho em cãm nhận được ý nghĩa của hai từ Tri âm, Tri Kỹ . Một gia đình Hạnh Phúc chắc chắn phải có bàn tay vén khéo của một người vợ hiền lành đãm đang. Quà thầy cô tặng chúng em là những món quà vô cùng giá trị về tinh thần: bức Thư Pháp do chính thầy viết, cô dán lên khung. Mỗi câu, mỗi chữ nhắc nhở chúng em luôn sống bằng Tâm Thiện, đó là cách dạy gián tiếp của một người thầy tâm huyết ở mọi góc cạnh hoàn cảnh cuộc đời.
Thời gian có dài bao lâu, tuổi đời có già bao nhiêu em vẫn mong cô thật khỏe bên cạnh chúng em, những old Nguyễn Hoàng bây giờ mãi mãi là những cô cậu học sinh 10C của cô giáo Võ thị Hồng.Tiếng cười trong sáng khi quay quần bên cô, chúng em thấy cả một trời kỹ niệm về tuổi thơ đã qua đi và trong ký ức chúng em cô vẫn như xưa, dịu dàng trong tà áo tím đang say sưa giảng bài trên bục giảng. Cô ơi! Mãi mãi cô là đóa hoa sim dung dị trong lòng em.

Mai tím nào đây lầm cát bụi
Em lại đường xa trãi kiếp người
Tim tím mây chiều tim tím núi
Kìa sao nhiều tím thế anh ơi! 
Quang Tuyết 11C


KHÔNG CHỈ RIÊNG AI
Quang Tuyết 11C
Bạn nói với tôi:”Lật sách Nguyễn Hoàng toàn nghe tiếng ve, rồi màu hoa Phượng hay thời hoa mộng vv và vv. Một bạn nữa lên tiếng:” Học hành gì toàn Vất vở bụi tre, hay đến thăm thầy đau lại lén lấy trái cây nhà thầy, quậy phá tùm lum hèn gì lông bông cả lũ, không tiếng như Quỳnh, chẵng cao như Hường vv lại vv
Chao ơi! Biết sao được khi đời học sinh gắn liền tà áo trắng, tiếng ve và hoa phượng đỏ...Bây giờ ai cũng đầu hai thứ tóc chạnh lòng nhớ thời xưa, đó không là một thời hoa mộng là gì? Và biết làm sao khi nghiệp dĩ đã định” Nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò”, không hoang nghịch làm sao”được” mang tiếng đó? Quan trọng hơn nữa là ”Chuyện tốt dễ quên, điều sai nhớ mãi” nên xưa mới có câu“Ngàn năm Bia đá thì mòn, Ngàn năm Bia miệng vẫn còn trơ trơ đó sao”. Vì thế những mẫu chuyện cười ra nước mắt hay đau khổ một thời là học sinh không thể phai nhòa trong trí nhớ, là vô giá đấy bạn ơi! Hôm nay tôi tiếp tục kể một kỹ niệm khó quên của tôi với thầy cố vấn năm học 11C nữa đây. Các bạn có cười hay ý kiến gì gì đi nữa đó cũng là một ký ức rất đẹp của những năm tháng học trò.
Chúng tôi gọi lén thầy là Jormachel (?)mà thầy trông giống người ca sĩ nổi tiếng nầy thật đấy. Tôi lại cả gan thầm thì với lũ bạn:” Xe thồ kìa” mỗi lần thầy chạy xe ngang qua, vì sau pót ba ga bao giờ cũng quấn dây ruột xe( cao su). Thầy thường kể về quá khứ khổ nhọc đời mình rất tự hào: phải bán trứng lộn kiếm tiền đi học vì nhà nghèo… cốt yếu để động viên, để nhắc nhủ chúng tôi chăm chỉ học hành khi may mắn sinh trưởng trong hoàn cảnh no đủ. Xen lẫn vào bài học English for Today luôn luôn là những câu nói hay, những áng văn học nỗi tiếng nước ngoài có nội dung đấu tranh phãn đối phân biệt chũng tộc, đòi hỏi quyền bình đẵng con người hay nỗi trăn trở của thân phận nhược tiểu. Chẵng bao giờ thấy thầy cười có chăng chỉ là cái nhếch môi khinh bạc, nên học trò lại thầm thì: Thầy Đỏ. Chắc các bạn đã đoán thầy là ai rồi chứ gì? Đó chính là Thầy Trần Ngọc Cư.
