Thứ Sáu, 12 tháng 3, 2021

NHỮNG THI LUẬT-THI BỆNH - DẠNG THƠ ĐƯỜNG LUẬT ĐẶC BIỆT- tổng hợp từ nhiều tg.

 Xin giới thiệu một số bài viết mà Văn Thiên Tùng tổng hợp và lược tóm lại phần cơ bản từ các bài viết của nhiều tác giả nghiên cứu viết thành. để quý Thi hữu yêu thơ Đường Luật Việt  tham khảo thêm, đặc biệt là các thành viên NMSH & Hội viên chi hội chúng ta...nghiên cứu cũng như tìm hiểu thêm để bổ sung vào kho tàng trí tuệ cho chính mình...

 Nếu đã biết rồi thì đọc để nghiệm lại , nếu quên đi kiến thức  thì ôn lại không thừa. Mục đích là trang bị thêm cho ta  một kiến thức cơ bản để đi sâu vào lĩnh vực sáng tác tác phẩm thơ Đường luật Việt Nam cách tân hiện đai có được tác phẩm hay trong kho tàng thơ Đường luật VN đương đại  để  dâng đời.

VTT 

 

 

 CÁC THI BỆNH TRONG THƠ ĐƯỜNG LUẬT:

 
(Bài viết được sưu tầm và hiệu chỉnh, nếu có gì sơ sót, mong các bạn châm chước, hoặc có bổ sung gì; thì xin vào mục Góp Ý - Thắc Mắc).
(Ghi chú: Những bệnh và lỗi sau đây là những sưu tầm trên mạng. Chỉ riêng luật Bằng Trắc và Niêm Luật thì phải theo, còn ngoài ra; tùy theo mỗi người có một quan điểm riêng, chứ không bắt buộc, ai cảm thấy thích thì theo).

Thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường luật nổi tiếng với niêm luật chặt chẽ và mức độ khó khi làm một bài thơ hoàn chỉnh. Sau đây, tôi xin phép viết lại một số tài liệu mà tôi đã sưu tầm được để các bạn yêu thích thể loại thơ này có thêm nhiều kiến thức về nó.
-12 lỗi, 8 bệnh trong thơ Đường Luật.

1. Thất luật.
2. Thất niêm.
3. Lạc vận/Cưỡng vận.
4. Thất đối.
5. Khổ độc.
6. Trùng vận. (Điệp Vận)
7. Trùng từ. (Điệp Từ)
8. Trùng ý (Hiệp Chưởng)
9. Phạm đề- Mạ đề.
10. Điệp điệu.
11. Bình đầu.
12. Thượng vỹ.
13. Điệp thanh.
14. Điệp âm.
15. Đại vận.
16. Tiểu vận.
17. Phong yêu.
18. Hạc tất.
19. Chánh nữu.
20. Bàng nữu.


Phân biệt thơ Đường luật và thơ Đường:
Rất nhiều người làm thơ đã lầm lẫn gọi thơ Đường luật là thơ Đường. Thật sự thì đây là 2 ý niệm hoàn toàn khác nhau. - thơ Đường luật (ĐL): là thơ làm theo Thi luật đặt ra từ đời nhà Đường bên Tàu. Các bài thơ này bên Trung quốc được gọi là Luật thi. 
Sang Việt Nam, Thi luật gọi là thể thơ ĐL. - thơ Đường hay Đường thi : là những bài thơ của các thi sĩ Trung Hoa làm dưới thời nhà Đường, nổi tiếng nhất là 300 bài được gọi là Đường thi tam bách thủ. Trong số đó có một số được làm theo thể thơ ĐL, số còn lại làm theo các thể thơ khác, phần lớn là thơ cổ phong.
Tóm tắt các lỗi trong thơ Đường Luật:

1. Thất luật:
Những từ đáng Bằng mà làm ra Trắc hoặc đáng Trắc mà làm ra Bằng.
2. Thất niêm
Muốn xét một bài thơ có thất niêm hay không thì nhìn chữ thứ 2: 
- Chữ thứ 2 câu 2 cùng nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 3 
- Chữ thứ 2 câu 4 cùng nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 5 
- Chữ thứ 2 câu 6 cùng nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 7 
- Chữ thứ 2 câu 8 cùng nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 1
Tóm lại: "Chữ thứ hai trong bất kỳ câu nào trong một bài thơ ĐL, đều phải có cùng bằng hoặc trắc với chữ thứ sáu của câu đó".
3. Lạc vận/Cưỡng vận:
- Trong 5 vần mà có một vần khác xen vào.
- Vần là yếu tố quan trọng để tạo nhạc cho thơ. Do đó cần phải tránh gieo vần cưỡng ép hay lạc vận. 
4. Thất đối: Đối chiếm địa vị quan trọng trong thơ ĐL. Bỏ đối đi thì không còn được gọi là thơ ĐL nữa. 
5. Khổ độc:- Trong một bài thất ngôn, chữ thứ ba các câu vần, và chữ thứ năm các câu không vần đáng là từ bằng mà đổi ra trắc - Trong một bài ngũ ngôn, chữ thứ nhất các câu vần và chữ thứ ba các câu không vần đáng là bằng mà đổi ra trắc thì gọi là khổ độc.
6. Trùng vận:
Thơ ĐL


chỉ dùng đơn vận, nếu cùng một chữ vần được dùng lặp lại ở hai câu khác nhau thì gọi là trùng vận, bài thơ sẽ hỏng.
Theo thi luật chính thức, nếu chỉ là tiếng đồng âm mà khác nghĩa thì được coi là 2 chữ vần khác nhau và không phạm lỗi. Tuy nhiên, để tránh nghe đọc trùng lặp âm vận không hay, trong bài thơ không nên để hai vần đồng âm gần nhau.
7. Trùng từ: Cùng một chữ được dùng nhiều lần ở trong bài thơ, ngoại trừ trường hợp cố ý, thì gọi là lỗi trùng từ hay điệp từ. 
8. Trùng ý (Hiệp Chưởng):Trong bài thơ ĐL nếu có câu chữ nào lặp lại ý của các câu chữ đã dùng mặc dù dùng từ khác đi thì cũng bị lỗi trùng ý. Nếu lỗi trùng ý nằm trong hai câu thực, hoặc hai câu luận thì gọi là hiệp chưởng (câu trên câu dưới đối nhau mà ý nghĩa giống nhau như hai bàn tay úp lại).
9. Phạm đề/Mạ đề: Trong hai cặp thực và luận không được dùng chữ của đầu bài, nếu có chữ nào của đề lọt vào thì bị lỗi phạm đề hay mạ đề.
10. Điệp điệu: Điệp điệu là khi nhiều câu liên tiếp ngắt nhịp cùng một cách. Lỗi này thường hay xảy ra ở các câu giữa của bài thơ.
11. Bình đầu:Bài thơ mà có nhiều câu liên tiếp bắt đầu bằng những tiếng cùng một từ loại, cùng một cấu trúc câu thì phạm lỗi bình đầu, ngoại trừ trường hợp cố tình làm có mục đích rõ rệt.

12. Thượng vỹ:Trong bài thơ ĐL TNBC nếu chữ thứ 5, 6, 7 của nhiều câu liên tiếp (nhiều hơn 3) cùng từ loại và cấu trúc thì bài thơ phạm lỗi thượng vỹ.
13. Điệp thanh:Trong thơ thất ngôn, một câu có 4 tiếng bằng và 3 tiếng trắc hoặc bốn tiếng trắc và ba tiếng bằng. Những tiếng bằng hay trắc đó phải có thanh độ khác nhau thì câu thơ mới giàu âm điệu. 
14. Điệp âm:Điệp âm là những chữ có cùng âm đứng gần nhau trong một câu hoặc cùng vị trí trong hai câu. 
15. Đại vận:Bài thơ ĐL chỉ gieo vần ở các chữ cuối câu. Nếu chữ thứ 4 trong câu cũng vần với chữ cuối câu thì phạm lỗi đại vận.
16. Tiểu vận:Nếu chữ thứ 2 trong câu vần với chữ thứ 6 hoặc thứ 7 thì phạm lỗi tiểu vận.
17. Phong yêu:Nếu chữ cuối câu trùng thanh dấu với chữ thứ 2 trong cùng câu thì gọi là lỗi phong yêu.
18. Hạc tất:Nếu chữ cuối câu trùng thanh dấu với chữ thứ 4 trong cùng câu thì gọi là lỗi hạc tất.
19. Chánh nữu: Khi câu có từ 3 chữ trở lên có cùng phụ âm đầu phạm lỗi chánh nữu. (Ngoại trừ từ láy, từ ghép, từ phiên âm quốc tế… thì được tính giảm đi 1 lần)
20. Bàng nữu:Trong một liên có từ 4 chữ trở lên có cùng phụ âm đầu thì phạm lỗi Bàng Nữu. (Ngoại trừ từ láy, từ ghép, từ phiên âm quốc tế… thì được tính giảm đi 1 lần).

 

-Đối từ loại.
Danh từ <-> Danh từ. Danh từ riêng <-> Danh từ riêng. Danh từ chung <-> Danh từ chung, Động từ <-> Động từ.Trạng từ <-> Trạng từ.Tính từ <-> Tính từ.Tính từ có nhiều loại, nên:
Gợi hình <-> Gợi hình. Màu sắc <-> Màu sắc. Mùi vị <-> Mùi vị. Tượng thanh <-> Tượng thanh. Số lượng <-> Số lượng.Tên người <-> Tên người. Tên nước <-> Tên nước. 
Tên địa phương <->Tên địa phương.Mùa tiết <-> Mùa tiết. Phương hướng <-> Phương hướng.Chữ nặng <-> Chữ nặng. Chữ nhẹ <-> Chữ nhẹ.Từ kép <-> Từ kép. Từ đơn <-> Từ đơn.Thành ngữ <-> Thành ngữ. Chuyên ngữ <-> Chuyên ngữ.Hán Việt <-> Hán Việt. Nôm (thuần Việt) <-> Nôm (thuần Việt).
Hai cặp đối trong thơ Đường luật là tinh hoa của bài thơ. Nó là đặc điểm chính để nhận biết một bài thơ Đường luật. Hai cặp đối này còn giúp đo lường trình độ làm thơ Đường luật của tác giả.
Một bài thơ thất ngôn bát cú mà không có 2 cặp đối ở Thực và Luận thì không phải là một bài thơ Đường luật.


 

BỐ CỤC- NIÊM LUẬT, VẬN, VẦN: 

Một bài thơ Thất Ngôn Bát Cú có 4 phần:

 

1- Mạohay Đề: là mào đầu (vào bài) còn gọi là Ðề, gồm:

- Phá đề (câu 1) nghĩa là mở ra, giới thiệu tựa đề.

- Thừa đề (câu 2) nghĩa là chuyển xuống.

2- Thực hay Trạng: gồm câu 3 + 4: giải thích, khai triển tựa đề.

3- Luận: gồm câu 5+6: bàn luận ý nghĩa của bài.

4- Kết: gồm câu 7+8: tóm tắt ý nghĩa, bày tỏ tình cảm, thái độ.

 


- LUẬT (chính luận & bất luận), thất luật

- NIÊM: ( các cặp 2-3, 4-5,6-7, 1-8, ( đồng luật, đồng âm) không niêm đc gọi là thất niêm

- Niêm. Các câu trong một bài thơ Đường giống nhau về luật thì được gọi là "những câu niêm với nhau" (niêm = giữ cứng, ở đây được hiểu là giữ giống nhau về luật). Hai câu thơ niêm với nhau khi nào chữ thứ nhì của hai câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Ở những câu theo nguyên tắc là cần phải niêm, nếu tác giả sơ xuất mà làm thành không niêm thì bài đó bị gọi là "thất niêm".

Nguyên tắc niêm trong một bài thơ Đường chuẩn (thất ngôn bát cú) như sau:

- VẦN,VẬN:  gồm Chính vận & thông vận tức là đồng âm

Vần là những chữ có cách phát âm giống nhau, hoặc gần giống nhau, được dùng để tạo âm điệu trong thơ. Trong một bài thơ Đường chuẩn, vần được dùng tại cuối các câu 1, 2, 4, 6 và 8. Những câu này được gọi là "vần với nhau". Nếu một bài thơ Đường mà chữ cuối của một trong các câu này không giống nhau về vần thì được gọi "thất vận".

Những chữ có vần giống nhau hoàn toàn gọi là "vần chính", những chữ có vần gần giống nhau gọi là "vần thông". Hầu hết thơ Đường dùng vần thanh bằng, nhưng cũng có các ngoại lệ.

- Chính vận thì chặt chẽ, nhưng cũng đôi khi tạo cho người làm thơ cảm giác gò bó, không linh động.

- Thông vận là cách hòa vận thoải mái nhất, làm cho bài thơ trở nên đặc sắc, biến ảo vô cùng, giúp người làm thơ thoải mái hơn, dễ dùng chữ hơn.

- Cưỡng vận là vần ép, miễn cưỡng cũng có thể dùng được, nhưng nếu sử dụng cưỡng vận nhiều quá, sẽ làm giảm giá trị câu thơ.

Cả ba cách hòa vận nói trên đều dùng được

Chỉ riêng LẠC VẬN là phải tuyệt đối tránh, gieo vần lạc vận kể như bài thơ hỏng!!!

 TÓM LẠI:

1- Vần: là bộ phận chủ yếu của âm tiết trong tiếng Việt là âm tiết trừ đi phụ âm đầu nếu có.

 Ví dụ: "tà, hoa, nhà, gia, ta" trong bài Qua Ðèo Ngang có cùng một vần "a".

 Vần có vần bằng, vần trắc, độc vận, ép vận. Trong thất ngôn bát cú chỉ gieo 1 vần, gọi là độc vận rơi vào 5 chữ cuối của 5 câu: 1, 2, 4, 6, 8 thường là vần bằng, ít khi dùng vần trắc, 5 chữ này tránh trùng nhau, phải hiệp vận cho đúng nếu gieo sai gọi là lạc vận, gieo vần không sát gọi là gượng ép.

 Ghi chú:

  Vần có cước vận (vần ở cuối câu), và yêu vận (vần ở lưng câu).

  - Vần điệu: Ðiệu là đều đặn, là số chữ đều đặn trong mỗi câu thơ, như điệu thất ngôn mỗi câu 7 chữ, điệu lục bát gồm 1 câu 6, 1 câu 8. Riêng điệu ca trù mỗi câu bao nhiêu chữ cũng được, trừ câu chót bắt buộc 6 chữ.

 -  Nhịp điệu: Nhịp là cách ngắt đoạn đều đặn trong câu thơ. Nhịp điệu là cái dáng đi khi mau khi chậm trong thơ.

  - Tiết tấu: tiết là đốt, là đoạn ngắn, tấu là đánh nhạc, là đọc cao lên.

  - Thi nhạc (gồm vần, điệu, nhịp, tiết tấu): Nhà thơ dùng âm thanh (tượng thanh), dùng sự thay đổi của của âm, độ cao thấp của thanh, sự đều đặn của vần điệu nhịp điệu, sự nhịp nhàng của tiết tấu... làm cho bài thơ đọc lên như một bản nhạc gọi là thi nhạc.

 THANH &ÂM: Âm là tiếng động phát ra khi đọc một nguyên âm. Thanh là độ cao thấp của âm. Mỗi âm trong tiếng Việt có 6 bực độ quy định bởi 6 dấu:

- Thanh bằng: là thanh huyền và thanh ngang 2 thanh BẰNG gồm trầm (dấu huyền) và phù (không dấu), (2),

- Thanh trắc là: thanh hỏi, sắc, ngã, nặng Bốn thanh TRẮC gồm thượng hay còn gọi là bổng (dấu sắc, dấu ngã), và khứ hay còn gọi là trầm  hay nhập (dấu hỏi, dấu nặng).

 ( 4). Trong một câu thơ, tất cả những chữ cùng một thanh nên thay đổi bực độ.

 

- Thơ Cổ Phong ( thất ngôn cổ thể) & thơ Đường:  

+ Thơ Cổ Phong xuất hiện trước đời Ðường không có luật lệ nhất định.

+ Thơ Đường luật là một thành tựu lớn của nền thơ cổ điển Trung Hoa. Từ khi ra đời vào thời nhà Đường, các thể thơ này đã nhanh chóng lấn lướt thể thơ cổ phong có mặt từ trước đó. Sau đường Đường mới có thơ Luật Đường.

-Thơ Hàn Luật (1408 TK 15) & Thơ Đường Luật Việt ( 2007 TK21) : Nguyễn Thuyên là người đầu tiên đưa tiếng Việt vào thơ văn, đặt ra thể thơ Hàn luật, là sự kết hợp thơ Đường luật với các thể thơ dân tộc Việt  chữ Nôm( đầu đời trần đến cuối đời Nguyễn. (Lúc đầu làm bằng chữ Hán, đến đời Trần, Hàn Thuyên là người đầu tiên làm bằng chữ Nôm, nên Ðường luật còn gọi là Hàn Luật)

Theo Văn Học Sử Yếu của Giáo Sư Dương Quảng Hàm, thì nền quốc văn của nước ta trước đây chỉ có Tục Ngữ, Ca Dao, nghĩa là loại văn chương bình dân và truyền khẩu. Đến đời Hàn Thuyên, là người đầu tiên biết làm thơ phú bằng quốc âm, nên có thể coi ông là “Ông tổ văn nôm”, loại văn bác học có theo quy tắc nhất định.

          Ông vốn họ Nguyễn, người huyện Thanh Lâm (nay là phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương), đậu Thái Học Sinh về đời vua Trần Thái Tôn (1225-1257). Theo sử chép, mùa Thu tháng Tám năm 1282 đời vua Trần Nhân Tôn, ông đang làm Hình Bộ Thượng Thư, có con ngạc ngư (cá sấu) đến sông Phú Lương (tức sông Nhị Hà). Vua sai ông làm bài văn vất xuống sông. Cá sấu bỏ đi. Vua cho việc ấy giống việc Hàn Dũ bên Tàu cũng làm bài văn đuổi cá sấu (khoảng năm 819), nên cho ông đổi họ Hàn.

Bài thơ đuổi cá sấu đó, ông làm bằng Hán văn hay Việt văn thì sử không chép rõ. Nhưng sau đó, ông có làm nhiều bài thơ phú bằng quốc ngữ có nhiều người đương thời bắt chước. Vì thế mà đời sau làm thơ quốc âm thường gọi là thơ Hàn luật.

Thơ Ðường Luật phổ biến trên thi đàn Việt Nam xưa, xuất xứ từ đời Ðường (618-907) bên Tàu, có luật lệ nhất định, thường gọi là Thơ Luật để phân biệt với Thơ Cổ Phong xuất hiện trước đời Ðường không có luật lệ nhất định.

 Ra đời từ rất sớm ở Trung Quốc, bắt nguồn từ thơ bảy chữ cổ phong ( thất ngôn cổ thể), đến đời Đường, thơ thất ngôn bát cú phát triển rầm rộ. Trong quá trình giao lưu hội nhập văn hóa một nghìn năm Bắc thuộc, hình thức thơ này đã du nhập vào Việt Nam, được các nhà thơ cổ điển Việt Nam ưa chuộng, tiêu biểu như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan...

- Thơ Thất Ngôn Bát Cú đường Luật có 4 thể: 2 biến thể Ngũ Ngôn Tứ Tuyệt, Ngũ Ngôn Bát Cú, 1 biến thể: Thất Ngôn Tứ Tuyệt, trường tứ tuyệt .

- Thơ luật Đường có luật lệ gò bó khó làm nhất nhưng lại được các Cụ ưa thích nhất, thường dùng để bày tỏ tình cảm ý chí, ngâm vịnh, trào phúng, xướng họa, thù tạc, chúc mừng quan hôn, khai bút đầu Xuân... Lúc đầu làm bằng chữ Hán, đến đời Trần, Hàn Thuyên là người đầu tiên làm bằng chữ Nôm, nên Ðường luật còn gọi là Hàn Luật. Từ đó thể Thất Ngôn Bát Cú trở thành độc tôn trên thi đàn, ngay trong các kỳ thi cũng bắt thí sinh làm một bài. Sau đây xin trình bày khái quát về bố cục và luật lệ căn bản của thể thơ này:

Thơ Đường luật của ta đã khó đến như vậy, nếu không dùng trong khoa cử, thì ít ai học đến. Cũng vì thế mà người làm thơ về thể loại này ngày một ít đi, nhất là giới trẻ hiện nay thường chuộng về thơ mới, thơ tự do, mà ít sở trường về thơ Đường luật nữa. Có thể một vài thập niên tới, loại thơ này phải đành cáo chung, chỉ còn có trong kho tàng văn học cổ mà thôi !

          Trong thơ Đường luật của Tàu còn có các lối chơi thơ như Thủ Vĩ Ngâm, Liên Hoàn, Yết Hậu, Lục Ngôn Thể, Liên Ngâm hoặc Liên Cú, Thuận Nghịch Độc, và Họa Vận mà ta cũng có làm theo. Nhưng các cụ nhà ta còn thêm nhiều lối chơi thơ, chơi chữ nữa như thể : Tiệt Hạ, Vĩ Tam Thanh, Song Điệp, vv… để trong lúc trà dư tửu hậu xướng họa làm vui, kể cũng phong lưu tao nhã biết dường bao, âu đó cũng là cái thú thanh cao của thi nhân vậy !  Xin trích dẫn các lối Tiệt Hạ, Vĩ Tam Thanh, Song Điệp theo Việt Nam Văn Học Sử Yếu như sau :
          - Tiệt Hạ : (Tiệt : ngắt; Hạ : dưới) là lối thơ câu nào cũng bỏ lửng như bị ngắt ở cuối, nhưng ý nghĩa rõ rệt, người đọc đoán mà hiểu được. Thí dụ :

Thác bức rèm châu chợt thấy mà…
Chẳng hay người ngọc có hay là…
Nét thu dợn sóng hình như thể…
Cung nguyệt quang mây nhác ngỡ là…
Khuôn khổ ra chiều người ở chốn…
Nết na xem phải thói con nhà…
Dở dang nhắn gởi xin thời hãy…
Tình ngắn tình dài chút nữa là…
                   Vô Danh

-Thơ mới: Sau năm 1930, theo trào lưu từ mới từ pháp quốc & tây phương,các nhà thơ hiện đại, nhất là các nhà thơ thuộc trào lưu thơ mới đã làm một cuộc cách mạng về thi ca, phá bỏ những hình thức niêm luật cứng nhắc của thơ cũ, câu chứ ngắt nhịp ….

 nhưng thể thơ thất ngôn bát cú vẫn được sử dụng. Tuy nhiên ngoài một số ít tác phẩm được viết theo thể thất ngôn bát cú, thơ bảy chữ hiện đại đã có sự thay đổi: gồm nhiều thể thơ nối tiếp nhau, cách gieo vần, niêm luật linh hoạt hơn, hình thức này đã tạo ra những tác phẩm dài hơi, tiêu biểu là bản trường ca "Theo chân Bác" của nhà thơ Tố Hữu.

 

KẾT LUẬN:

        Trên đây chỉ là những quy tắc căn bản, khi làm thơ có nhiều thi gia đôi lúc không răm rắp tuân theo trăm phần trăm mà bài thơ vẫn hay, vì tác giả đặt cái thần/ hồn của bài thơ cao hơn luật tắc. Ví dụ như bài "Thu Vịnh" của Nguyễn Khuyến gieo vần "ao" nhưng câu 2 lại gieo vần "iu":

 Trời thu xanh ngắt mấy từng cao

 Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu

  Bài "Thu Ðiếu" của Nguyễn Khuyến về bố cục, tác giả say mê "tả cảnh" suốt cả 8 câu; còn về vần thì trong 5 chữ : "veo, teo, vèo, teo, bèo", đã có đến 2 chữ "teo" trùng nhau vốn là điều cấm kỵ trong 1 bài thơ luật, nhưng ở đây cụ Tam Nguyên Yên Ðỗ vẫn mạnh dạn sử dụng, vì Cụ thấy 2 từ ngữ ấy (tẻo teo, vắng teo) diễn đạt được tình cảm của Cụ. Ðiều này cho thấy Cụ là một nhà Nho phóng khoáng có bản lĩnh trong sáng tạo. Và bài Thu Ðiếu xưa nay vẫn được nhiều người công nhận là một trong những bài thơ tả cảnh mùa Thu hay nhất trong thơ ca Việt Nam.

 

        Cũng chính vì luật tắc quá gò bó khó khăn của nó mà giới Nho sĩ Việt Nam đã bị kiềm hãm trong suốt một nghìn năm, chẳng để lại cho hậu thế được bao nhiêu bài thơ hay so với thể thơ mới. Thời tiền chiến xảy ra một trận bút chiến vang dội cả ba miền giữa thơ mới và thơ cũ, cuối cùng thơ cũ đại bại nhường thi đàn lại cho thơ mới thống trị đến ngày nay. Ngay nhà thơ Quách Tấn chuyên làm Thất ngôn bát cú với tác phẩm "Mùa Cổ Ðiển", về sau cũng từ giã nhảy qua thể Thất ngôn tứ tuyệt với thi tập "Ðọng Bóng Chiều".

        Ngày nay, thể Thất Ngôn Bát Cú được nhiều người làm sống lại bằng những hình thức cách tân noi theo bước chân tiền phong của các nhà thơ tiền bối có bản lĩnh sáng tạo như Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương... mạnh dạn từ bỏ phong cách quý phái, đài các, cung đình: ưa xài điển tích, thích dùng Hán tự, vọng ngoại, vong bản, bắt chước, sáo mòn... để trở về với tình tự cội nguồn dân tộc Việt Nam đầy sinh động và sáng tạo của mình.

 

NHỮNG DẠNG THƠ ĐƯỜNG LUẬT ĐẶC BIỆT:

Do Nguyễn Quốc Bình

  • Họa vận đối đáp. Một người làm bài xướng lên, một người khác làm bài khác họa lại...
  • Thủ nhất thanh (nhất đồng) Từ đứng đầu các câu thơ đều giống nhau, ví dụ: ...
  • Thủ nhất tự Chữ cái đứng đầu các câu thơ đều giống nhau, ví dụ: ...
  • Chiết tự khoán thủ ..., Chiết tự khoán tâm. ...
  • Tung hoành trục khoán. ...
  • Điệp từ ... , Điệp từ láy.

Như thế tất cả các dạng thơ Đường Luật bên dưới đây xuất hiện theo thú chơi thơ của các thi nhân mà thôi:

- Nhất Thủ Thanh: Các chữ đầu của các câu trong bài thơ giống nhau.

- Nghi Vấn: Câu thơ nào cũng có dấu hỏi ở cuối câu.

- Bát Điệp: Tất cả các câu đều có một từ giống nhau.

- Ô Thước Kiều: Tương tự như thơ Liên Hoàn, nhưng chỉ lấy hai chữ cuối của bài trên làm hai chữ đầu của bài dưới.

- Dĩ Đề Vi Thủ: Lấy các chữ ở tựa bài thơ làm chữ đầu tiên của các câu thơ.

- Dĩ Đề Vi Vận: Lấy các chữ ở tựa bài thơ làm vần để gieo.

- Áp Cú: Lấy chữ cuối của câu trên làm chữ đầu của câu dưới.

- Khoán Thủ: Ghép các chữ đầu các câu thơ  thành một câu văn có ý nghĩa.

- Ngũ Độ Thanh: Dựa theo Ngũ Độ Thanh từ xưa bên Tàu áp dụng vào thơ Đường Luật ở Việt Nam. Các câu thơ phải hội đúng 5 dấu thanh trong 6 dấu thanh của tiếng Việt: Không dấu, Sắc, Huyền, Hỏi, Ngã, Nặng.

- Thủ Vỹ Điệp Ngữ Cú

Ngoài ra còn rất nhiều biến dạng khác tuỳ theo sở thích của Tác giả nhưng vẫn theo 5 quy tắc căn bản của Đường Luật Thi là Vần, Niêm, Luật, Đối và Bố cục.
Nhân đây xin giới thiệu môt dạng thơ mới của Đường Luật Thi: 

1. Họa vận đối đáp

Một người làm bài xướng lên, một người khác làm bài khác họa lại. Ngoài việc các vần trong bài họa phải theo y như các vần trong bài xướng, thì ý nghĩa còn phải hoặc phụ theo cho rộng, hoặc trái hẳn lại (phản đề), ví dụ:

 

HỎI Ả BÁN CHIẾU

Xướng:

Ả ở nơi nào, bán chiếu gon?

Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn?

Xuân xanh nay độ bao nhiêu tuổi?

Đã có chồng chưa, được mấy con?

(Nguyễn Trãi)

 

Họa:

Thiếp ở Tây Hồ bán chiếu gon,

Cớ chi ông hỏi hết hay còn?

Xuân xanh vừa độ trăng tròn lẻ

Chồng còn chưa có, hỏi chi con!

(Nguyễn Thị Lộ)

 

2. Thủ nhất thanh (nhất đồng)

Từ đứng đầu các câu thơ đều giống nhau, ví dụ:

 

MẸ YÊU

 

Mẹ đã cho con thấy cuộc đời

Mẹ, nguồn ánh sáng chẳng hề vơi

Mẹ từ ngút ngát hương đồng ruộng

Mẹ hóa thênh thang ánh biển trời

Mẹ, bát cơm đầy luôn ấp nhủ

Mẹ, dòng sữa ngọt mãi trào khơi

Mẹ nâng thực tiễn hòa chân lý

Mẹ dẫu muôn phương vẫn dậy lời

(Thu Trang)

 

3. Thủ nhất tự

Chữ cái đứng đầu các câu thơ đều giống nhau, ví dụ:

 

MƠ HOA

 

Lá trải thêm mùa ruộm ý nguyên

Lời thương vẫn ủ nét mơ huyền

Len dòng nhạc đẫm cung hờn tuổi

Lỗi giọt tơ nhòa mắt ngẩn duyên

Luống cỏ miền xa dằn nhụy nắng

Lề sông thuở cũ mộng hoa thuyền

Lay chiều ước hẹn trăng viền ngõ

Lẩn khuất hương tình gợi thúy uyên

(Nguyễn Quốc Bình)

 

4. Chiết tự khoán thủ

Lấy các chữ cái trong tựa đề làm âm đầu cho các từ ở đầu mỗi câu thơ, ví dụ:

 

QUỐC BÌNH


Quang trời nắng dệt ánh nồng say

Uống giọt nguồn khơi tỏ tháng ngày

Ống kính không gian tầm sóng phủ

Con thuyền vũ trụ lướt sao bay

Bao luồng nghĩa cả từng suy gẫm

Ít khoảng tình riêng chẳng giãi bày

Ngấm đủ tinh hoa từ cuộc sống

Hương mùa kết đọng những vần hay

(Minh Thái)

 

5. Chiết tự khoán tâm

Lấy các chữ cái trong tựa đề làm âm đầu cho các từ thứ 4 (từ trung tâm) của mỗi câu thơ, ví dụ:

 

QUỐC BÌNH

 

Đây, miền Tổ Quốc thật là xinh
Hết cảnh âm U sẽ rạng hình
Dạ ngẫm đời Ôn vàn khó nhọc
Noi dòng trải Cuộc mấy quang vinh
Lùa xuân vút Bổng trời ân ái
Dỗ biển nằm Im gió tự tình
Để bữa trăng Ngời, khi nắng hửng
Mai này thỏa Hẹn ngõ bình minh

(Nguyễn Quốc Bình)

 

6. Tung hoành trục khoán

Dùng cặp câu đối làm chủ đề cho bài thơ. Các từ trong vế thứ nhất làm từ đầu tiên cho các câu thơ từ một đến bảy (trục tung), nguyên vế thứ hai đặt làm câu thứ tám (trục hoành), ví dụ:

 

NGÕ HẠ TÌNH XUÂN

 

“Hạ choán tình xuân dường ý vị

Xuân dòng ngõ hạ cháy tâm can”

 

NGÕ HẠ TÌNH XUÂN

 

Hạ vừa tãi nắng ửng nhành xoan
Choán nhẹ mùi hương gió cải làn
Tình đã mơ màng bung tóc chải
Xuân còn lưỡng lự vén sương đan
Dường tơ trổ phím dày cung bậc
Ý thẳm tầng không ngỡ giọt tràn
Vị ái dâng thành muôn xúc cảm
Xuân dòng ngõ hạ cháy tâm can

(Nguyễn Quốc Bình)

 

7. Điệp từ

Tất cả các câu đều có từ được lặp lại (điệp từ).

* Điệp từ ở vị trí bất kỳ trong mỗi câu, ví dụ:

 

CÓ LẼ NÀO

 

Có lẽ mình yêu, chả lẽ nào!

Như là nhớ vậy, nghĩa là sao?

Ngày xui gặp gỡ lòng xui thoả

Buổi trót tương tư dạ trót cào

Dõi đất, mơ nồng hương đất dậy

Nom trời, ước thoảng gió trời xao

Người thôi cách biệt tình thôi lỡ

Tựa sát vai nhau, quyện sát vào

(Nguyễn Quốc Bình)

* Điệp từ ở vị trí đầu và cuối mỗi câu, còn gọi là "Vận hồi đầu", ví dụ:

 

VỀ THĂM TRƯỜNG CŨ

 

Trường xưa trở lại, vắng sân trường
Hương cũ bông cài lạc dấu hương
Nắng mảng còn vương chiều dại nắng
Tường rêu đã phủ nét hoang tường
Nhớ tà áo mỏng chênh chao nhớ
Thương tóc vai gầy rộn rã thương
Trống lặng ru mình nghiêng giá trống
Đường ai vẩy mực... tím hoen đường

(Nguyễn Quốc Bình)

 

8. Điệp từ láy

Tất cả các câu đều có điệp từ láy, ví dụ:

 

QUA MIỀN TÂY BẮC

 

Chập chùng núi vẽ chập chùng sương
Lắt lẻo xuyên mây lắt lẻo đường
Vi vút khuông chiều vi vút thoảng
Dặt dìu quãng sáo dặt dìu vương
Vòng vo cảnh dẫn vòng vo tựa
Nắc nỏm tình khơi nắc nỏm dường
Văng vẳng ai cười văng vẳng tiếng
Ngạt ngào thả gió ngạt ngào hương!

(Nguyễn Quốc Bình)

 

9. Song điệp

Tất cả các câu đều có điệp từ kép, ví dụ:

 

BỒNG PHIÊU

 

Dập dập dìu dìu những gót phiêu

Mây mây gió gió ngả hương chiều

Nồng nồng dịu dịu trăng vừa nhú

Ngát ngát bừng bừng lửa đã thiêu

Mắt mắt môi môi nhoài xiết..., đủ

Ân ân ái ái ngoảnh xem..., nhiều

Khoan khoan nhặt nhặt so đều cữ

Bổng bổng trầm trầm, ấy cuộc yêu!