Nếu luận bàn về phương pháp dạy ngoại ngữ, về tâm huyết của một người thầy thì chẵng có gì phải bàn, vì thầy vừa giỏi, uyên bác vừa tâm huyết trong trách nhiệm truyền bá kiến thức. Lớp tôi hồi đó Nữ nỗi trội hơn Nam về Anh Ngữ, đó là V.T.Quỳnh, Hà thị B.Hường, Thu Trang, Quang Trung vv. Còn tôi học lực chỉ nằm ở mức trung bình, ít năng nổ hoạt động trong lớp, lại mê Văn Nghệ, báo chí. Thầy thì cầu toàn trong môn học, luôn muốn học sinh tiếp thu trọn vẹn những gì mình dạy nên những giờ tôi và Thu vàng nhận giấy gọi tập Văn Nghệ, y như là nhận luôn ánh nhìn sắc lạnh thiếu thiện cảm của thầy. Để rồi một buổi sáng, sự nghiêm khắc ấy vô tình làm tổn thương lòng tự trọng của cô học trò thơ dại, suýt bỏ trường bỏ lớp về làm cô bán hàng Tạp Hóa ở xóm Ga
Chuyện xãy từ năm nào mà giờ tôi vẫn còn nhớ như in, buổi sáng ấy khi sắp đến giờ Anh Văn, lục tìm bài tập về nhà đâu chẵng thấy. Chiều hôm trước tôi đã chăm chú làm cho xong để kịp giờ xem Ti Vi phát vở kịch “ Dưới hai màu áo” của cô Kim Cương, xúc động trước tình tiết éo le bi đát tôi khóc và thao thức cả đêm nên sáng dậy lật đật thế nào bỏ quên vở ở nhà. Vội vàng tôi ra đón thầy trước cửa lớp xin phép về lấy, thầy nghe xong ôn tồn khoát tay bảo:” Được rồi em vào lớp đi”. Nhưng sự tình oái ăm thay, kiểm tra có vài ba bạn không làm bài, thầy giận quá đuổi tất cả ra khỏi lớp, không hề nhớ trường hợp cá biệt của tôi. Tức tưởi đứng trước hành lang, thầy Hồ Ngọc Thanh đi qua hỏi:”Sao Quang Tuyết đứng đây?” Ôi chao là xấu hỗ, tôi gầm mặt xuống chẵng biết trả lời sao, vừa quê, vừa giận. Lúc nghe tiếng Thầy nói rất to trong lớp:” Những HS không làm bài tập về nhà, các cậu thì Quân Trường đang rộng cửa, còn các cô thì Sở Mỹ đang chờ đón các cô…”
Tai tôi ù lên, không bình tỉnh được nữa, vội đến bên cửa ra dấu M.Diệu chuyền cặp sách ra bye bye các bạn bỏ về, bỏ luôn cả những giờ Anh Văn sau đó.Thầy xem sổ đầu bài thấy tên tôi chỉ vắng giờ thầy dạy nên nhắn nhủ:”Nói với trò Quang Tuyết không học giờ Anh Văn thì hãy nghỉ luôn đừng đến trường nữa” Thế là nổi tự ái vô cùng Tiểu Thư khiến tôi mất luôn phương hướng bỏ trường, xa lớp về khóc lóc mè nheo ba phải rút hồ sơ học bạ đi học trường khác. Đã lỡ học kỳ nên chẵng trường nào nhận, thôi thì nghỉ ở nhà nằm chèo queo, càng nhớ bạn bè, càng giận thầy. Suốt mấy tháng trời như thế, phụ bán hàng với mạ mà lòng thì cứ thẫn thờ. Một buổi trưa thầy Hoàng Thế Hiệp lên nhà gọi tôi ra phân tích và nhắn nhủ lại lời khuyên của thầy Cư rồi hỏi :” Em có muốn đi học trở lại không?( Sao lại không nhỉ?)Thầy Cư và thầy sẽ đứng ra trước Hội Đồng Giáo Sư xin bão lãnh cho em được vào học lạị…” Mọi việc sau đó đã được giải quyết tốt đẹp, tôi trở về với sách vở với một niềm hân hoan khó tả. Cũng từ đó thầy lưu tâm đến cô học trò ngang ngạnh hơn và cố giúp tôi theo kịp chương trình cùng các bạn, nhưng tiếc thay khi thầy trò cảm thông được nhau, khi tôi cố gắng đêm ngày ôn luyện để thể hiện quyết tâm mình thì chiến sự 1972 bùng nổ, Quảng Trị cùng ngôi trường xưa tan nát, tôi cùng GĐ vào Đà Nẵng, tâm trạng hụt hẫng nên bỏ bê sách vở sau kỳ thi Bán Phần. Thời gian trôi đi, nghe tin năm đó thầy qua Mỹ và định cư luôn. Cho đến một ngày quả đất xoay tròn sao thật hay, thầy trò hội ngộ ở quán Rất Huế của Nguyễn Đặng Mừng, Thầy vẫn trẻ, khỏe nhưng không còn nghiêm khắc như trước, nụ cười luôn tươi tắn cởi mỡ trên môi, còn đọc thơ cho chúng tôi nghe, cùng chúng tôi hát hò tâm sự rất gần gũi. Chuyện ngày ấy bây giờ nhắc lại là một kỹ niệm khó phai, thầy bảo đó là sự vấp ngã vì lòng hiếu thắng tuổi trẻ của cả thầy lẫn trò,, nhưng trong suy nghĩ riêng tư tôi biết mình nông nổi nên cạn nghĩ…