(Nguyễn Quốc Bình)

 

10. Lưỡng đầu xà

Một dạng đặc biệt của song điệp, cặp điệp từ ở vị trí đầu và cuối mỗi câu, cặp từ sau hoán đổi vị trí của cặp từ trước (ví như con rắn hai đầu), ví dụ:

 

HƯƠNG MÙA VÂY

 

Vây ngõ sông hồ lượn ngõ vây

Đầy hương ủ nhụy ngát hương đầy

Núi vờn quãng bổng tiêu vờn núi

Mây dạo cung trầm én dạo mây

Nhỏ bước ghìm âm dằn bước nhỏ

Gầy trăng dợn ảnh vỡ trăng gầy

Khẽ lùa cánh mỏng, tơ lùa khẽ

Cây ngả vai chiều... bóng ngả cây

(Nguyễn Quốc Bình)

 

11. Lưỡng đầu xà nghịch thiệt

Một dạng đặc biệt của song điệp, cặp điệp từ đứng ở đầu và cuối mỗi câu, cặp sau là cách nói lái của cặp trước (nghịch thiệt với nghĩa là trẹo lưỡi), ví dụ:

 

HƯƠNG ĐỒNG

 

Đông tràn, lũ quạ khép đàn trông
Vồng ngút triền đê cải vút ngồng
Đậm gió trai hiền quăng đó giậm
Nông cày nữ đảm nhắc này công
Vữa sương, lúa hẹn kỳ vương sữa
Chồng đất màu vun buổi chất đồng
Tắm thỏa hương đời khi tỏa thắm
Bông sờ nặng trĩu khoảnh bờ sông

(Nguyễn Quốc Bình)

 

12. Nói lái

Một dạng đặc biệt của song điệp, cặp điệp từ đứng ở bất kỳ vị trí nào trong câu, cặp sau là cách nói lái của cặp trước, ví dụ:

 

HƯƠNG MÙA

 

Lá trải hương chiều... trái lả say
Tở manh nắng sẫm mảnh tơ dày
Đông về ả lúa vê đồng quyện
Cánh xẻ anh chuồn xé cảnh lay
Nhằm đá vàng so đà nhắm buổi
Ngỡ cung bậc ruổi cũng ngơ chày
Bên thềm xoắn xỏa thêm bền ý
Tịnh lứa cau trầu lựa tính ngay!

(Nguyễn Quốc Bình)

 

13. Điệp ngữ

Tất cả các câu đều có cụm từ lặp lại.

* Nếu cụm từ gồm hai từ, gọi là "Nhị điệp", ví dụ:

 

LỐI VỀ CÓ NHAU

 

Nhé khổ đau này... giã khổ đau

Giòn tươi màu nắng lại tươi màu

Dâng nồng ý nguyện thơm nồng ý

Quệt thắm cau trầu đỏ thắm cau

Tấm lụa nõn phơi hoàn lụa nõn

Nguồn tơ nhàu chải hết tơ nhàu

Thôi đừng giận hỡi xin đừng giận

Hẹn có nhau về thuở có nhau

(Nguyễn Quốc Bình)

* Nếu cụm từ gồm ba từ, gọi là "Tam điệp", ví dụ:

 

CHO ĐỜI SẮC HƯƠNG

 

Một chút hờn ghen một chút hờn

Ngõ sầu đơn lạnh ngõ sầu đơn

Hồn thơ thẩn ngóng hồn thơ thẩn

Giấc chập chờn in giấc chập chờn

Ngăn bởi oán cừu ngăn bởi oán

Trải bằng ơn nghĩa trải bằng ơn

Tường câu đạo lý tường câu đạo

Chẳng úa sờn duyên chẳng úa sờn

(Nguyễn Quốc Bình)

 

14. Bát điệp

Tất cả các câu đều nhắc lại một từ, ví dụ:

 

XUÂN VĨNH TẠI

 

Xuân này góp nữa, bảy lăm xuân

Mải miết xuân qua những đỉnh trần

Phước phận duyên tuỳ xuân hảnh trí

Xuân ngùi dạ ái nộ bi phân

Dang tay tuổi dệt bừng xuân sáng

Điểm tóc xuân khai dõi tuế ngần

Trải suốt cung đường xuân vĩnh tại

Tâm bình đối diện ắt xuân ngân

(Nguyên Lê)

 

15. Bát điệp độc vận

Tất cả cá câu đều nhắc lại một từ, toàn bài dùng một từ vần, ví dụ:

 

XUÂN VÀ THƠ

 

Xuân tự ngàn xưa, bạn với Thơ

Tình Xuân là cả vạn lời Thơ

Ðẹp duyên hoa bút, Xuân ngời sắc

Rộn khúc Xuân thiều, nhạc ánh Thơ

Xuân vắng, oanh hờn, dầu dáng liễu

Xuân về hương tỏa ngát lời Thơ

Xuân nương, thi sĩ, đôi người ngọc

Dệt mộng ngày Xuân, lộng ý Thơ

(Lạc Nam)

 

16. Dĩ đề vi thủ

Lấy các từ của tựa đề làm từ mở đầu cho các câu thơ, ví dụ:

 

CHÍ CHẲNG CHỜ NGÀY, TÀI KHÔNG ĐỢI TUỔI

 

Chí hạnh dường thông, ắt tỏ mình

Chẳng vì mất được cõi tam sinh

Chờ thanh ý ngọc bền tay giũa

Ngày sáng bờ vui trải diễm tình

Tài đặng nhân bồi xua hắc ám

Không ghì, oán xả chói anh minh

Đợi, lay tiềm thức bừng ân điển

Tuổi hội tâm an, vững cước trình

(Nguyễn Quốc Bình)

 

17. Dĩ đề vi vận

Lấy cácc từ của đề ra làm vần của bài thơ, ví dụ: Không - Chồng - Trông - Bông - Lông

 

MUỐN LẤY CHỒNG

 

Bực gì bằng gái chực phòng không

Tơ tưởng vì chưng một tấm chồng

Trên gác rồng mây ngao ngán nhẽ

Bên trời cá nước ngẩn ngơ trông

Mua vui lắm lúc cười cười gượng

Giả dại nhiều khi nói nói bông

Mới biết có chồng như có cánh

Giang sơn gánh vác nhẹ bằng lông

(Nguyễn Khuyến)

 

18. Hoán vận

Có hai bộ vần được gieo ở các vị trí của chữ thứ năm và chữ thứ bảy của các câu thơ, khi hoán đổi vị trí hai chữ này thành ra hai bài có vần bằng và trắc khác nhau, ví dụ:

 

BIỂN NHỊP HÒA

 

Vần bằng:

 

Sóng biển dâng trào vũ điệu êm

Ngàn dương réo rắt phủ tơ mềm

Mưa khều ý nhạc hoa bừng trỗ

Nắng dẫn men đời nụ ngấm thêm

Vẳng gió tìm đôi quàng giữa bụi

Dềnh trăng vẽ nửa nhú bên thềm

Như vừa gội loáng tơ dòng chải

Lọn tóc sương hờ... giũ nhẹ đêm

 

Vần trắc:

 

Sóng biển dâng trào êm điệu vũ

Ngàn dương réo rắt mềm tơ phủ

Mưa khều ý nhạc trỗ bừng hoa

Nắng dẫn men đời thêm ngấm nụ

Vẳng gió tìm đôi, bụi giữa quàng

Dềnh trăng vẽ nửa, thềm bên nhú

Như vừa gội loáng chải dòng tơ

Lọn tóc sương hờ... đêm nhẹ giũ

(Nguyễn Quốc Bình)

 

19. Thuận nghịch độc

Lối thơ này xuất phát từ "Hồi văn thi" tức là đọc xuôi hay đọc ngược thì câu thơ, bài thơ đều có nghĩa. Có nhiều dạng thuận nghịch độc như:

* Đọc ngược từ cuối bài lên, thành ra một bài thơ khác cùng vần (bằng hoặc trắc), ví dụ:

 

EM VÀ XUÂN

Thuận:

 

Em cười tiếng bổng vút triền xuân

Ngọt đẫm kìa môi ửng sắc ngần

Rèm tóc chải mây hàng liễu gợn

Mắt hồ in ngọc phím chiều ngân

Xem vừa ý nguyện khơi vàng đá

Tỏ sẵn nguồn duyên định số phần

Kèm phấn nhụy xinh vườn trĩu nở

Em chào nắng nhỉ, thế là xuân!

 
Nghịch:


Xuân là thế nhỉ, nắng chào em

Nở trĩu vườn xinh nhụy phấn kèm

Phần số định duyên nguồn sẵn tỏ

Đá vàng khơi nguyện ý vừa xem

Ngân chiều phím ngọc in hồ mắt

Gợn liễu hàng mây chải tóc rèm

Ngần sắc ửng môi kìa đẫm ngọt

Xuân triền vút bổng tiếng cười em

(Nguyễn Quốc Bình)

* Đọc ngược từ cuối bài lên, thành ra một bài thơ khác đối vần (từ bằng sang trắc hoặc ngược lại), ví dụ:

 

ÁNH TRĂNG THƠ

 

Thuận:

 

Trống nhịp dâng ngời mắt trẻ thơ
Đèn sao rợp ánh thỏa mong chờ
Ngổng đầu, Lân chớp như dè dặt
Xoay gót, Địa nhường ấy vẩn vơ
Lộng sáng kìa trăng vành đĩa tỏa
Lười chây rõ Cuội bóng đa nhờ
Vống lời ngân điệu, dinh tùng gõ
Mộng ước giăng nào, tuổi kết nơ!

 

Nghịch: 

 
Nơ kết tuổi nào giăng ước mộng
Gõ tùng dinh điệu, ngân lời vống
Nhờ đa, bóng Cuội rõ chây lười
Tỏa đĩa vành trăng kìa sáng lộng
Vơ vẩn ấy nhường, Địa gót xoay
Dặt dè như chớp, Lân đầu ngổng
Chờ mong thỏa ánh rợp sao đèn
Thơ trẻ mắt ngời dâng nhịp trống

(Nguyễn Quốc Bình)

* Đọc ngược từ cuối bài lên, vẫn ra bài thơ y hệt, ví dụ:

 

THUỞ HOA NIÊN

 

Thương người áo nhẹ giũ mùa hương

Thả gót chiều quen bạn vắng trường

Tường bám mảng rêu ùn gió chạnh

Lá viền khung cảnh lắng hồn vương

Vương hồn lắng cảnh, khung viền lá

Chạnh gió ùn rêu, mảng bám tường

Trường vắng bạn quen chiều gót thả

Hương mùa giũ nhẹ áo người thương

(Nguyễn Quốc Bình)

* Đọc ngược từ cuối mỗi câu lại, thành ra một bài thơ khác, ví dụ:

 

TRĂNG CHIỀU

 

Thuận:

 

Sóng dạo thuyền lay ráng đỏ chiều
Võng gài tơ nắng thả hồn phiêu
Dồn loang ngấn bọt tầng cao thấp
Đọng sũng diềm mây chỏm ít nhiều
Thưa nhánh cỏ xòe phơ phất nhạn
Mỏng làn sương ngút dật dờ tiêu
Hòa giao ánh mộng trời riêng ngỡ
Bóng nguyệt kề non vách xoải diều

 

Nghịch:
Chiều đỏ ráng lay thuyền dạo sóng
Phiêu hồn thả nắng tơ gài võng
Thấp cao tầng bọt ngấn loang dồn
Nhiều ít chỏm mây diềm sũng đọng
Nhạn phất phơ xòe cỏ nhánh thưa
Tiêu dờ dật ngút sương làn mỏng
Ngỡ riêng trời mộng ánh giao hòa
Diều xoải vách non kề nguyệt bóng

(Nguyễn Quốc Bình)

* Đọc ngược từ cuối mỗi câu lại, vẫn ra bài thơ y hệt, ví dụ:

 

LỜI THƯƠNG BÊN CÁNH VÕNG

 

Mỏng tiếng ru hời ru... tiếng mỏng!

Võng thưa đều nhịp đều thưa võng

Ươm dày cội nghĩa cội dày ươm

Đọng thắm chồi ân chồi thắm đọng

Lời vẳng bước con bước vẳng lời

Bóng vươn tình mẹ tình vươn bóng

Quang trời hẹn ước hẹn trời quang

Mọng trĩu làn hương, làn trĩu mọng

(Nguyễn Quốc Bình)

 

20. Liên hoàn

Bài thơ gồm nhiều đoạn, câu cuối của đoạn trên được chuyển thành câu đầu của đoạn dưới, ví dụ:

 

THI LẤY ĐƯỢC

 

Anh Phán nhà ta biết cóc gì

Kỳ thi Tham biện cũng ra thi

Nhất thì anh đỗ, nhì anh trượt

Chẳng đậu khoa này, khoa khác đi

 

Chẳng đậu khoa này, khoa khác đi

Nam nhi chi chí, há lo gì

Một, hai, ba, bốn, năm năm trượt

Nhẵn mặt quan trường, chẳng thẹn chi

 

Nhẵn mặt quan trường, chẳng thẹn chi

Trượt thi, thi trượt, vẫn gan lì...

(Tú Mỡ)

 

21. Liên hoàn thuận nghịch vận

Lối thơ liên hoàn như trên, nhưng bài sau sắp xếp ngược vần với bài trước (nếu câu cuối bài sau lặp lại cầu đầu của bài trước, còn được gọi là “Thủ vỹ tương lân”), ví dụ:

 

VẾT THƯƠNG CỦA CHA

 

Rồi cha giã biệt mái tranh nghèo

Lý tưởng soi đàng dẫn bước theo

Hỏa tuyến vùi canh màn pháo rộ

Biên khu ngẩng mặt ánh châu vèo

Quân hành những lúc mồ hôi tủa

Chiến đấu bao lần máu thịt gieo

Giữ trọn niềm tin ngày đại thắng

Và, trong một trận vết thương đèo

 

Và trong một trận vết thương đèo

Khúc nhạc sa trường bỏ nốt gieo

Cuộc sống gia đình, tay trụ vững

Guồng quay xã hội, chí thông vèo

Sinh thời quyết ý không dừng lại

Tử hạn xem chừng mãi bám theo

Phút cuối đành quên lời nhắn gửi

Rồi cha giã biệt mái tranh nghèo...

(Nguyễn Quốc Bình)

 

22. Ô thước kiều

Lối thơ liên hoàn như trên, nhưng chỉ lấy hai từ cuối, hoặc nhắc lại hai, ba từ nào đó ở câu cuối của bài trên để mở đầu cho câu đầu của bài dưới, ví dụ:

 

CHỐNG TÔN THỌ TƯỜNG

 

Lung lay lòng sắt đã mang nhơ

Chẳng xét phận mình khéo nói vơ

Người trí mang lo danh chẳng chói

Ðứa ngu luống sợ tuổi không chờ

Bài hòa đã sẵn in tay thợ

Cuộc đánh hơn thua giống nước cờ

Chưa trả thù nhà,đền nợ nước

Dám đâu mắt lấp với tai ngơ

 

Tai ngơ sao đặng lúc tan tành

Luống biết trách người, chẳng trách mình

Ðến thế còn khoe đàng đạo nghĩa

Như vầy cũng gọi kẻ trâm anh

Biển khơi vụng tính dung thuyền nhỏ

Chuông nặng to gan buộc chỉ mành

Thân có,ắt danh tua phải có

Khuyên người ái trọng cái thân danh

 

Thân danh chẳng kể, thật thằng hoang

Ðốt sáp nên tro lụy chẳng màng

Hai cửa trâm anh xô sấp ngửa

Một nhà danh giá xóa tan hoang

Con buôn khấp khởi chưa từng ngọc

Người khó xăng xăng mới gặp vàng

Thương kẻ đòng văn nên phải nhắc

Dễ đâu ta dám tiếng khoe khoang

(Phan Văn Trị)

 

23. Toán thi

Mỗi câu đều có từ chỉ con số, ví dụ:

 

BÓI SỐ

 

Ruột rối bòng bong, một lá thuyền

Ngổn ngang trăm mối vẫn y nguyên

Người đi nghìn dặm còn thêm nhớ

Kẻ ở muôn năm vẫn lẻ duyên

Mớ hoảng, có kêu thời cũng hão

Ức thầm, dẫu khóc chỉ thêm huyền

Vạn người, ai kẻ chung tâm sự

Hãy triệu giùm tôi chú đỗ quyên

(Bùi Tiến)


24. Tập danh * Mỗi câu có danh từ gắn với đề tài, ví dụ:

 

MỪNG ÔNG LÃO HÀNG THỊT THƯỢNG THỌ

 

Nay tiết mừng ông mới Bảy mươi,

Cổ hy (1) chưa dễ mấy lăm người

Răng long nhưng hãy còn tinh mắt

Ðầu bạc nhưng mà chửa tắc tai

Bè bạn bày vai kèo chén Lý (2)

Cháu con dưới gối múa sân Lai (3)

Xưa nay vẫn giữ lòng chân thực

Chữ đức giả xương máu để đời

(Nguyễn Khuyến)

Chú thích

(1) Ý từ câu "nhân sinh thất thập cổ lai hy"

(2) Lý Bạch, nhà thơ thời Nhà Đường, nổi tiếng uống rượu làm thơ

(3) Lão Lai, người nước Sở đời Xuân Thu, tuổi đã ngoài bảy mươi còn cha mẹ, giả cách khóc như trẻ con để làm cho cha mẹ vui

* Mỗi câu thơ có từ chỉ bộ phận trong thân thể con người, ví dụ:

 

HỌC TRÒ

 

Dài lưng tốn vải lại ăn no

Nghĩ ngán cho thân phận học trò

Thù nước, thù vua, ngay mặt chịu

Công sưu, công ích, cắm đầu lo

Vẫn giương mắt ếch mà ra quáng

Còn ngậm lông mèo (1) chả sợ ho

Nói đến chuyện đời tai điếc đặc

Rung đùi, chỉ nghĩ "tám đùi" (2) to

(Nhì Mỹ)

Chú thích

(1) Ngậm lông mèo: ngậm bút lông

(2) Tám đùi: văn xưa gọi là "bát cổ" dịch là tám vế, vế (bắp) đồng nghĩa với đùi.