Thời gian qua đi, chưa kịp về thăm lại quê hương như lời hứa cùng học trò cũ thì thầy hở van tim phải vào Bịnh Viện, chúng tôi bên nầy lo lắng theo dõi tình trạng sức khỏe thầy qua email, cầu mong thầy qua khỏi và chóng bình phục. Trái tim mạnh mẽ ấy đã hồi sinh và đập những nhịp yêu đời hơn. Hình ảnh thầy đứng dưới hàng cây Phượng Tím xứ người, trông thật cô đơn nhưng vẫn toát lên vẽ cứng cõi lạ thường. Thi thoảng hộp thư mail của old NH lại có bài dịch những câu chuyện có tính chất Nhân Văn, hay những bài thơ ca nỗi tiếng như nhắn nhũ nỗi niềm người xa xứ. Qua email, chúng tôi biết trái tim ấy chưa hề khuất phục hoàn cảnh, chưa mõi mệt vì thời gian, trái tim ấy vẫn hoàn thành tốt nhiệm vụ đào tạo và chuyễn lưu những dòng máu đỏ cho sư tồn sinh, và luôn hướng về quê hương thân yêu. Chắc chắn rằng trong trái tim ấy có đóa hoa hồng ngày về, có lũ học trò ngu ngơ chúng tôi của một thời Nguyễn Hoàng Quãng Trị. Một khoãng ký ức không bao giờ quên… không chỉ riêng ai
  QT


BẢNG MÀU CUỘC SỐNG 
Quang Tuyết

Con đường như dài ra dưới cơn mưa xối xả không ngớt. Chiếc áo tiện lợi mua vội đọc đường chẳng che kín toàn thân nên đôi chân sũng ướt, nước len lỏi thấm từ tay, cổ và từ chiếc nón bảo hiểm vào tận bên trong cơ thể…hơi lạnh bất chợt làm Thi rùng mình, chao ôi! bỗng dưng nhớ quê da diết. Nhớ những ngày còn là nữ sinh Nguyễn Hoàng, ngôi trường Trung Học Công Lập duy nhất của tỉnh Quảng Trị. Những ngày mưa thế này, bao giờ cô cũng ủ trong vạt áo bao bắp rang còn nóng hổi, vừa đủ Thi và Hà nhâm nhi trong giờ chơi, âm thanh “rào rạo” nghe mới dòn tan làm sao. Bắp hồi ấy sao mà ngon lắm, đâu phải như bây giờ toàn giống lai tạo, tăng năng xuất mà kém chất lượng…  Mưa mịt mù đường về, giờ này dễ kẹt xe  muộn giờ đón cháu nội. Nhưng Thi không dám chạy nhanh vì đường trơn ướt, ai đang tham gia giao thông cũng tranh thủ mạnh tay ga, tai nạn bất kỳ xãy ra chỉ trong một giây phút sơ sẩy, thôi thì cứ từ từ để bảo đảm an toàn, có lẽ cô giáo cũng hiểu trời mưa lớn phụ huynh sẽ đến muộn nên giữ bé lại trong lớp. Một ngày của Thi trôi qua…trôi qua như thế.      

    Màn mưa trắng xóa, loang loáng những chiếc áo mưa đủ màu, đủ sắc, hai bên đường hàng cây vừa được tắm gội xanh ngắt sạch trơn…Trông như một bảng màu vừa sống động, vừa đa dạng đa sắc của cuộc sống,

Năm cô học Đệ Lục, Đệ Ngũ, thầy Liên dạy nhạc họa, Thi  luôn được điểm cao trong giờ vẽ. Bãng màu Newton được pha chuẩn mực: Đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm, tím trên tấm bìa hình tròn. Khi xoay bảng với tốc độ nhanh, chỉ còn đơn thuần màu trắng trong. Cuộc đời cũng thế, xanh hy vọng, đỏ nhiệt huyết, tím buồn bã… xoay quanh trục sống của tham, sân, si, ái, lạc, thú cuối cùng cũng chỉ là màu trắng của vô vi….của bình yên cuộc đời

Ôi bảng màu cuộc sống…Là những nốt thăng trầm phận người hay sắc đời chuyển biến…Có tiếng khóc giọng cười, có niềm vui nỗi buồn. Có cả hy vọng lẩn đắng cay. Thi bó gối miên man trong dòng thời gian, bỏ quên phận đời cánh mỏng theo những màu đời thường trong tư tưởng của mình.
    Có bao giờ anh chị và các bạn nghe nói đến từ: BOLERO chợ NỌ chưa? Có lần Thi thắc mắc hỏi thầy:
- “ Thưa thầy! Sao lại gọi là Bolero chợ Nọ?”
-Thầy nói: « Nọ là tên một cái chợ ở vùng quê xứ Huế, ở đó ngày xưa đoàn văn nghệ nào về diển dân làng cũng yêu cầu những bài hát có giai điệu Boléro, nên từ đó tên chợ Nọ được ghép vào như một tên riêng đặc thù của loại nhạc này. Vừa mộc mạc lại cũng lắm trữ tình, như ruộng lúa trỗ đòng mang hương ngọt dịu, như con thuyền nan xuôi theo dòng sông quê hương…như tiếng chày, giọng hò giã gạo của trai gái làng vào mùa…Dưới ánh trăng sáng xanh của mênh mông trời đêm.
Lần nào thầy vô Sài Gòn cũng gọi một số học trò cũ tụ lại một nơi nào đó chuyện trò, và cái điều yêu thích bao giờ cũng theo sau là không gian âm nhạc « Bolero chợ Nọ ». Thi là cô học trò trong số anh chị em  bị lôi cuốn theo nền nhạc dân dã thanh thanh, rộn rã ấy, nên hầu như bao giờ Thi cũng có mặt, dù công việc gắn dính cô với vai trò bà Nội. Chỉ vài ly bia cho tâm hồn bay bổng, trò ôm Guitar, trò tay đũa, tay muỗng gõ nhịp…Thầy hát. Thế thôi mà say sưa hát, hết bài này qua bài khác, “dàn nhạc” thì tung hứng loạn xạ theo cảm hứng…Có khi lời không nhớ kịp, lẫn lộn đuôi đầu, có khi “nhạc công quá lành nghề” nên lạc điệu lạc “ton”… Nhưng chẳng hề gì, Thi thả lỏng tâm hồn về với ngày xưa, nhìn sang thấy thầy nhắm kín mắt, tay và cả vai nhịp theo tiếng hát, toát ra sự đam mê vô bờ bến, tất cả mọi người cũng thế như cuốn theo dòng mộc mạc của Bolero “Chợ Nọ”. Một nguồn âm nhạc trào dâng…
   Niềm đam mê âm nhạc của thầy thật lạ, thỉnh thoảng một mình cùng chiếc Honda từ Huế ra Quảng Trị gặp gỡ nhóm học trò cũ. Ở lại vài hôm đàn hát vui vẻ rồi quay xe vào lại Huế. Ở Huế thì có nhóm đồng nghiệp, chiều chiều gọi nhau đến quán vắng ven bờ sông Hương chén thù chén tạc. Không lợi chẳng màng danh, chỉ tiếng guitar bập bùng và dòng nhạc muôn thuở “Bolero”… Những lúc này thắm tươi một màu xanh, niềm hạnh phúc giản dị của cuộc sống tràn lan lên ánh mắt tiếng cười, trong tâm hồn đồng điệu…Hình ảnh chân thực của thầy Lý Văn Nghiên đậm một màu xanh tươi của tình thương yêu cuộc đời. Nơi nào có thầy thì nơi đó nỗi buồn phiền hóa thành khói bay cao rồi tan biến.
   Đó là các anh, chị với nhiệt tình cháy cả tay, đỏ cả mắt, Đó là bàn tay thân quen đồng môn đồng khóa, đồng khói  đồng hương như anh chị Lê Đình Ân, Anh chị Hòa An, anh chị Hà, Hoa, chị Bích Oanh… Hay bàn tay nào đó chưa hề quen biết, xa lạ từ giọng nói đến nét mặt đã không chần chừ dang rộng chở che, chia sẻ từng hoàn cảnh, mọi nỗi đau  như biết nhau từ muôn kiếp trước. Ở đâu có những mảnh đời nghiệt ngã, ở đó có bàn tay rất dịu dàng, tấm lòng mềm mại ghé qua, thắp lên ánh sáng xanh tình người giữa cuộc đời nhiễu nhương cay đắng
 Ấy là màu của sức sống, của nhiệt tình như dòng máu chuyển lưu trong mạch đời, Thi nắn nót bằng dòng tư tưởng tô đậm tên thầy Lê Hữu Thăng với màu đỏ thắm. Một người đa đoan từ trẻ đến khi tóc trắng màu mây, vẫn  trở trăn theo từng cơn sóng cuộc đời. Thi và một số anh chị em đã viết, đã kể nhiều lần vẫn không hết điều thầy đã nghĩ, đã làm và đã cho… Người nghiêm trang nhưng hiền lành, càng về già tính tình càng đơn giản, thoãi mái. Chỉ thích khởi động phong trào, hết chuyện này đến chuyện khác. Có lẽ đó chính là mạch sống, là tiềm năng đặc biệt không phải ai cũng có. Thầy kể cho tôi nhiều câu chuyện thật ngắn mà ngẩm nghĩ lại có chiều sâu nhân bản. Thời gian ấy, vừa đi “cải tạo” về, người quen hầu như ngại ngần lánh mặt vì thầy chưa được “trả  quyền công dân”, vậy mà có một câu chuyện luôn ray rức trong lòng thầy bao năm qua. Ngày ấy, lúc đang cắm cúi “lao động” trên đồng ruộng, bất chợt một người Phụ Nữ đang oằn nặng trên vai gánh lúa trĩu vàng kẽo kẹt ngang qua, nhận ra thầy vội đặt gánh lúa xuống vệ đường chạy đến ôm chầm lấy thầy, Cô ấy tuôn trào nước mắt tức tửi, vừa rối rít hỏi han rồi tự giới thiệu mình là chs Nguyễn Hoàng, là học trò cũ của thầy . Dù cố lục tìm trong bộ nhớ thầy vẫn không thể nào tìm ra được cô ấy tên gì, học lớp nào…Chưa kịp hỏi tên thì người phụ nữ lạ lùng nọ vội vã quãy gánh lúa lên vai chạy về hợp tác xã cho kịp giờ, không biết có bị trừ điểm không vì thực hành sai quy cách ? (Gánh lúa phải đi một mạch từ ruộng đến điểm cuối không được nghỉ chân). Rồi con sóng hoàn cảnh đưa đẩy cuốn thầy từ trung vào nam, từ đồng bằng lên núi đồi nương rẫy. Đến bây giờ vẫn canh cánh bên lòng:” Cô ấy tên gì, bây giờ ra sao, ở đâu?”.  Bài học làm người không phải chỉ giáo điều từ bục giảng mà từ nhân cách sống, từ tâm tư cùng đạo đức giản đơn không màu, chẳng sắc. Thế nhưng vẫn đậm đà màu đỏ con tim chân thiện, là màu đỏ của máu nhiệt tình gởi gắm đến tha nhân.