* Mỗi câu nào có cụm từ là thành ngữ, tên tác phẩm, sự kiện gắn với đề tài..., ví dụ:

 

TÌNH ANH LÍNH CHIẾN

 

“Đám cưới đầu xuân” tỏ rạng ngời

“Ngày tròn tuổi lính” mộng trăng khơi

“Bài ca kỷ niệm” vầng dương hé

“Nhận diện thời gian” ánh hỏa mời

“Bóng nhỏ đường chiều” vương ái ngại

“Đêm dài chiến tuyến” nhớ chơi vơi

"Lời tình viết vội” tràng hoa kết

“Mộng ước mai sau” sánh tuyệt vời

(Nguyễn Quốc Bình)

 

25. Tính danh Câu nào cũng có từ chỉ nhân danh hay địa danh. Giống như Ðiển thi, câu nào cũng dẫn một điển tích, ví dụ:

 

LỖI THỀ

 

Vùi oan bạc mệnh sóng Tiền Ðường (1)

Ngọn đuốc Chiêm Thành (2) rở nhớ thương

Chắp cánh đẹp gì câu Thất Tịch (3)

Ôm cầm say mãi gái Tầm Dương (4)

Lỗi thề Chung Tử (5) sầu tri kỷ

Hoen mái Tây hiên (6) lệ đoạn trường

Hồ Hán (7) ngậm ngùi mây cách biệt

Ngân Hà (8) mưa gió nẻo cầu sương.

(Toại Khang)

 

Chú thích

(1) Kiều trầm mình ở sông Tiền Ðường

(2) Công chúa Huyền Trân phải sang lấy vua Chiêm Thành

(3) Ðường Minh Hoàng - Dương Quý Phi đêm Mồng Bảy tháng Bảy âm lịch (Thất Tịch) thề cùng nhau "sống làm vợ chồng chết là chim liền cánh cây liền cành"

(4) Bạch Cư Dị, văn hào đời Ðường, đêm đậu thuyền ở sông Tầm làm bài Tỳ Bà Hành cho ca nữ hát

(5) Chung Tử Kỳ - Bá Nha là hai người bạn tri âm. Bá Nha gảy đàn, Tử Kỳ biết Bá Nha nghĩ gì. Tử Kỳ chết, Bá Nha đập đàn đi, không gảy nữa

(6) Trương Quân Thụy - Thôi Oanh Oanh tình tự dưới mái Tây hiên

(7) Chiêu Quân nhà Hán sang cống Hồ

(8) Ngưu Lang - Chức Nữ đứng hai bên sông Ngân Hà nhớ nhau khóc thành mưa ngâu trong tháng Bảy âm lịch.

 

26. Sắc thái Câu nào cũng có từ chỉ màu sắc, ví dụ:

 

CHIỀU NỔI MÀU THU

 

Trời thu bóng ác rực mầu vang

Trườn trượt vào lưng dặng núi vàng

Cánh nhạn chiều tà sương lót trắng

Chòm mây mưa nhạt khói mờ lam

Lầu thu thoát nắng nâng rèm tía

Vườn vắng còn đây nở đóa vàng

Nếu chẳng vương tìm hoa súng tím

Thì đâu được ngắm nguyệt da cam

(Toại Khang)

 

27. Thủ vỹ ngâm * Câu đầu và câu cuối lặp lại giống nhau, ví dụ:

 

KHẼ BƯỚC XUÂN VỀ

 

Dỗ bước ngang thềm, ấy hẳn xuân?

Mùi hương dịu khoác vẻ tươi nhuần

Khơi đà mạch ấm, càn khôn chuyển

Gỡ mảnh sương già, tuế nguyệt luân

Trắng cúc, vườn khoe màu giản dị

Vàng mai, ngõ nhuộm nét đơn thuần

Như ngầm ước định, muôn loài trỗi

Dỗ bước ngang thềm, ấy hẳn xuân!

(Nguyễn Quốc Bình)

* Một dạng biến tấu, câu cuối lặp lại câu đầu nhưng không hoàn toàn, ví dụ:

 

BÀN TAY TẠO HÓA

 

Tạo hóa vươn tay điểm địa cầu

Vo tròn, bóp dẹt, bấm nông sâu

Sơ khai chốn chốn chìm mông muội

Khởi tiếp nơi nơi bật mỡ màu

Định sẵn hai phương liền một trục

Phân rành bốn biển rõ năm châu

Khi nào ngán cảnh đời xâu xé

Tạo hóa buông tay... thả địa cầu

(Nguyễn Quốc Bình)

 

28. Áp cú

* Dùng từ cuối của câu trên làm từ mở đầu cho câu dưới, ví dụ:

 

NGÀY VỀ

 

Dụi mắt bao lần mỏi ngóng quê
Quê hương hẹn buổi đón ta về
Về giang nắng sậm hai đầu gánh
Gánh rực tơ mềm nửa quãng đê
Đê vút tầng âm truyền luống cải
Cải giăng ánh mật nhắc câu thề
Thề trao nguyện ước sau mùa gặt
Gặt những ân tình... giấc nửa mê

(Nguyễn Quốc Bình)

* Nếu sử dụng từ vần của câu thứ tám làm từ mở của câu thứ nhất thì được gọi là "Tuần hoàn bất tận thi", ví dụ:

 

TRÊN CÁNH ĐỒNG CHIỀU

 

Đồng ươm nắng tỏa vút tia hồng

Hồng ửng môi cười lấp lóa đông

Đông gỡ mành sương, tròn vị giá

Giá tan, rặng cỏ đẫy hương nồng

Nồng nàn thảm lúa khơi mùa rộn

Rộn rã tay liềm thỏa giấc trông

Trông ánh tương lai hòa nhịp trẻ

Trẻ thơ tiếp giọng hát vang đồng

(Nguyễn Quốc Bình)

 

29. Triệt hạ (tiệt hạ) Từ cuối của mỗi câu thơ để lửng làm cho câu thơ chưa trọn nghĩa (câu thơ chưa trọn nghĩa chứ không phải là tự ý ngắt các từ ghép, từ láy), nhưng người đọc vẫn có thể hiểu hoặc có thể thêm vào những phương án của riêng mình, ví dụ:

 

PHỤ NỮ TÂN THỜI

 

Phụ nữ ngày nay thỏa chí Bà...
Gia đình, xã hội gánh đều ra...
Này vai nội trợ rằng luôn cứ...
Nọ bước công du hẳn sẽ là...
Tiếp sử oai hùng, voi mượn đỡ...
Soi bầu nhuệ trí, rượu tìm pha...
Tề gia trị quốc dường như thể...
Viết trọn vần thơ ngẫm để mà...

(Nguyễn Quốc Bình)

 

30. Vấn nghi Mỗi câu đều mang ý câu hỏi (có thể kết hợp với lối triệt hạ để tạo ra câu hỏi bỏ lửng), ví dụ:

 

CÓ VỌNG SANG MÙA?

 

Rạng rỡ mi ngời em có phải ...?

Hồn say luyến nhớ rồi hay tại ...?

Mơ lời cột thắm, chỉ nào đang ...?

Hỏi ý thêu nồng, duyên nọ mãi ...?

Có đặng niềm thương để trỗ làn ...?

Và lay dấu nguyện cho hừng trái ...?

Muôn dòng nhắn nhủ đã tìm gieo ...?

Quyện với hương ngàn, hoa sẽ trải ...?!

(Nguyễn Quốc Bình)

 

31. Hỏi đáp Lần lượt các câu thơ là câu hỏi và câu trả lời (có thể kết hợp với lối triệt hạ để tạo ra câu đáp bỏ lửng), ví dụ:

 

NGỌC HOÀNG HỎI, TÁO TRẢ LỜI

 

Năm rồi chính sự có gì hay?
Khởi tấu: Trần gian nhất thể này...
Đốt củi hô hào dân phục chứ?
Chơi đòn lấp liếm bạn gờm thay...
Vì sao lợi ích hòng phân mảng?
Cũng bởi tài danh xúi ngập mày...
Đổi mới khâu nào cho hữu hiệu?
Ngọc Hoàng biết tỏng ấy xưa nay...

(Nguyễn Quốc Bình) 

 

32. Yết hậu Các câu trên đều đủ từ cả, riêng câu cuối cùng chỉ có một từ (theo vần của bài thơ),

THỎA GIẤC YÊU

 

Ai lùa vạt nắng hương nồng thở

Ai chuốt ngàn mây chiều rực rỡ

Ai thả hôn hoàng gội tím thêm...

Nhớ!

 

Nhớ cuộn theo dòng, gió mở xem

Nhớ so phím dạ trỗi thương kèm

Nhớ quay quắt hỏi đâu hình bóng

Em?

 

Em giờ đẫm lạnh màn sương hé

Em khoác mòn canh, hài cỏ nhẹ

Em lẫn muôn trùng tiếng vọng ru

Khẽ!

 

Khẽ giọt trăng ngà tỏa sắc phiêu

Khẽ như giấc điệp loáng tơ chiều

Khẽ mùi dịu ngát, mong chờ thỏa

Yêu!

(Nguyễn Quốc Bình)

 

33. Vỹ tam thanh

Ba từ cuối trong mỗi câu có cùng cách phát âm (giống hệt nhau về âm, vần nhưng khác thanh dấu), ví dụ:

 

MÀU TIỄN BIỆT

 

Cung rền nhạc tiễn vẻ vè ve
Phổ lẫn màu hoa chóe chọe chòe
Bút gượng đôi vần cun củn cũn
Tay nhoài, bốn mắt hỏe hòe hoe
Dàn phông kỷ yếu tùm tum tụm
Chớp ảnh thời gian xóe xọe xòe
Biệt giã khung trời ngân ngấn ngẩn
Nghiêng mùa, vỡ giọt tóe tòe toe

(Nguyễn Quốc Bình) 

34. Liên thanh

Các từ cùng âm bằng hoặc trắc liền nhau trong câu thơ mang cùng thanh dấu, ví dụ: 

VINH QUANG VIỆT NAM

 

Tháng Chín thu sang phất phới cờ
Đèn vàng thảm đỏ tưởng như mơ
Non sông vạn chặng kia mây gió
Gấm vóc hai phương ấy bến bờ
Hỡi những đoàn người vùi tuổi trẻ
Này từng khúc hát nhắn con thơ
Hoa đơm thẫm ngõ chưa khô lệ
Đất nước vinh quang đếm ý chờ

(Minh Thái)

 

35. Trốn vận Câu thơ đầu tiên không tuân theo vần của toàn bài (chẳng hạn đang bằng đổi ra trắc). Bài thơ theo lối Tứ tuyệt chỉ còn hai vần, theo lối Bát cú chỉ còn bốn vần. Nếu là bài thơ Bát cú, phải đảm bảo ba cặp đối gồm cặp đề, cặp thực và cặp luận, ví dụ:

 

CHIỀU NGANG XÓM CŨ

 

Đạp nước, con chuồn lay ngấn ảnh

So diều, cánh nhạn vỗ tầng không

Mùi hăng gió quẩn đầy tia mắt

Vị ngát chân in nửa quãng đồng

Trước sảnh cau già thưa nụ trỗ

Bên rào chuối kẹ vắng người trông

Vầng trăng lấp ló chiều quen dội

Ánh quyện hình xưa bếp lửa hồng

(Nguyễn Quốc Bình)

 

36. Xa luân ngũ bộ Chùm thơ gồm năm bài theo một chủ đề xuyên suốt. Các câu có vần (hoặc từ vần) của bài đầu tiên sẽ lần lượt là các câu phá đề (hoặc từ vần cho câu phá đề) của các bài lần lượt từ trên xuống dưới, các vần khác cứ theo trật tự mà luân chuyển. Có thể coi các bài là một chùm xướng họa mà bộ vần được chuyển tuần tự như bánh xe quay tròn (xa luân).

* Sử dụng các câu có vần lần lượt làm các câu phá đề của mỗi bài, ví dụ:

 

TẢO MỘ

 

Hoa hồng đặt trước mộ phần đây

Dịp lễ Vu Lan ghé chốn này

Gió chướng ào ào tung cát bụi

Mưa phùn rả rích phủ trời mây

Kia mâm lễ mọn xem vừa thiếu

Nọ bó nhang thơm xếp tạm đầy

Thổn thức dâng trào mi nhuốm lệ

Nghẹn ngào nhớ mẹ nỗi buồn vây

 

Dịp lễ Vu Lan ghé chốn này

Sương chiều quạnh quẽ tỏa như mây

Hương trầm kẻ đốt bay lan nhẹ

Hoa cỏ người di ngã giập đầy

Đứng tạm bên mồ lưng gập xá

Quỳ gần sát bệ gối chùn vây

Đôi lời khấn đượm yêu, thương, nhớ

Nghĩa nặng thâm tình bỏ lại đây

 

Mưa phùn rả rích phủ trời mây

Ráng đỏ còn vương vệt trải đầy

Ngập kín đường mòn rêu bủa chặt

Che hờ ngõ tắt đá chèn vây

Chuông chùa điểm tới giờ quyên nọ

Tiếng mõ đưa về giấc nguyện đây

Nấm đất sè sè bia vẩn bụi

Mờ đi ít chữ cảm thương này

 

Nọ bó nhang thơm xếp tạm đầy

Côn trùng não nuột nhỏ to vây

Nghe lòng tĩnh mịch cung trầm đó

Vọng tiếng u hoài vực thẳm đây

Nhạt nhẽo ban mai dời nắng ấy

Đìu hiu bóng tối ngợp tim này

Khuỵu chân bái lạy hoài thân mẫu

Tím cả dương tà, lẫn sắc mây

 

Nghẹn ngào nhớ mẹ nỗi buồn vây

Giã biệt nhưng tình nặng trĩu đây

Luyến tiếc chi thêm, đành ngoảnh vậy

Kêu than chẳng đủ, phải quay này

Ngàn thu vĩnh biệt rưng rưng mắt

Vạn thuở chia lìa héo hắt mây

Mảnh nhỏ vành tang cài ngực áo

Hình như cũng khóc tủi dâng đầy

(Cẩn Vũ)

* Sử dụng từ vần lần lượt trong các câu phá đề của mỗi bài, ví dụ:

 

MÀU TÍM HOA SIM

Miền quê vẫn rạng sắc hương lành

Dẫu cuộc điêu tàn khởi chiến tranh

Thắm nghĩa đôi lòng mơ sánh vẹn

Bền duyên một ngả ước xây thành

Hoa cài áo đẹp chiều mây hửng

Nhụy ướp tim ngời buổi nắng thanh

Bước hẹn, trai hùng băng lửa khói

Thuyền quyên nén dạ đẫm tơ mành

  

Súng dậy lan tràn buổi đấu tranh

Người đi biệt nẻo ước chưa thành

Giăng đầy mắt thẫn khơi hình nhỏ

Đọng trĩu tim ngùi gửi dáng thanh

Mỗi lúc băng đồi sim ngút khoảng

Từng phen thọc cứ lửa toang mành

Thương nàng vẫn đợi hoa màu tím

Nhẹ ngắt đài xinh gửi mộng lành...

  

Tình sâu ngõ hẹn khắc ghi thành

Vẹn gửi trăng ngà dõi bóng thanh

Pháo dội, đời trai quàng hỏa tuyến

Đèn khêu, phận nữ ủ sương mành

Đan ngày thắm mộng hoa ngời tỏ

Kết thuở nồng ân trái đượm lành

Nỗi nhớ dài theo hồi chiến cuộc

Ai làm cách biệt ngả phân tranh...