Màu tím tượng trưng tình yêu, thương cùng nét thủy chung: Thi đã từng yêu người biết bao, yêu chân tình và không suy tính. Nhưng không biết do số phận đẩy đưa mà lòng anh ấy thay đổi: “từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ”. Nhưng buồn rồi cũng có lúc vui, thượng đế đã bù trừ cho Thi cơ hội gặp gỡ, quen biết rồi kết nghĩa thành ba chị em họ nhà Ngò. Dây mơ rễ má từ hai chữ Nguyễn Hoàng, từ những chuyến đi chơi xa của tập thể, cả ba tình cờ thích chuyện trò rồi thân lúc nào chẳng biết. Ngò Rí đặt tên theo cảm nhận, và ai cũng vui vẻ nhận thêm tên mới chọn. Càng ngày sợi dây vô hình nào đó càng cột chặt ba chị em lại với nhau, qua dần những ngày giữ kẻ vì e ngại đánh mất lòng tự trọng, ba tấm lòng chợt nhận ra  xa thấy nhớ gần lại thấy thương. Ôi! Mảnh đời riêng của ba cọng Ngò ráp lại thành mối duyên tỷ muội tưởng chừng như nặng nợ từ kiếp trước.
Rồi một ngày, Thi gặp lại người bạn thuở xưa, và gởi gắm được một lời xin lỗi. Chao ôi! Nếu không nói, không gặp lại suốt đời Thi sẽ trăn trở vì sự vô tình của mình, có lẽ Thi đã nhiều lần tâm sự bằng văn, bằng lời…nên Thượng đế xúc động ưu ái cho Thi cơ hội để sửa sai lỗi lầm, để có thêm một màu tím trân quý của tình bạn xưa ấy…Kể từ những màu tím tình người, tình bạn khắp nơi mọi chốn, xen vào dòng nhạc Bolero “chợ Nọ”, thỉnh thoảng Thi bắt giọng nghêu ngao:
“ Bạn thân ơi! Cố gắng yêu thương người. Dù người không yêu ta, cứ vẫn yêu thương hoài, Mặc kệ ai quên ai vẫn luôn tin yêu đời, dù đời chỉ yêu gian dối, dù đời cay đắng như vôi”…Thi chợt nở nụ cười thật tươi và thả lỏng tâm tư quay cuồng trong thế giới đầy sắc màu của quá khứ: “Sỏi đá tình quê”
Khi ta ở chỉ là đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn
Quảng Trị đó, nắng cháy da bạc tóc, mưa buốt giá tận xương. Đất không màu mỡ  vì : « Quê hương tôi nước mặn đồng chua, làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá. ». Ấy vậy mà có những lần như chiều nay ngồi một mình bâng khuâng…  lòng chợt nhớ: Nhớ nhà, nhớ trường, nhớ bạn…nhớ đến da diết, nên thả tâm hồn lang thang về Quảng Trị…Về cái nôi với bốn tao dây thuỡ mới chào đời, về những hạnh phúc khi mất đi mới thấy tiếc nhớ, đó là cái hạnh phúc trên miền sõi đá đã lặng lẽ vuột khỏi tầm tay từ thuở binh biến thương đau.
Những ngày trời đổ mưa buồn như ri, Thi nhớ mưa Quảng Trị…Mưa thâm trầm, dai dẳng…Mưa buốt thịt cắt da. Thuở ấy còn xuân  trẻ, phong phanh đến trường chẳng chút gì là lạnh cả. Áo ấm đủ màu mỏng manh dường như cốt để làm dáng, điểm xuyết thêm cho nhan sắc xuân thì rực rỡ, để tà áo trắng đồng phục bớt đơn điệu trong tiết trời âm u. Sân trường lúc ấy thật đẹp. Mưa như tấm rèm trắng phủ kín không gian, những chiếc ô xanh, đỏ… lượn quanh như vũ khúc “ Mưa Rừng”. Có bạn xắn quần cao đến gối, khoe những bắp chân trắng nõn nà mà thanh khiết như nụ hoa Thủy Tiên, có người đưa tay vội vàng che làn da đang lồ lộ bỡi cơn mưa vô tình bất chợt.