  

Sấm chợt rung trời giữa buổi thanh

Người em gục chết, tủi giăng mành

Chưa bừng luyến ái nồng mơ thoả

Vội giã tình duyên úa mộng lành

Nẻo cũ phòng côi chìm ngóng đợi

Phương này bước lẻ gối giao tranh

Dòng va sóng dập thuyền tan vỡ

Đã hết từ đây ước nguyện thành

  

Làn sương nhẹ quẩn hắt hiu mành

Dấu cũ hoài ghi ước nguyện lành

Những tưởng vầy sum miền ái hợp

Đâu ngờ biệt cách ngả tương tranh

Niềm thương, ký ức hằn cung ngỏ

Nỗi nhớ, hành trang kết giọt thành

Bóng ngả chiều hoang biền biệt tím

Hương lòng một dải vấn trời thanh

(Nguyễn Quốc Bình)

 

37. Lộc lư ngũ bộ Chùm thơ gồm năm bài theo một chủ đề xuyên suốt. Một câu có vần dùng làm chủ đề lần lượt được đặt làm câu phá đề của bài thứ nhất rồi chuyển xuống lần lượt làm câu thừa đề của bài thứ hai, các câu có vần trong cặp thực, luận, kết của các bài tiếp theo, các vần khác cứ theo trật tự mà đẩy lên nhường chỗ cho câu chủ đề. Có thể coi các bài là một chùm xướng họa mà câu chủ đề được di chuyển tuần tự qua các vị trí như trục bánh xe tịnh tiến (có ý kiến cho rằng “lộc lư” là cách đọc khác của từ “lộc lô” tức là con lăn). Trong cách viết hiện nay, rất ít người sử dụng nguyên bộ vần mà dùng riêng bộ vần cho mỗi bài (nhưng không được trùng nhau, trừ câu chủ đề)

* Sử dụng nguyên bộ vần cho tất cả các bài, ví dụ:

 

NGÁT NHỤY XUÂN ĐỜI

 

Nhụy dỡ hương nồng ửng sắc lay

Rồi trưng áo diện, ngõ xuân bày

Trong miền sự tích bao hồi chuyển

Giữa nẻo nhân tình mấy cuộc thay

Đủ những niềm tin bền thấm hạnh

Đầy muôn ý tưởng vững khơi ngày

Vươn tầm lỗi lạc căng bầu huyết

Rượu cũng châm rồi, để chuốc say

 

Vầng dương đã khởi, nét tươi bày

Nhụy dỡ hương nồng ửng sắc lay

Én xoải tầng mây dòng thực lãng

Sương viền rặng núi ảnh trần thay

Hòa con nước dẫn bồi vun mạch

Vỗ nhịp đời reo, tiếp chuyển ngày

Lại sẵn huyền cơ... nguồn ấp ủ

Đây vuờn bướm lượn, dõi mà say

 

Đẫm quyện vào nhau phút tỏ bày

Tơ choàng ánh lụa ngỡ vừa thay

Đàn lên quãng nhộn trào cung ví

Nhụy dỡ hương nồng ửng sắc lay

Tuổi cũ về giăng triền suối ngọc

Đường xưa giữ lại dấu chân ngày

Đan vùng niệm ức, rồi khai mở

Thẫm ngả khung trời nhấp vị say

 

Lời thương ướp mật hãy phô bày

Lẽ tạnh cơn mù, nắng hửng thay

Dệt khúc thề trao đừng nhỡ buổi

Dành tia mộng gửi ắt vương ngày

Ong khều noãn dịu quơ vòi hứng

Nhụy dỡ hương nồng ửng sắc lay

Biếc nụ tầm xuân dường trẻ mãi

Thêu tràn giọt mắt, ngẩn hồn say

 

Thỏa Tết, ngàn hoa diễm tuyệt bày

Tô vườn nguyện ước mảng màu thay

Mừng nây cội nghĩa rồi thơm quả

Chúc đẹp phần duyên sẽ tỏ ngày

Đỏ pháo hiên bừng xem vẫn thẹn

Hây đào má ruộm ngẫm còn say

Trần gian tặng cả mùa phơ phới

Nhụy dỡ hương nồng ửng sắc lay

(Nguyễn Quốc Bình)

* Sử dụng riêng bộ vần cho từng bài (trừ câu chủ đề), ví dụ:

 

THẮM NẺO XUÂN QUA

 

Lắng giọt xuân tình mỗi nẻo qua

Bình minh lợp ánh đẩy dương tà

Theo làn gió chuyển vơi ngày cũ

Lẫn vệt mây cài thoảng bóng xa

Kẻ dõi mùa vui hồn ngát đượm

Người in nỗi vọng mắt rưng nhòa

Sum vầy, lệ trút phen mừng tủi

Thấm tuổi so cùng những điệu ca

  

Rồi nghe đợt pháo tưởng như là

Lắng giọt xuân tình mỗi nẻo qua

Phía ngõ bàn chân dường lạ nhỉ

Đằng hiên nét thở rõ quen mà

Xuôi dòng lãng bạt, chưa kề bến

Trở quãng phiêu bồng lại réo ta

Đẫm cả chùm thơ nồng sắc gợi

Kìa em, mấy thuở vẫn không già

  

Lạnh lẽo, ai còn buốt mảnh da

Về đây dệt nắng, hửng quê nhà

Dâng hồn, nhạc ý muôn lời phổ

Lắng giọt xuân tình mỗi nẻo qua

Để dõi tường vy bừng má ngọc

Rồi vin thạch thảo sánh mi ngà

Tơ hồng đã rải trên nhành biếc

Ủ chắt men lòng, rượu nghĩa pha

 

Vờn giăng nhịp én gửi thay quà

Nhánh lộc reo hùa, cũng mở ra

Đủ nhớ lùa canh hằng giữ buộc

Vừa thương, hé buổi sẽ tuôn òa

Khơi nguồn diệu ái bao triền tỏ

Lắng giọt xuân tình mỗi nẻo qua

Gỡ mảnh thời gian đằm vị ướp

Thầm mơ vạt áo điểm bông cà

  

Nhẹ bẫng tia chiều dạo phố hoa

Trần gian miết mải dẫu theo đà

Ngang thềm trổ cúc lay hình mẹ

Kế sảnh bung đào ngỡ giọng cha

Lửa giữ đều tay... rền cặp bánh

Nhài nêm phải cánh... đậm ly trà

Giao thừa rộn rã hương lừng trải

Lắng giọt xuân tình mỗi nẻo qua!

(Nguyễn Quốc Bình)

 

38. Phú đắc Giải thích và phát triển ý của một câu thơ hay ca dao hay, tục ngữ bằng một bài thơ, nội dung phải phù hợp với sự việc đó, ví dụ:

  
GIÀ CÒN MUỐN LẤY CHỒNG

 

“Bà già đã bảy mươi tư

Ngồi trong cửa sổ gửi thư kén chồng”

  
Đã trót sinh ra kiếp má đào,

Bảy mươi tư tuổi có là bao?

Xuân xanh xấp xỉ hàng răng rụng

Ngày vắng ân cần mảnh giấy trao

Chữ nhất nhi chung đành đã vậy

Câu tam bất hiếu nữa làm sao

May mà lấy được ông chồng trẻ

Họa có sinh ra được chút nào?

(Nguyễn Khuyến)

 

39. Cô nhạn nhập/xuất quần Câu thơ đầu hoặc câu thơ cuối có vần khác với những vần còn lại (ví như con chim nhạn lẻ loi nhập vào đàn hay tách khỏi đàn), do những từ cùng vần không đủ sức diễn tả ý thơ mà lại không muốn thay đổi bộ vần. Tuy khác cước vận nhưng khéo léo kết hợp với eo vận của câu thơ liền kề để tạo ra sự nhịp nhàng về âm điệu và tiết tấu.

* Cô nhạn nhập quần, ví dụ:

 

CHUYẾN ĐÒ TÌNH

 

Thuở ấy chung về một bến sông
Làm quen, bước sải trống tim dồn
Ưng thầm đó vẻ cong nhành liễu
Hỏi khẽ đâu nhà, ngược phía thôn
Nụ mắt hồ xao thành sóng gợn
Bờ vai tóc thả... đoán hương tồn
Khi nào rượu nghĩa môi kề nhỉ?
Bẽn lẽn em rằng: phút hợp hôn!

(Nguyễn Quốc Bình)

 

* Cô nhạn xuất quần, ví dụ:

 

HOÀNG HÔN NHỚ

 

Buông dài vệt nắng cửa hoàng hôn

Lữ khách về ngang bước mỏi dồn

Gió trở, đông gầy hoe cuộng lá

Sương đùn cỏ úa sậm triền thôn

Thời gian chẳng thốt mà đi biệt

Kỷ niệm hằng ghi cũng để tồn

Vén mảnh lam chiều tay gợn khẽ

Gom đầy sợi nhớ kẻ nhoài trông!

(Nguyễn Quốc Bình)

 

40. Chơi chữ Thể thơ chơi chữ rất phong phú và đa dạng, chỉ xin liệt kê ra đây vài bài mẫu:

* Chơi theo chữ cái, ví dụ:

 

MUỐN QUY THUYỀN

  
A (a) di đà Phật muốn quy thuyền

B (bê) bết lòng tham hãy cứ nguyên

C (xê) xích cho gần nơi cửa tịnh

Đ (đê) đầu nguyện dứt mối trần duyên

(Thảo Am)

  
* Chơi theo thanh dấu, ví dụ:

 

(KHÔNG RÕ TỰA)

   
Huyền diệu trông lên cửa đạo thuyền

Sắc không khôn rõ thấu căn nguyên

Nặng nề nghiệp chướng e chưa hết

Hỏi mấy ai đà có thiện duyên

(Thảo Am)

 

(Tổng hợp và biên soạn)

BAN QUẢN TRỊ XƯỚNG HỌA ĐƯỜNG THI

Trước đây, mọi người đều cho rằng Quách Tấn là nhà thơ lớn cuối cùng của Đường Luật Thi. Có thể đúng mà cũng có thể sai. Những tưởng thơ Đường Luật sẽ lụn tàn theo Quách Tấn. Nhưng thực tế, Thơ Đường Luật phát triển khá mạnh, các thế hệ 30 - 40 tuổi cũng tìm tòi học hỏi và gia nhập các thi đàn Đường Luật Thi. Không chỉ sáng tác, các Thi nhân ngày nay còn cho ra rất nhiều biến dạng hay, mới lạ.

Chúng ta cùng nhau tìm hiểu Các Dạng Của Thơ Đường Luật trước đây và ngày nay.

***

Theo Thầy Dương Quảng Hàm, thơ Đường Luật có 8 dạng chính thức vừa của Tàu vừa của Việt Nam. Có lẽ vì thế mà 8 dạng này rất quen thuộc với giới làm thơ Đường Luật. 

1- Thủ Vỹ Ngâm

Dạng thơ này có câu đầu cũng là câu cuối.


                Tết

Anh em đừng nghĩ tết tôi nghèo 
Tiền bạc trong kho chửa lĩnh tiêu. 
Rượu cúc nhắn đem, hàng biếng quẩy 
Trà sen mượn hỏi, giá còn kiêu. 
Bánh chưng sắp gói e nồm chảy 
Giò lụa toan làm sợ nắng thiu. 
Thôi thế thì thôi đành tết khác, 
Anh em đừng nghĩ tết tôi nghèo. 
                 Trần Tế Xương
 

2- Liên Hoàn

Liên Hoàn là lối thơ lấy câu cuối của bài trên làm câu đầu của bài dưới:

     Hủ Nho Tự Trào

I

Ngán nỗi nhà nho bọn hủ ta,

Hủ sao hủ gớm hủ ghê mà ! 

Thơ suông nước ốc còn ngấm váng; 

Rượu bự non chai vẫn chén khà. 

Múa mép rõ ra văn chú chiệc; 

Dài lưng quen những thói con nhà. 

Phen này cái hủ xua đi hết. 

Cứ để cười nhau hủ mãi a? 

II 

Cứ để cười nhau hủ mãi a ? 

Cười ta, ta cũng biết rằng ta. 

Trót quen nho nhã đầu khăn lượt. 

Hóa kém văn minh cổ áo là. 

Khó vậy làm em, giàu đã chị; 

No thì nên bụt, đói ra ma, 

Nay được buổi học ganh đua mới. 

Còn giữ lề xưa mãi thế là! 

(Bài Hủ Nho Tự Trào của Tình Si Tử, có tất cả 4 bài Liên hoàn, ở đây chỉ đưa ra hai làm thí dụ)

3- Thuận Nghịch Độc

Thuận nghịch độc (thuận: xuôi; nghịch: ngược) là lối thơ đọc xuôi đọc ngược cũng thành câu có nghĩa cả; có khi đọc xuôi thành thơ quốc âm mà đọc ngược thành thơ chữ Hán.

       Đền Ngọc Sơn 

(Bài đọc xuôi) 

Linh uy tiếng nổi thật là đây: 

Nước chắn, hoa rào, một khoá mây. 

Xanh biếc nước soi, hồ lộn bóng: 

Tim bầm rêu mọc, đá tròn xoay. 

Canh tàn lúc đánh chuông ầm tiếng; 

Khách văng khi đưa xạ ngát bay. 

Thành thị tiếng vang đồn cảnh thắng: 

Rành rành nọ bút với nghiên này. 

 

(Bài đọc ngược) 

Này nghiên với bút nọ rành rành: 

Thắng cảnh đồn vang tiếng thị thành 

Bay ngát xa đưa khi vắng khách; 

Tiếng ầm chuông đánh lúc tàn canh . 

Xoay tròn đá mọc rêu bầm tím, 

Bóng lộn hồ soi nước biếc xanh. 

Mây khóa một rào hoa chắn nước, 

Đây là thật nổi tiếng uy linh 

                        Vô danh

 

4- Yết hậu Yết hậu (yết: nghỉ; hậu; sau) là lối thơ có các câu trên đủ chữ, còn câu cuối cùng chỉ có một chữ. Thí dụ:


             Xuân

Thêm mùa xuân đến với quê hương

Hoa thắm khoe xinh khắp phố phường

Áo mới mừng vui đàn trẻ nhỏ

Thương

                                  Quên Đi

 

5- Lục ngôn thể  Lục ngôn thể là lối thơ thất ngôn xen vào hai câu chỉ có 6 chữ. Lối thơ này ở nước ta về đời Trần, Lê hay dùng. Thí dụ : 


        Cảnh nhàn 

Lọ là thành thị, lọ lâm toàn, 

Được thứ thì hơn miễn phận nhàn.

Vụng bất tài nên kém bạn (lục ngôn thể) 

Già vô sự ấy là tiên (lục ngôn thể) 

Đồ thư một quyển nhà làm của; 

Phong nguyệt năm hồ khách nổi thuyền. 

Dù nhẫn chê khen, dù miệng thế, 

Cơ mầu tạo hóa mặc tự nhiên.

             Nguyễn Bỉnh Khiêm. 

 

6- Tiệt hạ Tiệt hạ (tiệt: ngắt, hạ: dưới) là lối thơ nào cũng bỏ lửng như bị ngắt, bớt ở cuối, nhưng ý nghĩa rõ rệt, người đọc đoán mà hiểu được. 

Thí dụ:

 

Thác bức rèm châu chợt thấy mà …! 

Chẳng hay người ngọc có hay đà …! 

Nét thu dợn sóng hình như thể … 

Cung nguyệt quang mây nhác ngỡ là …

Khuôn khổ ra chiều người ở chốn .. 

Nết na xem phải thói con nhà .. 

Dở dang nhắn gửi xin thời hãy … 

Tình ngắn tình dài chút nữa ta … 

                           Vô danh 

7- Vĩ tam thanh-  Vĩ tham thanh (vĩ: đuôi; tam: ba, thanh: tiếng ) là lối thơ ba tiếng cuối cùng, câu nào cũng phát âm giống nhau. Thí dụ: 

 

Ta nghe gà gáy tẻ tè te, 

Bóng ác vừa lên hé hẻ hè.

Non một chồng cao von vót vót, 

Hoa năm sắc nở loẻ loè loe. 

Chim tình bầu bạn kia kìa kỉa, 

Ong nghĩa vua tôi nhẹ nhẻ nhè. 

Danh lợi mặt người ti tí tỉ 

Ngủ trưa chưa dậy khoẻ khoè khoe 

                             Vô danh. 

 

8- Song điệp Song điệp (song: đôi; điệp: trùng nhau) là lối thơ mỗi câu hoặc ở đâu hoặc ở cuối có đặt hai cặp điệp tự (chữ lắp lại) Thí dụ: 

 

Vất vất vơ vơ cũng nực cười! 

Căm căm cúi cúi có hơn ai? 

Nay còn chị chị anh anh đó,

Mai đã ông ông mụ mụ rồi. 

Có có không không, lo hết kiếp 

Khôn khôn, dại dại chết xong đời. 

Chi bằng láo láo lơ lơ vậy, 

Ngủ ngủ, ăn ăn, nói chuyện chơi 

                           Vô danh


(Tài Liệu Tham khảo: Việt Nam Văn Học Sử Yếu của Dương Quảng Hàm).

 

***

Như thế tất cả các dạng thơ Đường Luật bên dưới đây xuất hiện theo thú chơi thơ của các thi nhân mà thôi:

- Nhất Thủ Thanh: Các chữ đầu của các câu trong bài thơ giống nhau.

- Nghi Vấn: Câu thơ nào cũng có dấu hỏi ở cuối câu.

- Bát Điệp: Tất cả các câu đều có một từ giống nhau.

- Ô Thước Kiều: Tương tự như thơ Liên Hoàn, nhưng chỉ lấy hai chữ cuối của bài trên làm hai chữ đầu của bài dưới.

- Dĩ Đề Vi Thủ: Lấy các chữ ở tựa bài thơ làm chữ đầu tiên của các câu thơ.

- Dĩ Đề Vi Vận: Lấy các chữ ở tựa bài thơ làm vần để gieo.

- Áp Cú: Lấy chữ cuối của câu trên làm chữ đầu của câu dưới.

- Khoán Thủ: Ghép các chữ đầu các câu thơ  thành một câu văn có ý nghĩa.

- Ngũ Độ Thanh: Dựa theo Ngũ Độ Thanh từ xưa bên Tàu áp dụng vào thơ Đường Luật ở Việt Nam. Các câu thơ phải hội đúng 5 dấu thanh trong 6 dấu thanh của tiếng Việt: Không dấu, Sắc, Huyền, Hỏi, Ngã, Nặng.

- Thủ Vỹ Điệp Ngữ Cú

Ngoài ra còn rất nhiều biến dạng khác tuỳ theo sở thích của Tác giả nhưng vẫn theo 5 quy tắc căn bản của Đường Luật Thi là Vần, Niêm, Luật, Đối và Bố cục.
Nhân đây xin giới thiệu môt dạng thơ mới của Đường Luật Thi: 

Thủ Vỹ Điệp Ngữ Cú

 

                   SAY (Xướng)Say ngấm men nồng để ngấm say
Mây trời xuống thấp giữa trời mây
Vấn vương bóng nhớ sầu vương vấn
Ngây ngất lòng sầu nhớ ngất ngây.
Tiếc nuối thời gian trôi nuối tiếc 
Quay cuồng cuộc sống bốc cuồng quay
Đảo điên rảo bước vòng điên đảo
Say cảm mơ hồ lại cảm say!

                       Nguyễn Đắc Thắng


             Say (Họa)


Say nào mới thế đã nào say

Mây nhớ non chăng non nhớ mây

Ứa lệ do đâu xui lệ ứa

Ngây tình bao thuở vẫn tình ngây

Đắng cay mình lại vương cay đắng

Quay quắt người sao nỡ quắt quay

Ảo mộng yêu nhau là mộng ảo

Say ngà ôi quả thật ngà say

                         Quên Đi

 *** 

           Cô Độc

 

Hanh hảnh thu về ánh nắng hanh

Cành đưa theo gió lá theo cành

Thẩn thờ đêm xuống lòng thơ thẩn

Tanh tách mưa buồn cảnh vắng tanh

Mộng vỡ tình tan còn ủ mộng

Hành nhân sức mỏi kiếp cô hành

Hận đời đôi ngả tình ly hận

Xanh đã qua rồi tiếc thuở xanh.

                            Quên Đi

***

Huỳnh Hữu Đức Biên Soạn.


Nhắn tin cho tác giả

Nguyễn Thị Thanh Thuỷ @ 19:30 18/04/2017

1 – HỌA VẬN:

Đó là có một bài xướng trước và sau đó có bài sau họa lại mà các vần trong bài họa phải theo y như các vần trong bài xướng,còn ý nghĩa hoặc phụ theo cho rộng,hoặc trái hẳn lại ( phản đề ) :

Ví dụ:

CUỘC SỐNG 3

Cuộc sống dương trần chẳng mãi đâu
Đừng nên lãng phí bởi ưu sầu
Xa lìa oán hận, xa phiền não
Dứt bỏ ganh hờn, dứt khổ đau
Hãy giữ cho mình bao ước vọng
Và mang đến bạn những mưu cầu
Vui làm tất cả điều mong đợi
Cuộc sống dương trần chẳng mãi đâu.

Huệ Nhẫn Sông Lam, 04.05.2016

Bài họa:

VÔ THƯỜNG

Vô thường cát bụi nghĩa gì đâu!…
Cõi tạm nhờ thân chẳng luống sầu
Bão dập tâm ngời không sá khổ
Giông vùi dạ khiết có nề đau
Đừng trao ái hẻo mơ hồng phách
Chớ gửi tình hoen mộng tím cầu
Giữ vẹn thanh hồn khi rảo gót
Vô thường cát bụi nghĩa gì đâu!…

Đăng Quang

2 – THỦ NHẤT THANH ( nhất đồng )

Từ đứng đầu của 8 câu trong bài thơ đều giống nhau

Ví dụ:

BÁC HỒ

Bác Hồ tựa thể ánh vàng sao
Bác mãi còn đây dẫu thế nào
Bác bởi quê hương làm sáng lạng
Bác vì dân tộc sống thanh cao
Bác đau nước thủa đang lời thán
Bác xót làng xưa vẫn tiếng gào
Bác gửi niềm tin dành hậu thế
Bác về cõi Phật khiến lòng nao.

Sông Lam

**********************************

3 – SONG ĐIỆP:

Là bài thơ mà tất cả 8 câu đều có 2 điệp từ :

Ví dụ:

LẠI TỰ KỶ

Sáng sáng chiều chiều lại dở hơi
Thơ thơ thẩn thẩn ngỡ điên rồi
Cười cười nói nói cho lòng khỏa
Hát hát hò hò để dạ phơi
Chẳng có ai chờ chờ đợi đợi
Mỗi ta đây đứng đứng ngồi ngồi
Mòn mòn mỏi mỏi hồn ngây dại
Ngán ngán ngầy ngầy phận nổi trôi.

Sông Lam, 10.05.2016

**********************************

4 – SONG ĐIỆP ĐỘC VẬN:

Là bài thơ mà tất cả 8 câu đều có 1 từ và chỉ có 1 vần

THƠ ĐIÊN

Thơ này đúng thật của người điên
Quả vậy thơ toàn dụng ngữ điên
Sớm sớm thơ điên tuồn tựa bão
Chiều chiều thơ hẩm phóng như điên
Say nàng thơ đã thành điên loạn
Luyến ái thơ đà trở loạn điên
Thơ vẫn điên hoài ai có hiểu
Mộng khiến thơ mình cứ mãi điên.

Sông Lam, 03.02.2016

**********************************
5 – DĨ ĐỀ VI THỦ

Là bài thơ mà ta lấy 8 từ đầu để mở đầu cho 8 câu thơ

Ví dụ:

CHÚC EM NĂM MỚI AN KHANG THỊNH VƯỢNG

CHÚC người rạng rỡ tựa ngàn hoa
EM đã còn hơn triệu món quà
NĂM cũ chôn vùi bao đắng khổ
MỚI ngày gội bỏ những can qua
AN bình hạnh phúc tìm sang cửa
KHANG phú tài danh gọi đến nhà
THỊNH nghiệp càng thêm niềm phấn khởi
VƯỢNG khơi gia sự mãi vui hòa.

Đêm giao thừa Bính Thân 2016

**********************************

6 – DĨ ĐỀ VI VẬN

Là bài thơ mà ta lấy đầu đề làm vần

Ví dụ:

CAY, BÀY, ĐÂY, ĐẦY, TAY

Xin người chớ nặng nỗi sầu cay
Hãy đến cùng tôi đặng giãi bày
Đạo nghĩa mình ta hoài vẫn đó
Ân tình tớ bạn mãi còn đây
Buồn đau xẻ sớt, buồn đau vợi
Hạnh phúc dành chia, hạnh phúc đầy
Gửi trọn niềm tin đừng bỏ lỡ
Cho lòng ái ngại những vòng tay.

Sông Lam, 04.05.2016

**********************************

7 – TOÁN THI

Là bài thơ mà cả bài câu nào cũng có từ chỉ con số

Ví dụ:

NHẤT SEN HỒNG

Một đóa Sen Hồng vẫn tỏa hương
Trời quang Bảy cánh lại thêm hường
Bùn nhơ, Chín kiếp Tâm hoài tỏ
Nước bẩn, Năm đời Dạ mãi vương
Giữ trắng linh hồn nơi Vạn nẻo
Gìn trong dáng thể giữa Trăm đường
Thơ đầy Triệu áng, văn Ngàn quyển
Sẽ tặng Muôn người ở Bốn phương.

Sông Lam, 09.01.2016

**********************************

8 – LIÊN HOÀN

Thể thơ có nhiều đoạn, câu cuối của đoạn trên được chuyển thành câu đầu của đoạn dưới

Ví dụ:

ĐỜI THI SĨ

Khổ nỗi nhà thơ, kiếp bạc bèo
Vênh hàm rã họng ngoác mồm treo
Thêu từ dệt ý dành thơm thảo
Gửi chữ gìn câu xót ngặt nghèo
Tức tưởi than phiền khi bạc thiếu
Ai hoài giận dỗi cảnh tình neo
Nhiều hôm lắm buổi dòm thiên hạ
Trách kẻ hờn ai lại diễn chèo.

Trách kẻ hờn ai lại diễn chèo
Cho lòng bảo dạ chớ cười reo
Từ ân tiếng ái thôi chào biệt
Chữ thệ lời yêu cũng thoảng vèo
Xét ngữ xem vần văn ngắn củn
Soi mình ngắm mặt má gầy teo
Dài lưng tốn vải, đừng mơ hão!
Khổ nỗi nhà thơ, kiếp bạc bèo.

Sông Lam, 11.05.2016

**********************************

9 – LIÊN HOÀN THUẬN NGỊCH VẬN

Cũng là thể thơ Liên hoàn như trên, nhưng bài thứ 2 viết ngược vần lại với bài thứ nhất

Ví dụ:

NHỚ MÃI ƠN NGƯỜI

Lòng dân thấu tỏ mãi ơn Người
Đức độ, nhân từ khắp mọi nơi
Trằn trọc canh trường đau xót kẻ
Bâng khuâng sáng tận cảm thương đời
Gian nan triệu vẻ tâm hoài vững
Đắng khổ muôn màu chí chẳng lơi
Nghĩa Bác ngàn sau còn khắc tạc
Bao la vĩ đại ví sao trời.

Bao la vĩ đại ví sao trời
Nghĩa Bác hôm nào chớ bỏ lơi
Bởi nước hy sinh thời tuổi trẻ
Vì dân gác lại chuyện tư đời
Quả thơm mến trẻ mang về ngõ
Lụa ấm thương già gửi tận nơi
Tổ quốc ngày mai rồi lộng lẫy
Ngàn năm hậu thế chẳng quên Người.

Sông Lam

10 – Ô THƯỚC KIỀU:

Thể thơ liên hoàn như trên, nhưng lấy 2 từ cuối, hoặc nhắc lại 2, 3 từ nào đó ở câu cuối của bài trên để mở đầu cho câu đầu của bài dưới

Ví dụ:

NỢ EM MỘT ĐỜI HẠNH PHÚC

Một giấc mơ nồng đã thoảng mau
Làm cho kẻ vướng nặng ưu sầu
Gieo vào giữa dạ nhiều thương cảm
Để lại bên đời những vết đau
Bởi lẽ hồn si đà vỡ mộng
Vì chưng kiếp mỏng cũng hoen màu
Thề non hẹn biển đành chôn dấu
Dẫu vẹn bao lời ngỏ với nhau.

Giữ vẹn thề trao quyết chẳng vùi
Anh còn nợ bé những niềm vui
Vì câu hẹn lỡ từng mong mỏi
Để khúc sầu lâng vẫn ngậm ngùi
Hãy cứ an bình cho kẻ biệt
Xin rằng hạnh phúc để người lui
Cầu em mãi đẹp duyên tình ấy
Bỏ mặc mình ta nỗi đắng bùi.

Mình ta lạc lõng chốn dương trần
Bỏ lại yêu hờn với ngãi nhân
Bởi lẽ từ duyên nào bén trổ
Thành ra chữ nợ có đâu cần
Tâm còn ước mãi người an phận
Dạ vẫn mong hoài kẻ sáng thân
Hạnh phúc cùng em đành để lỡ
Về bên cõi Phật sống thanh bần.

Tìm vui cõi Phật dứt thương sầu
Hạnh phúc bên nàng hẹn kiếp sau
Chữ thệ từ mong rồi nhạt nét
Lời trao tiếng gửi sẽ phai màu
Do vì nợ đó không tròn vẹn
Cũng tại duyên này lắm khổ đau
Níu giữ làm em càng mệt mỏi
Đành thôi bỏ lại mối yêu đầu.

Sông Lam. 24.04.2016

**********************************

11 – TẬP DANH:

Tập danh cũng có nhiều loại:
– Trong mỗi câu có danh từ gắn với đề tài
– Mỗi câu thơ có 1 từ chỉ bộ phận trong thân thể con người
– Trong mỗi câu có 1 từ chỉ tên của vật nào đó

Ví dụ:

KIẾP PHONG BA
(Ô thước kiều – Tập danh)

Giang hồ bão táp phủ đời trai
Mỏi mắt bờ mi đẫm lệ dài
Gối quỵ tình duyên dường đổ vỡ
Chân chùn lý tưởng ngỡ tàn phai
Trần gian bão lạnh vờn ngang trán
Cõi tục mưa sầu đổ xuống vai
Cũng bởi thân tàn thêm dại trí
Thì tâm phải thẹn với anh tài

Anh tài bốn bể đặng tìm đâu?
Núi đổ làm cho đẫm lệ sầu
Những bởi non mòn đau tiếng giọng
Thêm vì biển cạn nhói vần câu
Thần nhân quỵ ngả chùng dây nối
Lý tưởng mờ hoen gãy nhịp cầu
Nỗi thẹn sông hồ ai thấu tỏ
Chân trời huyễn vọng nhỏ hàng châu!

Hàng châu luống đổ não thêm khờ
Trí khổ đêm tàn vẫn mộng mơ
Gửi nguyện bờ môi người thiếu nữ
Trao nguyền cõi mắt ảnh Nàng Thơ
Tình hư chẳng mãn tâm mòn héo
Nghĩa ảo đâu tròn dạ xác xơ
Cũng tại duyên hờ tim héo ủ
Đau lòng kiếp bạc mãi lầy dơ.

Sông Lam, 23.01.2016

**********************************

12 – TÍNH DANH:

Câu nào cũng có từ chỉ nhân danh hay địa danh Giống như Ðiển Thi, câu nào cũng dẫn 1 điển tích nào đó (thường các điển tích đó lấy từ bên Trung Hoa ngày xưa)

VÍ DỤ: ( Tác giả chưa làm bài nào)

**********************************

13 – SẮC THÁI:

Là bài thơ mà 8 câu, câu nào cũng có từ chỉ màu sắc

Ví dụ: (Tác giả chưa làm bài nào)

**********************************

14 – THỦ VĨ NGÂM:

Là thể thơ trong đó câu đầu và câu cuối giống nhau

Ví dụ:

NHÂN QUẢ

Gieo hạt như nào quả ấy thôi
Ngàn xưa đã thế, tự nhiên rồi
Người vun ác nghiệp sầu không ngớt
Kẻ dạy công lành phước chẳng vơi
Bởi dạ trong – ngầu, đâu tại số
Vì tâm thiện – ác, chẳng do trời
Thi hành bổn phận lòng xin nhớ
Gieo hạt như nào quả ấy thôi.

Sông Lam, 29.03.2016
—————–
* Vĩ thủ vĩ ngâm: Là 1 biến dạng của Thể Thủ vĩ ngâm, tức là câu đầu và câu cuối bài thơ chỉ lặp lai 1 cụm từ cuối

Ví dụ:

MẮT NGƯỜI THƯƠNG

Không gì đẹp thể mắt người thương
Sáng rực hồn anh đã hiểu tường
Ngợi biếc soi bừng nơi huyễn cảnh
Ngời xanh thấu tỏ cõi thiên đường
Xin là ngấn lệ chan đầy mãi
Ước được bờ mi tỏa mãn trường
Rửa sạch u sầu, che gió bão
Thêm phần rạng rỡ mắt người thương.

Sông Lam, 28.01.2016

15 – TRIỆT HẠ:

Là bài thơ mà từ cuối của mỗi câu thơ để bỏ lửng làm cho câu thơ chưa trọn nghĩa, khiến người đọc phải nghĩ ra

Ví dụ:

PHŨ PHÀNG

Hẹn ước ngày nao bỗng lại là…
Trao thề gửi nguyện cũng đành ra…
Lời ngon bậu nói anh còn ngỡ…
Tiếng ngọt người gieo chị vẫn mà…
Ngây ngất tình kia đà tưởng vậy…
Bùi ngùi nghĩa ấy phải chờ qua…
Xuân về thiệp đỏ ai rằng đã…
Lẻ bóng mình tôi tại bởi nhà…

Sông Lam

**********************************

16 – YẾT HẬU:

Là bài thơ mà các câu trên đủ từ cả, riêng câu cuối cùng chỉ có 1 từ. Thể Yết hậu thường chỉ áp dụng cho Tứ tuyệt, nhằm để chỉ một sự việc mang tính chất trào phúng. Tuy nhiên, có người vẫn phá cách mà áp dụng cho Bát cú.

Ví dụ 1:

NHỘT

Ông này đích thực là quan tốt
Chắc bởi người mang nhiều bạc hốt
Mở miệng sao toàn nói lẽ khôn
Nhột!

Ví dụ 2:

ĐIÊN

Chức trọng, nhà cao… thật đáng tiền
Dân bầu, nước cử… vị ngài yên
Lời xiên, ý xẹo như là thánh
Điên!

Sông Lam. 28.04.2016

Ví dụ 3:

RÁC

Lỡ bước chân vào nơi cõi lạc
Bì xanh túi đỏ thêm bàng bạc
Giăng tràn cuối ngõ với bên đường
Rác!

Sông Lam, 04.02.2016

Ví dụ 4 (áp dụng với Bát cú):

CÓ THẤU?
(Yết hậu)

Xuân về rạng rỡ ánh bình minh
Thảo mấy vần thơ đậm nghĩa tình
Những gửi cho người mang dạ chính
Thêm dành lại kẻ giữ hồn trinh
Cầu mong ở kiếp hoài an thịnh
Nguyện ước trong đời mãi hiển vinh
Khổ nặng anh gìn em đã tính?
Linh!

Sông Lam, 08.01.2016

**********************************

17 – ÁP CÚ

Là bài thơ mà cả 8 câu, từ cuối của câu trước trở thành từ đầu của câu sau

Ví dụ:

LỠ NHỊP CON TIM

Thiếu nữ ngồi đây mỏi dạ chờ
Chờ người trong mộng khiến lòng mơ
Mơ về kỷ niệm tâm hoài ngóng
Ngóng lại ngày qua trí mãi thờ
Thờ thẫn nơi này ai lỡ ước
Ước ao chốn đó kẻ đâu ngờ
Ngờ rằng đứa dại si tình ảo
Ảo tưởng môi hường, tặng áng thơ.

Sông Lam, 29.01.2016

18 – CHƠI CHỮ:

Thể này rất đa dạng, nhưng tác giả chưa làm bài nào nên không có ví dụ.

**********************************

19 – KỴ ĐỀ:

Thể thơ trong đó tất cả 8 câu đều không có từ nào chỉ đề tài
mà vẫn thể hiện đầy đủ yêu cầu của đề tài

Ví dụ:

TỨ VÔ LƯỢNG *

Mở rộng lòng thương đến mọi người
Trao dành tất cả những niềm vui
Ra tay cứu dạy ai lầm lỗi
Bỏ sức cưu mang kẻ chán đời
Hỷ xả nhân sinh càng sáng đẹp
Từ bi cuộc sống lại thêm ngời
Dương trần sẽ bớt nhiều đau khổ
Giữ vẹn tâm thiền chúng bạn ơi.