 Nắng lại chạnh nghĩ đến gió Lào tháng tư. Gió ầm ầm giựt mái tole, tung bụi mù đường…Ngày xưa làm gì có chuyện bịt mặt kín mít như bây giờ, mà sao da dẻ các cô gái vẫn trắng trẻo, mịn màng nhỉ?  Và hình như hồi ấy Quảng Trị cũng ít gió hơn có lẽ vì nhiều cây che chắn.  Bây giờ ngủ trong chăn ấm, Thi lại chảy nước mắt thương ba mạ những ngày hồi cư gian khó. Khổ quá, bao nhiêu tiền của vứt hết trong Ngân Khố, lớp đem cúng thiên địa ở bãi biển Tiên Sa, nên làm chi có tiền mua chăn bông Trung Quốc, hay mền dạ Liên Sô để đắp? Nhà nào còn giữ được mấy tấm “ ra dù” thì khỏi lo mùa đông tháng giá.  Phải cám ơn mấy hầm Rác Mỹ vẫn còn tồn lại sau chiến tranh, những bao cát đào lên còn mới, về giặt giũ sạch sẽ, đem may đôi chắp nối thành chăn cho qua mùa lạnh, lúc đó thấy ấm áp vô cùng, anh Cả của Thi còn may áo để mặc lao động nữa. Ngày về khu vườn chi chít cây “ Thầu Đâu” mấy cha con thi nhau phát quang, chất đống.  Mùa đông năm 1975  lạnh đến cá cũng chết đầy đồng,.  người chịu sao nổi nên đốt cũi mà sưỡi ấm. Đúng là lúc gặp khó khăn mọi thứ trở thành tiện dụng,.. Còn cái nổi dịch ngứa gãi sồn sột đến chảy máu nữa chứ. Thương hai cô em gái tuổi vừa mới lớn, đẹp như hoa hồng, nên đám thanh niên Kiến Trúc theo làm quen, bắt chuyện. Cứ mỗi lần họ đến là hai đứa dấu tay trong túi vì mắc cở. Chao ôi! Phải chịu đựng nín  gãi đến điên người, đừng nói đụng vào dù nhẹ…hiệu ứng dây chuyền khỏi nói, đam mê chi lạ…tróc da, rách thịt cũng không đã…Nhưng cũng may thay, hầm rác Mỹ đào lên còn chứa những chai thuốc muỗi, mạ Thi mua về. Chẳng cần biết độc hại hay không, chỉ biết sau khi gãi đã đời sương gió, tắm nước ấm nóng sạch sẽ chị em Thi bôi lên…Rát và nóng bừng nhảy nhót một hồi, vậy mà chỉ mấy ngày “ cái Ghẻ” biến mất…Không hề lưu lại dấu vết tựa hồ như chưa một lần ghé chân đến.  Khó mà quên lắm cuộc đời ơi. Mạ Thi lúc ấy thật vất vả, đã qua một thời gian mua thúng bán bưng, làm bà chủ một gian hàng tạp hóa to lớn bao năm, thoắt một ngày, một giờ cuối đời trở về điểm xuất phát, lại xuôi ngược Quảng Trị, Đông Hà buôn qua bán lại để nuôi chồng con. Sự thay đổi vận mạng đất nước kéo theo biết bao nhiêu số phận lên voi xuống chó, tóc mạ Thi  một sớm chiều trắng toát như bông, và tiếng thở dài u uẩn hằng đêm vang lên thầm lặng : gia đình Thi thuộc thành phần tư sản, dù tay trắng đã hoàn trắng tay. Rồi 1976, chịu không nổi sự soi mói dằn xé của của một vài cá nhân thời vụ, gia đình Thi theo dòng người Thị Xã về Đông Hà định cư trên một ngọn đồi căn cứ Mỹ cũ gọi là phường 5. Đất đồi nên toàn sỏi đá, mạ Thi cặm cụi lượm sạch cho thành đất thịt một khoản vườn, người tìm hột mít ươm mầm, mua giống chè về trồng thiết tha lập lại khu vườn xưa ở  Gare Quảng Trị…Sự sống nhờ vào cái quán tranh nho nhỏ bán linh tinh qua ngày, lúc này ba Thi  bị tai nạn hỏng chân nên chẳng giúp vợ tích cực như trước, người di chuyển trên hai cái đòn quanh quẩn trong nhà. Từ mờ sáng đã vội dậy tranh thủ chẻ củi nấu nước sôi, hay hãm chè xanh cho vợ. Rãnh rang lại cắm cúi xếp áo quần bỏ vào túi ni-lông kê dưới gối cho thẳng thớm hay “đơm” lại nút áo cho em gái út của tôi, vì nó làm công nhân suốt tuần mới về.  Thỉnh thoảng mát trời, khỏe khoắn chống nạn đội mũ ra thăm quán. Khi vào bao giờ  túi cũng có kẹo, bánh cho hai cô cháu ngoại, nên dù có đang say mê bày hàng chơi quanh hè, nhác trông thấy bóng ông vào là hai đứa chạy lon ton theo vừa hỏi linh tinh trên trời dưới đất, vừa rờ rẩm thăm dò...Ba Thi rất thích những giây phút này, vì tôi thấy ông luôn cười hạnh phúc, hàm râu bạc phơ rung lên  khi hai đứa ríu rít bên người.  Bây giờ có dịp gặp nhau, anh chị em thường kể lại chuyện xưa thấy thương ba vô hạn. Có mất đi rồi mới thấy quý giá thay hình ảnh quen thuộc hằng ngày. Khách quen mua hàng chủ yếu là những người chuyên đào hầm rác Mỹ, Mỗi sáng đi ngang ghé vào «  Mệ ơi bán “lửa” cho mấy gói thuốc Tam Đảo, mấy miếng kẹo đậu phụng hay lương khô 801, hoặc 402 gì đó »…Đào trúng hầm có hàng thì bán đem trả, còn không lại mua thiếu tiếp. Chiều về, lại thư thả ghé vào ngồi trên cái băng gỗ nhỏ ngoài sân, khề khà bát nước chè xanh tán dốc. Mặt mày đen nhẻm hốc hác, áo quần thì bụi đất lấm lem, ánh mắt vẫn tinh anh, nụ cười bao giờ cũng nở trên môi dù suốt  ngày cật lực vất vả, có khi chẳng trúng hầm nào có của . Vậy mà hay thật, có chuyện gì buồn vui đều mang ra tâm sự với “mệ”, hay hỏi ý kiến “ mệ” ngay cả việc rất tế nhị xãy ra trong gia đình. Bao giờ cũng vậy, mạ Thi lắng nghe và khuyên nhủ rất tận tình, nên ai cũng tin tưởng, thương quý đặt biệt danh «  Mẹ Việt Nam ».  Có người sáng đi, chiều nghe tin đào đụng phải mìn vĩnh viễn không về, bà « mẹ Việt Nam » im lặng thở dài, nước mắt đã cạn khô trên viền mi… Thi có thằng bạn cùng lớp bị sụp hầm chết ngạt vì mưa bất ngờ đổ xuống, đau thương cho số phận thật. Bạn ấy hiền lành như Bụt có tiếng là đẹp trai trong lớp, chưa có mảnh tình vắt vai đừng nói đến vợ con. Nghe tin Thi  rả rời vì thương bạn.  Ở nhà cứ nghe tiếng nổ “ầm” từ bãi rác, hay mưa gió đột nhiên ào xuống y như là có chuyện thương tâm xãy ra, gia đình nào có người thân làm “ nghề” này, lúc ấy đều hớt hãi chạy lên hiện trường. Thi  cũng có thằng cháu gọi bằng dì ruột, tội nghiệp nó chỉ mới hơn 10 tuổi, học giỏi hiền lành, ngoài giờ đến trường phải phụ thêm việc trong Hợp Tác Xã chổi đót. Một buổi sáng định mệnh, nó lom khom phơi đót ở sân, ngoài hàng rào không biết ai nhóm rác đốt lửa, đau đớn thay gặp phải chất nổ trong đống rác, mảnh bay đến trực diện xé toạt đầu, cháu Thi  ra đi không một lời trăn trối, chị Thi gần như điên loạn…vì vừa mấy tháng trước cô con gái tuổi vừa mười tám, giỏi mua bán đãm đang lo cho cả gia đình uống thuốc rầy tự tử chết. Chỉ vì lớp bác sĩ , y tá do thời thế dốt nát khẳng định nó hư thai vì rong kinh, Chịu không nổi tai tiếng thị phi, lại bị người yêu ngoảnh mặt nên lấy cái chết để rũ bỏ tình đời, minh chứng mình trong sạch. Sau này Thi vào Huế đưa con trai đi khám, tìm hiểu qua tình tiết bịnh,  bác sỉ Lê Bá Vận viện trưởng Đại Học Y Huế cho biết  đó có thể là hiện tượng u nang buồng trứng gây rong kinh. Ôi ! cháu chết thật oan ức nên chị khóc chẵng ra tiếng, ngớ ngẫn và bàng hoàng suốt thời gian dài.
Trong cuộc chiến, những ngày binh biến loạn lạc chẳng hao hụt một ai, ngày hòa bình những tưởng yên thân lại gặp cảnh chia ly mất mát. Đầu bạc khóc tuổi thơ. Chua xót thật. Đó chính là một trong những mảng màu đen xám trong đời Thi .
  Hai cô em gái của Thi phải bỏ học đi làm công nhân. Chao ôi! Cái từ Công Nhân Xây Dựng, Kiến Trúc nghe thật oai, nhưng chỉ là những cô phụ thợ nề trộn vữa, quét vôi, hay bốc vác Thạch Cao từ Lào chở về…Anh Thi là Giáo Viên được chính quyền lưu dung, cử lên vùng núi để đem cái chữ cho bãn làng…Phấn đấu không bao lâu nẩu cả người, bỏ nghề về làm kế toán tổ hợp cơ khí, rồi cưới vợ…Thi cũng ôm cầm lên thuyền vào Quảng Ngãi, vô nghề bất tướng làm cô hàng rong phụ chồng nuôi con. Có thời gian cũng theo buôn bán hàng Lào, nhưng khổ quá cứ gặp thuế vụ là run bắn người lên nên đành giải nghệ sớm. Nếu ai có dịp đi qua Quảng Ngãi, thấy đám hàng rong nón cời, tay xách nách mang những thỏi đường phổi, mạch nha chạy theo xe bán, đó chính là hình ảnh của Thi mấy năm làm dâu xứ Quảng. Cô tiểu thư con gái ông Đội một thời, cũng phải sống, phải ăn và phải có trách nhiệm với mấy đứa con rứt ruột sinh ra, nên phải bương chãi nắng mưa khốn khổ. Nhiều lúc thoáng thấy bóng người quen ngoài quê đi xe đò ngang Quảng Ngãi dừng lại, vội lũi trốn như chạch vì còn mang tư tưởng danh giá hảo, và cũng rất sợ đến tai mạ và gia đình buồn lo cho con.  Nói đi cũng phải nghĩ lại, từng trãi gian khổ mới nhận ra chân giá trị của đồng tiền, nếu sống mãi trong nhung lụa liệu có được tư duy như ngày nay?  Qua rồi nên suy ra cũng không gì khó: Với sức người sõi đá cũng thành cơm…nên người Quảng Trị có khổ bao nhiêu cũng chịu được, Giờ êm ấm, ổn định ngồi rung đùi kể lại, có ai hơn dân mình cái bề dày chịu thương chịu khó.
 .  Kỷ niệm đã xa thật xa, cơ hồ như một giấc mơ. Có nhiều lúc ôm quyển sách trên tay đọc những bài của đồng môn cứ tưởng của mình, đang nói về mình bỡi bài nào cũng mang dáng dấp chung chung của một thời tuổi trẻ. Từng bến sông, con đường..từng hàng cây, phiến đá hằn sâu trong ký ức. Ngay cả những Hoa Phượng trong sân trường  Nguyễn Hoàng hay dọc bờ sông Thạch Hản cũng đặc biệt hơn, màu đỏ thắm hơn bất kỳ ở đâu. Cái Thị Xã bé bỏng như bàn tay “ Đi dăm bước đã về chốn cũ” nên ai cũng là hàng xóm mà sao đẹp chi lạ, cứ ước ao được quay trở về.  Là người Quảng Trị, là CHS Nguyễn Hoàng, ai chưa một lần đi đò qua chùa Sư Nữ, hay xuôi ngược đập Rù Rì? Ai chưa một lần đặt chân lên nhà thờ La Vang? Ai chưa từng bắt dế, Châu Chấu hay Bọ Rầy?...Vì thế, bài viết nào cũng như thể đang viết cho chính người đang đọc, dù cây viết xuất thân ở phố hay vùng quê…từ Đông Hà, Ái Tử hay Hải Lăng , Lam Thủy… Đó chính là sự thành công nhất định của các tay bút “Cây nhà lá vườn”…trong lòng dân Nguyễn Hoàng Quảng Trị
Nên thơ văn Quảng Trị chảy từ trong mạch sống thực mà ra…Cần chi trình độ. Đó là Thi nghĩ thế thôi, xem như bào chữa cho khả năng hạn hẹp  của mình cũng được vậy.
Có cô bạn góp ý khi đọc thông tin café hằng tháng của NHSG trên mạng internet: “ Làm gì mà tháng nào cũng chừng nớ khuôn mặt đưa lên, sao không chụp hình người khác…Coi hoài chán lắm chị ơi”…Bạn nghĩ sao? Thi nghĩ rất chủ quan, chỉ sợ ai đến một lần mà vắng luôn không hẹn ngày tái ngộ, chứ tháng nào cũng hiện diện quay quần, thêm các anh chị từ xa lâu lâu về điểm xuyết là sự thành công của mục tiêu đề ra rồi đó chứ. Có nghĩa buổi café tọa đàm đã cuốn hút được sự sinh hoạt đều đặn của CHS NH sống tại SG rồi chứ . Cho nên cần phải lấy tin và hình để chứng tỏ phong trào đang sống, vẫn tồn tại trong tinh thần NHers. Theo các anh chị đây là màu gì trong cuộc sống chúng ta, Thi loay hoay mãi với bảng màu mà chẵng biết sử dụng màu nào để nói lên đầy đủ ý nghĩa của câu chuyện, của sự việc này…Màu Cam nhé!...Những hơi thở phả đều vào mạch, đã cho Thi nhịp đập của trái tim vẫn còn hừng hực tình người và tình yêu cuộc sống.
Trời hưng hửng nắng buổi sáng, chiều về tiếc nuối chi mưa lại rỉ rả nhỏ hạt. Con đường hẽm trước nhà lụp xụp nước, chiếc xe ai đó chạy qua văng tóe vào cửa.. Thi bó gối ngồi chầu…mơ về bảng màu Newton của ngày thơ mộng cũ. Thi vẫn khát khao từng ngày nghe tiếng chuông điện thoại rung lên giai điệu xanh:
 “ T. ơi! Vài ngày nữa thầy có mặt tại Sài Gòn, em báo các bạn chuẩn bị đêm Bolero “ chợ Nọ nhé”
Tiếng đàn thùng bập bùng, sức sống bừng lên trong đôi mắt, bờ vai rung theo nhịp nhạc…Và đâu đó cánh hạc thời gian bay vút…các mảng màu quay tít…Để hoàn thành một màu trắng tinh khôi không vướng bận nỗi buồn đau hiu hắt của một phận đời.
Một chiều mưa cuối năm -  QT




1 nhận xét:

  1. Nhà văn, nhà thơ Đinh Quang Tuyết ôn cố tri tân, tri ân cô giáo !

    Trả lờiXóa