Sông Lam. 30.03.2016

* Tứ vô lượng: Từ Bi Hỷ Xả gọi tắt là Từ Bi

**********************************

20 – BÁT ĐIỆP:

Là thể thơ trong đó tất cả 8 câu đều có lồng vào 1 hoặc 2 từ giống nhau.

Ví dụ 1:

TỘI CỦA ANH

Ta mang cái tội đã yêu người
Tội quá say nàng mãi chẳng nguôi
Tội đó làm ai thè lưỡi cợt
Tội đây khiến kẻ bĩu môi cười
Tội gìn dáng Nhỏ miền tâm dạ
Tội dệt câu thề chốn biển khơi
Nếu ngóng chờ em là có tội
Thì anh tội nặng nhất trên đời.

Sông Lam, 09.03.2016

Ví dụ 2:

CHỮ HIẾU

Cội đức nhân sinh Hiếu dẫn đầu
Trong đời chẳng Hiếu, kẻ về đâu?
Hiếu làm thế tục thêm trìu mến
Hiếu dạy trần ai đỡ tủi sầu
Hiếu chính ông bà luôn kính, bởi…
Hiếu là bác mẹ mãi thờ, âu…
Dương phàm Hiếu đạo mà lơ đễnh
Cõi tạm cuồng quay – Hiếu nhạt màu.

Sông Lam

**********************************

21 – LIÊN NGÂM:

Thể thơ trong đó 2 hoặc nhiều người làm chung một bài thơ lần lượt nhau mỗi người 1 hoặc 2 câu

Ví dụ:
Ở thể này, tác giả xin được mượn bài thơ của các anh Phong Trần, Tin Nguyen, Trungtin Phung làm ví dụ:

TIỂU LÝ PHI ĐAO

Tin Nguyen:
Tiểu lý phi đao nặng nghĩa tình

Trungtin Phung:
Giang hồ lắm gã rợn hồn kinh

Phong Trần:
Danh truyền bốn cõi người e ngại
Tiếng dội mười phương chúng giật mình

Tin Nguyen:
Xuất chưởng nhiều tên thành quỷ dại
Ra đòn vạn kẻ hóa âm binh

Phong Trần:
Lòng riêng một mối sầu cô lẻ
Ngẫm chuyện đời tư hận nỗi mình !

18.11.15 Tin Nguyen Trungtin Phung Lý Tầm Hoan

**********************************

22 – HẠN VẬN:

Người ra đề cho vần nào ta phải dùng vần ấy .
Thể thơ này khác với thể Họa Vận vì không có bài xướng để dựa theo mà họa, hơn thế nữa,ta phải :

* Tả ý thơ theo đầu đề

* Dùng 5 vần hạn định (trong 8 câu)

Ví dụ:

Chủ đề: Xuân thì
Giới hạn 5 vận: tơ, hờ, chờ, thơ, thưa

XUÂN THÌ

Em thời bóng bẩy tựa đường tơ
Yếm đỏ nào ai dạ hững hờ?
Mấy ả dòm vô gìn ngữ đợi
Nhiều anh ngó lại gửi câu chờ
Nhu mì dễ khiến người ươm nhạc
Lộng lẫy toan làm kẻ viết thơ
Đáng mặt tài hoa thì tỏ gẫm
May rằng bậu sẽ có lời thưa!

Sông Lam, 16.01.2016

**********************************

23 – PHÚ ĐẮC:

Là bài thơ giải thích và phát triển ý của một câu ca dao hay một câu thơ bằng một bài thơ, nhưng nội dung phải phù hợp với sự việc đó.

Ví dụ 1:

Sá chi một kiếp phù du nhỉ
Mà chẳng trao nhau trọn chữ tình
(Khuyết danh)

HÃY YÊU THƯƠNG

Một kiếp phù du chớ ngại ngần
Trao dành tất cả những tình thân
Nào sang với kẻ khi người muốn
Hãy đến cùng tôi lúc bạn cần
Bởi lẽ trần ai đầy oán hận
Sẽ làm cõi tạm thiếu lòng nhân
Thành ra cuộc sống không còn đẹp
Gửi trọn yêu thương sáng vẹn phần.

Sông Lam, 05.05.2016

Ví dụ 2:

Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

CẢNH XUÂN

Chân trời rực sáng buổi vào xuân
Cảnh sắc ngời tô rạng cõi trần
Tỉ vật đơm chồi hoa mãi biếc
Muôn loài trỗi giọng tiếng còn ngân
Cành lê nụ trắng đà đơm vãn
Cọng cỏ mầm xanh đã bén gần
Tết vẫy mai vàng bung nở vội
Bao người chực đón Lễ Tình Nhân.

Sông Lam, 13.02.2016

**********************************

24 – VĨ TAM THANH:

Là bài thơ mà câu nào cũng láy cụm 3 từ cuối.

Ví dụ:

THƠ ĐIÊN (8)

Say nàng đến độ hẩm hầm hâm
Khiến cả vành tim bấm bẩm bầm
Bậu cứ lòng đang chành chạnh chảnh
Anh thì ái vẫn cẩm cầm câm
Hay là phận số nan nàn nạn
Đến phải tình duyên lấm lẩm lầm
Bão táp vùi thân kè kẹ kẻ
Em hoài chẳng ngó thẳm thằm thăm.

Sông Lam, 03.02.2016

**********************************

25 – LƯỠNG ĐẦU XÀ NGHỊCH THIỆT:

Thể thơ có những cụm từ đôi hoặc cụm từ ba được lái thành cụm từ đôi khác ở trong câu.

Ví dụ:

BỂ KHỔ
(Lưỡng đầu xà nghịch thiệt)

Mờ ngôi có kẻ chỉ ngồi mơ
Chợ nổi đời mang nỗi đợi chờ
Bạc khúc nhao tìm bao khúc nhạc
Nhỡ vần thưng lại những vần thơ
Tường nao đậu cũng nào đâu tưởng …
Thề ngỡ yêu nhưng chẳng thể ngờ …
Bổ khế mà suy rằng: bể khổ
Lờ Lam bé vẫn cứ làm lơ.

Sông Lam, 30.01.2016

26 – CÔ NHẠN XUẤT QUẦN:

Thể thơ trong đó vần câu đầu làm khác hẳn, không giống với 4 vần còn lại ở dưới

Ví dụ:

LUẬN MỸ NHÂN THIÊN HẠ

Giai nhân bốn bể cũng không bằng
Lộng Ngọc, Điêu Thuyền vẫn chẳng xinh
Đắc Kỷ trông vào than xót phận
Tây Thi ngóng lại thẹn đau mình
Trời Tây Vệ Nữ nom ngùi dạ
Đất Bắc Chiêu Quân ngẫm tội tình
Mắt biếc làm ngây hồn kẻ sĩ
Thơ này gửi trọn đến Thùy Linh.

Sông Lam, 29.01.2016

**********************************

27 – CÔ NHẠN NHẬP QUẦN:

Trái với trên, thể này là thể thơ trong đó mấy vần trên đi với nhau, chỉ có vần dưới làm khác hẳn đi

Ví dụ:

NGẪM CHUYỆN THI ĐÀN

Ngẫm chuyện thi đàn lắm kẻ hâm
Làm cho độc giả cứ thương nhầm
Đau hờ xót rởm ca hời phận
Trộm ngữ chèn danh chứng tỏ tầm
Nghĩa đó nguyên rằng mang ở dạ
Thơ này ý phải dội từ tâm
Lừa nhau lấy chữ vương lòng ngọc
Chả nhẽ đem tình vụt xuống sông ?

Sông Lam, 29.01.2016

**********************************

28 – TRƯỜNG THIÊN:

Là bài thơ dài (hơn 8 câu), nhưng trừ 2 câu đề và 2 câu kết, các cặp câu còn lại trong bài vẫn có đối như bát cú.

Ví dụ:

DƯỚI NGŨ HÀNH SƠN

Thời gian thấm thoắt đã phai màu
Biển cạn nay rằng hóa bãi dâu
Cũng bởi Hầu Vương giành vị báu
Thành ra Đức Phật giữ non sầu
Mơ về kỷ niệm còn in dấu
Tiếc lại xưa ngày lạc quá mau
Những bận tung hoành chơi sóng lửa
Từng khi loạn đả phá ang dầu
Danh hùng Đại Thánh oai gì nữa
Phận số an bài cớ tại đâu?

Sông Lam. 12.04.2016

**********************************

29 – VẤN NGHI:

Là bài thơ mà câu thơ nào cũng theo thể hỏi, nên sau mỗi câu đều đặt được dấu hỏi cả.

Ví dụ:

TRẦM NGÂM

Hỏi thế gian rằng đã nợ chi?
Tình hư nghĩa ảo vấn vương gì?
Sao mà chẳng ước còn mong hẹn?
Chả nhẽ chưa về lại muốn đi?
Cõi tạm hồn si đà thấu tỏ?
Trần ai dạ ngẩn có kiên trì?
Hay là bỏ mặc rồi xa lánh?
Để tự giam mình với nỗi bi?

Sông Lam, 22.03.2016

**********************************

30 – THUẬN NGỊCH ĐỘC:

Thể thơ khi đọc xuôi là 1 bài thơ, mà đọc ngược cũng là 1 bài thơ. Thể thơ này đòi hỏi công phu ghép từ thật khéo và phải làm theo đúng luật bằng trắc để có thể đọc xuôi, đọc ngược đều có nghĩa, câu thơ chải chuốt không khổ đọc

Ví dụ:

CHỜ MÃI
(Thuận nghịch độc, bát vận)

Thuận:

Tơ tóc kết nguyền mãi đắm say
Nhớ người xưa cũ bóng ai hay
Mơ từ giữa ảo mê tìm vẫy
Lỡ vận bên cuồng mộng lại vây
Ngờ nghĩa vướng yêu thương cũng đấy
Ngỡ tình gieo luyến tiếc rằng đây
Thơ vần dạ kết cho lòng dậy
Chờ ngóng mỗi em đợi tháng ngày.

Nghịch:

MÃI CHỜ

Ngày tháng đợi em mỗi ngóng chờ
Dậy lòng cho kết dạ vần thơ
Đây rằng tiếc luyến gieo tình ngỡ
Đấy cũng thương yêu vướng nghĩa ngờ
Vây lại mộng cuồng bên vận lỡ
Vẫy tìm mê ảo giữa từ mơ
Hay ai bóng cũ xưa người nhớ
Say đắm mãi nguyền kết tóc tơ.

Sông Lam, 16.02.2016

**********************************

31 – PHÁ CÁCH:

Vì là phá cách nên có nhiều dạng, xin giới thiệu 1 số bài mà tác giả từng làm:

– Thơ làm thất niêm có dụng ý

Ví dụ:

EM CÓ BIẾT

Em ở đô thành em biết không?
Tình anh vẫn thế vẫn luôn nồng
Luôn mãi yêu thương luôn ước vọng
Vẫn hoài ngóng đợi vẫn chờ trông
Đêm ngày vẫn nhớ và luôn mộng
Năm tháng luôn chờ lẫn mãi mong
Mặc kệ ai cười ai chế giễu
Tim vẫn yêu em vẫn thắm hồng.

Sông Lam, 03.03.2016

– Cố tình điệp:

BỎ LẠI

Bỏ lại nơi đây bỏ lại nàng
Để sầu vạn thủa để sầu mang
Người đâu ngóng đợi người đâu biết
Nhỏ chẳng thương yêu nhỏ chẳng màng
Câu phú đau buồn câu phú hẩm
Khúc tình đổ vỡ khúc tình tang
Thôi đành vĩnh biệt thôi đành thế
Phải lỡ duyên kia phải lỡ làng.

Sông Lam, 3h 30p 03.03.2016

– Điệp, 2 vận:

Ví dụ:

CƯỜI VÀ MỘNG

Mộng vỡ mà ta vẫn gắng cười
Đâu còn mộng ước, liệu còn tươi?
Thôi đừng mộng nữa à cơn mộng!
Hãy gắng cười lên hỡi nụ cười!
Cũng bởi cười xong rồi đắm mộng
Nên là giấc mộng có nào tươi
Đành xin bỏ hết trời mơ mộng
Để miệng hoài luôn rạng tiếng cười.
Sông Lam, 26.03.2016

**********************************

32 – TUNG HOÀNH TRỤC KHOÁN:

Là bài thơ mà từ 1 cặp câu đối, viết thành 1 bài thơ có hàng các từ đầu của bài thơ là câu thứ nhất của câu đối, còn câu cuối bài thơ là vế thứ 2 của cặp đối đó.

Ví dụ:

Lệ đổ ngóng nhìn em hạnh phúc
Châu tuồn giã biệt kẻ sang ngang

LỆ DỖI CUNG ĐÀN

Lệ cay khóe mắt dỗi cung đàn
Đổ xuống đôi dòng lặng tiếng than
Ngóng biển hoàng hôn vừa lịm tắt
Nhìn mây bóng tối đã dâng tràn
Em về chốn lạ mừng duyên thắm
Hạnh lỡ miền hoang xót phận tàn
Phúc để cho người xin gửi trọn
Châu tuồn giã biệt kẻ sang ngang.

Sông Lam, 21.01.2016

**********************************

33 – KHOÁN THỦ CHIẾT TỰ:

Là bài thơ mà từ một tên người hay tên địa danh nào đó, chẻ các chữ cái trong danh từ đó thành từ đầu tiên của các câu đầu bài thơ.

Ví dụ 1:

THÙY LINH

T hiếu nữ yêu kiều tỏa rạng không?
H ồn nhiên rạng rỡ tuổi đang nồng
U sầu bấy gã còn mơ mộng
Y ếu nhược bao người đã tưởng mong.
L ảnh lót ca từ ai lỡ mọng
I m lìm ái sự kẻ đành trông
N hìn em tựa thể nàng tiên sống
H ết cả đời tôi cũng chạnh lòng.

Sông Lam, 27.11.2015

Ví dụ 2:

LINH NAPIE

L ời ai lảnh lót cõi non bồng
Í ỏi bao chàng vẫn gọi mong
N hắn nhủ tình thâm dành thục nữ
H àn huyên nghĩa nặng gửi môi hồng
NA o lòng lắm kẻ từ nương rẫy
P hẫn trí nhiều anh bỏ ruộng đồng
Í t bữa xa nàng tôi lụy khổ
E rằng dạ héo bởi chờ trông.

Sông Lam, 29.02.2016

Ví dụ 3:

HỒ THỊ THÙY LINH

H-ằng Nga giáng thế đã bao mùa
Ồ-n ã muôn người đợi dưới mưa
T-ận tụy anh đà buông chữ ngỏ
H-ững hờ bé vẫn chẳng lời thưa
I-m câu hẹn ước, ta rằng: Thiệt!
T-hả ngữ chờ mong, bậu bảo: Lừa!
H-ớt hải ai còn mơ với mộng
Ù- ì kẻ lại cọ rồi cưa
Y-êu thầm tấc dạ sầu sao đủ
L-ỡ tưởng buồng tim mỏi có vừa
I- ỏi đêm ngày đâu nguyện chán
N-gất ngây sơm buổi nỏ xin chừa
H-ương nồng khẽ tỏa nơi tình gọi
Khiến ruột gan mình ngẩn tối trưa.

Sông Lam, 18.03.2016

Ví dụ 4:

SÔNG LAM

S áo sậu tìm đâu kẻ ẵm bồng
Ô m vào khúc dạ nỗi chờ mong
N gười đi biệt nẻo hờn mi ướt
G ã chạy về nơi… tủi má hồng
L ạnh lẽo canh tàn đau đớn trải
A u sầu khắc lụn bẽ bàng trông
M àn đêm kín phủ buồn vô tận
MỘT KIẾP TÌNH SI NÃO CẢ ĐỒNG

Hoa Hồng Trắng

34 – XA LUÂN NGŨ BỘ:

Là bài thơ dài gồm 5 bài thơ được liên kết nhau bởi 5 vận của bài đầu, 5 vận này được đảo đi đảo lại có trình tự xoay vòng như cái bánh xe luân chuyển vậy.

Ví dụ:

THƠ XUÂN TẶNG NÀNG
(Xa luân ngũ bộ – NDT – 40 điệp)

Xuân về rực rỡ ánh hào Quang
Én lượn vờn Xuân giữa biển Vàng
Hạ rủ đông tàn Xuân đã đến
Xuân hoàn lộc ở phước vừa Sang.
Chào Xuân tết vẫn đong tràn vượng
Đợi phát Xuân còn chở đẫy Khang
Có kẻ Xuân này xin mãi nguyện
Mùa Xuân hạnh phúc gửi trao Nàng.

Nắng tỏa vườn Xuân những giọt Vàng
Xuân vừa gõ cửa tết tìm Sang
Đường Xuân phước trải nhiều an thịnh
Nẻo phúc Xuân giàn đẫy vượng Khang.
Nghĩa lộc đưa đàng Xuân đến kẻ
Tình Xuân dẫn lối hạnh cho Nàng
Vui cười để vẫy mùa Xuân lại
Ngõ hẻm Xuân tràn ánh nhật Quang.

Xuân đà đến cửa lộc nhòm Sang
Những buổi Xuân đầy ngập phước Khang
Cảnh tết kêu thầm Xuân ngại gã
Hồn Xuân khẽ gọi tớ yêu Nàng.
Ngày Xuân gió phả hương nồng dịu
Bữa ngỏ Xuân ngời ánh dạ Quang
Lộng lẫy lòng Xuân càng sáng tỏ
Tình Xuân rạng rỡ trái tim Vàng.

Bản nhạc Xuân đầy ắp nghĩa Khang
Chiều Xuân ước nguyện ở bên Nàng
Tưng bừng tết đỏ tràn Xuân rạng
Rộn rã Xuân hồng khắp cảnh Quang.
Hỏi vượng nhờ Xuân còn sắm lễ
Cùng Xuân cậy phước để mua Vàng
Mơ ngày hạnh phúc Xuân mừng rỡ
Bỗng nắng Xuân bừng vạn nẻo Sang.

Chọn bữa trời Xuân hỏi cưới Nàng
Xuân ngời rực rỡ ánh huyền Quang
Xuân vờn cửa lộc từng tia thắm
Nắng tỏ phòng Xuân những giọt Vàng.
Nghĩa thẳm Xuân nồng đang chạy đến
Xuân lành ái ngọt đã uồm Sang
Lòng ta cũng tựa mùa Xuân đó
Chở nặng Xuân tình đẫy ắp Khang.

Sông Lam, 31.12.2105

**********************************

35 – LỘC LƯ NGŨ BỘ:

Là bài thơ dài gồm 5 bài bát cú được liên kết nhau bằng 1 câu đầu của bài đầu, và nó lần lượt được chuyển sang các bài sau theo thứ tư ở vị trí 2, 4, 6, 8.

Ví dụ:

SAI LẦM
(Bài họa)

“Điều hay lẽ phải chúng không màng”
Não củn tâm hèn ngớ thật sang
Bảy ngữ tào lao ngàn đứa học
Dăm lời tán gẫu vạn thằng ham
Sờ anh lắm lộc lòng nghiêng đổ
Gặp ẻm dài chân trí đã hàng
Lý tưởng tìm đâu cùng lũ bạn
Đành mơ để được tới cung vàng.

Bảy vị ba hàm ngỡ đến sang
“Điều hay lẽ phải chúng không màng”
Từ “sư” đến “sĩ” lòe bao bạn
Với “đại” cùng “cao” lởm những hàng
Một bữa bàn sâu nào kẻ muốn
Ba ngày tiệc lớn tỉ người ham
Vì đâu Tổ quốc nghèo như vậy
Để lũ quèn dân bị mắt vàng.

Chân dài có được ngỡ rằng sang
Phẩm hạnh vùi sâu giữa suối vàng
Tiếng nghĩa câu tình bay chẳng vọng
“Điều hay lẽ phải chúng không màng”
Tâm hồn thánh thiện chê thằng tưởng
Xác thịt tanh rình giễu kẻ ham
Một phút sai lầm đem giũ bỏ
Dù sao các ẻm vẫn khoe hàng.

Thịt bẩn rau già lẫn thứ sang
Đồ thiu tẩm thuốc lại ngon hàng
Ân tình xóm xã lừa anh vọng
Ái nghĩa thôn làng gạt kẻ ham
Xế đẹp nhà cao từng kẻ ngưỡng
“Điều hay lẽ phải chúng không màng”
Bao giờ hạnh phúc bừng muôn cõi
Để lũ mình ca khúc nhạc vàng.

Vui tình cõi ảo đến là ham
Nóng bỏng vài em đã lộ hàng
Xứ thẳm bao người say bỗng lại
Bên nhà mấy kẻ gạ vừa sang
Nào ai muốn được về tiên tổ
Lắm gã đành thôi ở mộng vàng
Lạc lõng lầm than tìm bến ngỏ
“Điều hay lẽ phải chúng không màng”

Sông Lam, 16.01.2015

**********************************

36 – BÁT CÚ PHÂN MINH:

Là bài thơ bát cú mà 8 câu, mỗi câu đều có phụ âm (nguyên âm) đầu giống nhau. Chú ý ở thể này, các chữ T-TR-TH, hoặc C-CH,… phân biệt nhau.

Ví dụ:

BỆNH TƯƠNG TƯ
(Bát cú phân minh, độc nữu)

Tại tình tồi tệ tựa tàn tơ
Tán tỉnh tương tư tám tỉ tờ
Thổn thức thuê thùa than thấy thánh
Thầm thì thệ thốt thở thành thơ.
Trong trời trắc trở trăm trần trụi
Trên trán tràn trề triệu trống trơ
Tức tưởi tim tôi tiều tụy tái
Thì thôi thủng thẳng thử theo thờ.

Sông Lam, 25.11.2015

37 – NGŨ ĐỘ THANH:

Là bài thơ phải là chính luật, trong mỗi câu phải có đủ 5 thanh dấu, các thanh trắc phải khác nhau và các thanh bằng giống nhau phải đặt ở vị trí không gần nhau. Các vận cuối cũng thanh dấu cũng khác nhau.

Ví dụ:

KHÓ

Tán tỉnh Thùy Linh ngẫm phạc phờ
Nhưng nàng mãi vậy cứ làm ngơ
Nhiều đêm ngóng đợi tâm mòng mỏi
Lắm buổi chờ mong dạ thẫn thờ
Thổn thức tàn canh mà vẫn mộng
Âu sầu hết bữa lại còn mơ
Gầy hao thể xác vì si hận
Cũng chẳng tròn duyên rạng bến bờ!

Sông Lam. 31.03.2016

38 – THƠ VẦN TRẮC

Trong thơ vần trắc cũng có 2 loại: luật trắc vần trắc và luật bằng vần trắc

– Ví dụ về luật trắc vần trắc:

VĨNH BIỆT NÀNG THƠ

Vĩnh biệt nhân tình nơi chốn ảo
Từ nay bỏ lại miền huyên náo
Từng hôm hẹn biển cũng xin từ
Những buổi thề non đành biệt cáo
Bậu ở tìm vui với thị thành
Anh về sống ngụ bên điền thảo
Xa nàng bẻ bút gãy vần thơ
Chót dại yêu rồi em hãy bảo!

Sông Lam, 02.03.2016

– Ví dụ về thơ luật bằng vần trắc:

HUỆ NHẪN

Am tường đạo lý chừng ba cõi
Cố gắng trau dồi không mệt mỏi
Chửa biết ngay thì mở sách xem
Chưa rành lập tức sang thầy hỏi
Về sau sự hiểu tất đâu lùi
Trọn kiếp điều hay rồi cũng giỏi
Khó nhọc gian truân nguyện chẳng nề
Tâm hồn hỷ lạc cho dù đói.

Huệ Nhẫn Sông Lam, 31.03.2016

* Huệ Nhẫn:
– Huệ: trí huệ, trí tuệ, tuệ minh, chiếu thấy (bát – nhã)
– Nhẫn: kiên trì, cố gắng không mệt mỏi

**********************************

39 – THỦ VĨ THOÁI HOÀN XA LUÂN:

Là thể thơ mà trong mỗi câu, từ đầu câu và từ cuối câu giống nhau, và câu cuối lại lặp lại câu 1 như thủ vĩ ngâm.

Ví dụ:

OAN

Oang cả làng face tiếng chửi oang
Oan mà bọn nó bảo không oan!
Ọa ui phía đó ran lời ọa
À úi đàng kia rộn tiếng à!
Á hự ai người vang ngữ á
Oa hừ mấy kẻ vọng từ oa?
Oán mà chẳng thể than rằng oán
Oang cả làng face tiếng chửi oang!

5.4.15————-Phong Trần

**********************************

40 – VẤN – ĐÁP:

Là bài thơ mà có 2 nhân vật, một người hỏi và 1 người trả lời.

Ví dụ:

TRỜI HỎI – TÁO TRÌNH

Ngọc Đế:

Gọi Táo vào đi trẫm hỏi này
Dương trần chuyện cũ tấu trình ngay
Năm rồi thắng lợi sao thì bẩm
Tháng đã tồn hư đặng tỏ bày!

Táo trình:

Thiên Hoàng đã gọi Táo trình ngay
Chuyện cũ vừa qua khổ chất đầy
Vận nước Tàu Trung còn để bẫy
Lòng dân Cẩu Tặc vẫn chia bầy
Ngày vui vỏn vẹn như chừng ấy
Buổi nhọc dồi dư ngỡ thế này
Ngẫm thật tình kia mà phải xót
Trên trời Ngọc Đế cũng nào hay ?

Ngọc Đế:

Lão Táo khanh đà hỏi đặng hay
Ta mời bậu tỏ những lời ngay
Xin đừng úp mở đau lòng trẫm
Cụ thể như nào nói rõ đây !

Táo thưa:

Kính bẩm trời cao trọn nỗi này
Năm rồi xã hội lắm phiền thay
Ngoài khơi lũ Khựa luôn dòm ngó
Giữa nước dân mình lại trả vay
Tế sự lừa nhau còn bỏ ngõ (1)
Môi trường nhiễm bẩn lại tàn cây (2)
Nên là nóng, lạnh rồi mưa bão (3)
Chỉ mệt anh nghèo mãi trắng tay.
Chỉ mệt anh nghèo mãi trắng tay
Ngài gieo giá lạnh khổ thân gầy
Gian tà thịt bẩn tuồn như bão
Ác quỷ hoa Tàu vãi tựa mây (4)
Nước ngọt ruồi bâu vùi kẻ lẫn (5)
Duyên tình chó gặm bủa thằng ngây (6)
Còn bao chuyện nữa trình sao hết
Kính bẩm trời cao trọn nỗi này !

Ngọc Đế:

Bao điều Táo ngỏ trẫm đà hay
Đón Khỉ chào Dê chạnh nỗi này
Chuyện cũ qua rồi xin dứt bỏ
Mong rằng buổi mới vạn niềm may !

Sông Lam, 01.02.2016 (23 tháng Chạp, Ất Mùi)
Chú thích:
(1) Kinh tế dậm chân
(2) Chặt phá cây
(3) Năm rồi là năm nóng nhất trong nhiều năm, nhưng cũng có đợt rét kỷ lục vừa qua
(4) Hoa quả Trung Quốc
(5) Chai nước Number One có ruồi dẫn đến người bị 7 năm bóc lịch
(6) Vì chuyện tình yêu không thành dẫn đến vụ chém chết 6 mạng người ở Bình Phước.

**********************************

41. NGŨ NGÔN BÁT CÚ

Thể này cũng giống như Thất ngôn bát cú, nhưng thay vì mỗi câu có 7 chữ mà giảm còn 5 chữ. Với 1 bài Thất ngôn bát cú chính thể, ta chỉ cần bớt 2 chữ đầu của mỗi câu là thành 1 bài Ngũ ngôn. Ngoài thể này ra còn có ngũ ngôn tứ tuyệt, bát ngôn tứ tuyệt.

Ví dụ (ngũ ngôn bát cú):

CHÚC MỪNG SINH NHẬT
(Tặng em trai Lĩnh)

Hai bốn tuổi xuân tươi
Bao mơ ước sáng ngời
Công danh rồi sẽ mãn
Hạnh phúc lại không vơi.
Sức khỏe luôn tràn ngập
Tình yêu mãi ắp bồi
Tương lai đang bước tới
Thêm ấm áp lòng người.

Sông Lam, 28.10.2015

Trên đây là một số thể loại thơ Đường luật, ngoài ra còn rất nhiều biến thể nữa, nhưng hạn chế về dung lượng của bài viết mà tác giả chỉ nêu những thể cơ bản. Bài viết còn sơ sài, tác giả cũng kính mong được sự góp ý của các thi hữu!

Nghệ An, ngày 13 tháng 05 năm 2016

Tác giả: Sông Lam

2-Các luật gieo vần, bằng trắc và luật niêm, luật đối

(1). Để viết một bài thơ, có thể theo các nguyên-tắc lần-lượt sau đây:

a-Bài thơ vần bằng thì tiếng cuối câu 1 là bằng và ngược lại. Tiếng cuối câu 1 vần với tiếng cuối các câu chẵn và ngược lại về

2 bằng trắc với tiếng cuối các câu lẻ ôm ở giữa (tức là các câu 3, 5, 7, các tiếng này không vần với nhau)b-Bài thơ luật bằng, thì hai tiếng đầu của câu 1 mở vào là bằng và ngược lại.c-Về luật bằng trắc,ta phân biệt:a.1-Đối với thơ thất ngôn:Trong câu thứ nhất, tiếng thứ3 luôn luôn trái ngược với tiếng thứ hai. ·Trong mọi câu,các tiếng thứ 2 và thứ 6 giống nhau, tiếng thứ 4 trái ngược lại: 2 = 6 ≠ 4·Riêng về các tiếng thứ 5:Nếu là bài thơ vần bằng, thì tiếng thứ 5 hai câu đầu đều là trắc, kế đó từ câu 3 trở đi, tiếng thứ 5 của mỗi câu sẽ bằng, trắc luân phiên thay đổi. Trái lại, nếu là bài thơ vần trắc, thì tiếng thứ 5 hai câu đầu đều là bằng, kế đó kể từ câu 3 trở đi, tiếng thứ 5 của mỗi câu sẽ luân phiên thay đổi trắc, bằng. a.2-Đối với thơ ngũ ngôn:Chỉ có 5 tiếng(= từ), vì tiếng thứ 5 là tiếng cuối đã tuân theo luật gieo vần rồi, nên thay vì 2 = 6 ≠ 4, thì nay chỉ còn lại tiếng thứ 2 và thứ 4 trái ngược nhau: 2 ≠ 4.Nếu là bài thơ vần bằngthì tiếng thứ 3 của hai câu đầu đều là trắc, kể từ câu 3 trở đi, tiếng thứ ba của mỗi câu sẽ bằng, trắc luân phiên thay đổi. Nếu là bài thơ vần trắc, thì ngược lại, tiếng thứ 3 của hai câu đầu đều là bằng, kế đó kể từ câu 3 trở đi, tiếng thứ 3 của mỗi câu sẽ luân phiên thay đổi trắc, bằng. d-Luật niêm:Hai câu khớp với nhau thành một cặp giống nhau về bằng trắc theo luật niêm.Niêm là dính với nhau. Có bốn cặp niêm lần-lượt trái ngược nhau từng cặp một: cặp nhất bát (câu 1 = câu 8), cặp nhị tam (câu 2 = câu 3), cặp tứ ngũ (câu 4 = câu 5), cặp lục thất (câu 6 = câu 7).

3Luật niêm không áp-dụng cho tiếng cuối câu (vì đã tuân theo luật gieo vần) và cho các tiếng thứ 5 trong bài thất ngôn hoặc thứ 3 trong bài ngũ ngôn.e-Luật đối:áp-dụng cho các cặp thực (tức câu 3, 4) luận (tức câu 5, 6). ·Hai câu thực đối với nhau, hai câu luận đối với nhau.·đối chữ và đối ý: Đối chữgồm đối thanhvà đối loại (tức tự-loại như danh-từ, động-từ, v.v...). Dĩ-nhiên, đối thanh, do luật niêm đã bó buộc, thì câu trên câu dưới bằng trắc khác nhau. Còn đối loại thì trên dưới cùng môt tự-loại như nhau. Đối ý thì ý trên ý dưới tương-ứng, cân xứng với nhau. 3-Luật bất luận và khổ-độc (1)Các nguyên-tắc về bằng trắc nói trên tóm-tắt cho tiện-lợi, dựa theo luật “nhất, tam, ngũ bất luận” đối với thơ thất ngôn (các tiếng 1, 3, 5, không cần theo đúng luật) và luật “nhất, tam, bất luận” đối với thơ ngũ ngôn (các tiếng 1, 3, không cần theo đúng luật). Tuy nhiên, tiếng thứ 3 các câu chẵn và tiếng thứ 5 các câu lẻ trong bài thất ngôn nếu không theo đúng luật, đáng bằng mà đổi là trắc, hay đáng trắc mà đổi là bằng, thì đọc không êm tai gọi là khổ-độc Cũng vậy, tiếng thứ nhất của các câu chẵn và tiếng thứ ba của mọi câu trong bài ngũ ngôn, nếu không theo đúng luật mà đáng bằng đổi là trắc, đáng trắc đổi là bằng, bài thơ thành khổ độc.·Dưới đây là 2 bảng minh-hoạhai bài thất ngôn bát cú luật trắc vần bằng và luật bằng vần bằng. Dựa theo các tóm-lược trên, độc-giả tuần-tự viết thành các bài vần trắc và các loại thơ ngũ ngôn. ·Mô-hình luật bằng trắc trong thơ ngũ ngôngiống như mô-hình của bàibát cú bỏ đi các cột tiếng thứ nhất và tiếng thứ hai (tức là gồm các cột 3, 4, 5, 6,7 của bài bát cú nay thành 1, 2, 3, 4, 5 của bài ngũ ngôn)

4Minh-hoạ 1: bài thơ thất ngôn bát cú luật trắc, vần bằng

B-Thơ tứ-tuyệt, một biến-thể của thơ Đường-luật bát cú

Luật thơ do cách ngắt bài thơ bát cú mà ra. Gọi là tứ-tuyệt vì coi như một bài bát cú dứt (= tuyệt) ra làm 4 câu. Có hai cách ngắt:a-Nếu ngắt ở giữa bài, ta được hai bài tứ-tuyệt theo luật bát cú áp-dụng chonhững câu:·1, 2, 3, 4·5, 6, 7, 8b-Nếu ngắt ở câu 2 và câu 6, ta được hai bài tứ-tuyệt theo luật bát cú áp-dụng cho những câu:·2 câu đầu và 2 câu cuối·2 câu thực và 2 câu

 http://doquangvinhvenguon.com/uploads/3/4/8/2/34828795/tho_duong_luat_newest.pdf 

 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét