Thứ Hai, 4 tháng 8, 2025

ĐỊA DANH THỌ XƯƠNG Ở HUẾ VÀ HÀ NỘI Bs Phan Thượng Hải biên soạn

 ĐỊA DANH THỌ XƯƠNG Ở HUẾ VÀ HÀ NỘI
Bs Phan Thượng Hải biên soạn

a) Từ Thọ Xương ở Huế đến Thọ Xương ở Hà Nội
Khi xưa, ông Phạm Quỳnh sau khi từ Hà Nội vào thăm kinh đô Huế (vào đầu thế kỷ 20) thì có truyền bá 2 câu thơ Ca Dao (?):

Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương.
(Ca Dao)

Đến thời VNCH thì thành ra 4 câu:
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương
Thuyền về xuôi mái sông Hương
Biết đâu tâm sự đôi đường đắng cay.
(Ca Dao)

Nhưng cũng đến thời VNCH có nhiều học giả không đồng ý với ông Phạm Quỳnh mà cho rằng Thọ Xương ở kinh đô Thăng Long (Hà Nội) chứ không có ở kinh đô Huế. Địa danh này đã có trước đó nhiều thế kỷ qua 4 câu ca dao ở Bắc Hà:

Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ.
(Ca Dao)

Chú thích:
Có bản viết là “là đà” thay vì là “la đà”.
Đền Trấn Vũ, huyện Thọ Xương và làng Yên Thái (làng Bưởi chuyên về làm giấy ở tây bắc Hà Nội) đều ở Thăng Long. Huyện Thọ Xương ngày nay gồm quận Hoàn Kiếm, quận Hai Bà Trưng và 1 phần của quận Đống Đa của Hà Nội.
Lại có người cãi là 4 câu thơ của Vân Đình Dương Khuê (cuối thế kỷ 19):

Phất phơ ngọn trúc trăng tà
Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương
Mịt mùng khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái mảnh gương Tây Hồ.
(Dương Khuê).

Thiển nghĩ 4 câu thơ này giống như cách hành văn của Ca dao (theo thể Lục bát) hơn là của một thi sĩ tài hoa thường thấy dùng thể thơ Đường Luật hay Hát Nói như Dương Khuê với cách hành văn theo lối khác.
b) Thọ Xương ở Hà Nội (Thăng Long)
Như vậy có địa điểm và địa danh “Thọ Xương” ở Thăng Long Hà Nội với 2 câu thơ:

Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương.

Điều này được chứng thực chắc chắn nhờ Đại Nam Nhất Thống Chí.
Đại Nam Nhất Thống Chí của Quốc Sử Quán của triều Nguyễn viết về Hà Nội (trong thời nhà Nguyễn):
Huyện Thọ Xương: Thời thuộc nhà Minh là huyện Đông Quan. Đến đời nhà Lê (Lê Quang Thuận) gọi là huyện Vĩnh Xương, sau đổi tên là Thọ Xương cho đến ngày nay. Năm Minh Mạng thứ 12 mới đặt tri huyện thuộc phủ Hoài Đức; lãnh 8 tổng và 115 thôn phường.
Quán Chân Vũ: ở phường Thụy Chương huyện Vĩnh Thuận, thờ Trấn Thiên Chân Vũ Đại đế, dựng đời Lê Vĩnh Trị; lại đúc tượng đồng cao 8 thước 2 tấc, chu vi 8 thước 7 tấc, nặng 6.000 cân; rất linh ứng. Nguyên tên là quán Trấn Vũ, bản triều năm Minh Mệnh thứ 2, vua Bắc tuần cho 50 lạng bạc, năm thứ 21 đổi tên hiện nay (là quán Chân Vũ), sai quan đến tế, tặng một cái áo nhung vàng; năm Thiệu Trị thứ 2, nhà vua Bắc tuần, đến thăm cho một đồng kim tiền lớn, tặng một cái áo nhung vàng, lại cấp cho biển đồng khắc một bài thơ và một câu đối thêu.
Quán Huyền Vũ: ở phường Đồng Xuân huyện Thọ Xương, thờ Huyền Thiên Đế quân; đời Lê dựng, năm Thiệu Trị thứ 7 sửa lại, có bia đá vẫn còn.
Như vậy có quán Trấn Vũ (Chân Vũ) nhưng ở huyện Vĩnh Thuận còn ở huyện Thọ Xương có quán Huyền Vũ. Quán là nơi thờ phượng Thần Tiên của Lão Giáo (Đạo Giáo) cũng như Tự (Chùa) là nơi thờ phượng Phật và Bồ Tát của Phật Giáo.
c) Thọ Xương ở Huế
Từ đó mới có câu hỏi: có địa điểm và địa danh “Thọ Xương” ở Huế hay không, như câu thơ:

Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.

Trong sách "Đất Việt Trời Nam" thời VNCH, ông Thái Văn Kiểm cho là địa danh "Long Thọ cương" (Cương, cang = Phần nổi cao ở giữa núi, Sống núi, gò núi; và Long Thọ là tên của nó) ở bên kia sông (Hương) của chùa Thiên Mụ được dùng trong câu thơ của xứ Huế chứ không phải "Thọ Xương". Theo ông Thái Văn Kiểm thì 2 câu thơ phải là:

Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương.
(Ca dao)

Theo ông Thái Văn Kiểm vì có sự sai lầm nên đã dùng “Thọ Xương” cho “Thọ Cương” trong 2 câu thơ cũ, chứ không có địa điểm và địa danh Thọ Xương ở Huế.
Đầu năm 2020 trong khi đến thăm chùa Thiên Mụ thì anh Hướng dẫn viên người Huế khẳng định là bên kia sông (Hương) của chùa Thiên Mụ là gò Long Thọ, giống như ông Thái Văn Kiểm đã viết.

Tuy nhiên, người Huế vẫn cố gắng dùng “Thọ Xương” trong câu thơ chứ không thích “Thọ Cương” như của ông Thái Văn Kiểm, nhất là “Thọ Cương” cho “Long Thọ cương” có vẻ gượng ép vì: Cương (Cang) là danh từ chung có nghĩa là Gò núi còn Long Thọ mới chính là tên (địa danh), là danh từ riêng, như “Thọ Xương”.
Có 2 tài liệu được đưa ra cho rằng có 2 địa điểm và địa danh mang tên Thọ Xương ở Huế:

1) Có kho lúa Thọ Xương thời chúa Nguyễn. Tuy nhiên kho lúa Thọ Xương này ở huyện Phú Vang. Vì địa điểm ở huyện Phú Vang nên chắc chắn kho lúa không ở gần hay bên kia sông (Hương) của chùa Thiên Mụ.

2) Có Thọ Xương Sơn (Núi Thọ Xương) trong 1 đơn kiện cáo thời vua Gia Long. Tuy nhiên núi Thọ Xương này ở huyện Hương Trà theo như trong đơn kiện đã viết, khó có thể biết ở gần hay bên kia sông (Hương) của chùa Thiên Mụ hay không. Hơn nữa trong những ngọn núi ở Huế không có núi Thọ Xương.
Hai tài liệu này không chứng thực được Thọ Xương phải là địa điểm ở rất gần chùa Thiên Mụ để có thể nghe được cả 2: “tiếng chuông” (Thiên Mụ) và “canh gà” (Thọ Xương) như 2 câu thơ:

Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.

Sách Đại Nam Nhất Thống Chí giải đáp được thắc mắc này: thật sự có Thọ Xương ở bên kia sông (Hương) của chùa Thiên Mụ.
Đại Nam Nhất Thống Chí của Quốc Sử Quán của triều Nguyễn viết (nguyên văn) về Huế (trong thời nhà Nguyễn):
- Chùa Thiên Mụ (trang 82-84, tập 1):

Ở trên gò xã An Ninh ở phía tây ngoài kinh thành. Trước kia trên gò vẫn có chùa thờ Phật, sau nhân loạn lạc, bỏ nát; năm Gia Long thứ 14 dựng lại, chính giữa là điện Đại Hùng; mặt sau tả hữu đều dựng một nhà bếp, lại sau nữa là điện Di Lặc, lại sau nữa là điện Quan Âm, phía hữu sau điện là lầu Tàng thư; mặt trước điện Đại Hùng, phía đông và phía tây đều dựng một điện Thập vương, về phía tả và phía hữu, đều dựng một Lôi gia; lại chính giữa mặt trước là nghi môn, trên cửa có lầu, tả là lầu chuông, hữu là lầu trống, ngoài cửa lầu phía tả là nhà sáu góc, dựng bia, phía hữu là lầu sáu góc, treo chuông lớn, xung quanh xây tường gạch, có bốn cửa.

Năm Thiệu Trị thứ 3 tập thơ Thánh chế vịnh 20 cảnh Thần kinh, có một bài đầu đề là “Thiên mụ chung thanh”, khắc vào biển đồng. Năm Thiệu Trị thứ 5, lại ở chỗ chính giữa ngoài cửa nghi môn xây một cây tháp, cao 5 trượng 3 thước 2 tấc, gọi là bảo tháp Phúc Duyên, tháp có 7 tầng đều thờ Phật Thế tôn mình vàng; phía trước tháp là đình Hương Nguyện, trên đình đặc pháp luân, theo gió vẫn chuyển; lại ở tả hữu đều dựng một nhà bia, mặt trước trông ra sông Hương, trên bờ dựng cột hoa biểu.

Kính xét: Thái Tổ Gia Dụ Hoàng đế năm Tân Sửu thứ 44, Chúa thượng đến xã Hà Khê, nay là xã An Ninh thấy đồng bằng nổi đất cao như hình con rồng ngảnh đầu trông lại, phía trước trông ra sông cái phía sau liền với hồ, phong cảnh đẹp tốt; nhân hỏi người địa phương, họ nói gò này rất thiêng. Tương truyền ngày trước có người trông thấy một mụ già mặc áo đỏ quần xanh, ngồi trên gò nói: “phải có chân chúa dựng chùa ở đây mà thu góp khí thiêng để giữ vững long mạch”. Nói xong thì biến mất nên gọi là núi Thiên Mụ. Chúa thượng bèn dựng chùa gọi là chùa Thiên Mụ. Thái Tông năm Ất Tị thứ 17 sửa lại; Hiển Tông năm Canh Dần thứ 19 đúc chuông lớn, năm Giáp Ngọ thứ 23 lại sửa lại. Qui chế từ cửa chùa vào là điện Thiên vương, điện Ngọc Hoàng, bảo điện Đại Hùng, nhà Thuyết pháp, lầu Tàng kinh, điện Thập vương, nhà Thủy Vân, nhà Tri vị, điện Đại Bi, điện Dược Sư, nhà tăng nhà thiền vài mươi sở; phía sau chùa dựng các sở tỉ da viên và phương trượng cũng hơn vài mươi sở. Năm Ất Mùi thứ 24 Chúa thượng thân làm văn bia khắc vào đá dựng ở trước chùa. Bờ sông thì dựng đài cầu, Chúa thường thân đến chơi. Lễ bộ Đặng Đức Siêu còn ghi chỗ cũ, chuông lớn và bia đá hiện nay vẫn còn.
- Đình Long Thọ Cương (trang 85, tập 1):
Ở xã Nguyệt Biều thuộc huyện Hương Thủy, gò gối bờ phía nam sông Hương, đối diện với núi Thiên Mụ ở bên kia sông, trước gọi là kho Thọ Khang Thượng. Tương truyền trước kia trên gò có nhà, từng rước tử cung Anh tông, Hiển tông, Túc tông và Thế tông để tạm ở đấy. Sau trải qua loạn lạc, nhà bị bỏ, đầu niên hiệu Gia Long đổi tên làThọ Xương; năm Minh Mệnh thứ 5, đổi tên là Long Thọ Cương, dựng nhà bát giác ở trên gò cho tên hiện nay (đình Long Thọ Cương), lại dựng bia gây việc để lưu thắng tích.
Như vậy thật sự có địa điểm và địa danh Thọ Xương đúng theo 2 câu thơ:

Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.

Và như vậy, 2 câu thơ này có từ người địa phương của Huế có thể dùng để cạnh tranh đối đầu với 2 câu thơ của người địa phương của Hà Nội (Thăng Long). Cả hai đều có giá trị, một cho Hà Nội Thăng Long và một cho Huế.
d) Kết Luận: Từ Thọ Xương ở Hà Nội đến Thọ Xương ở Huế
Có những câu thơ cho Thăng Long Hà Nội đúng với địa điểm và địa danh Thọ Xương ở đây, từ người Hà Nội (Bắc Hà, Đàng Ngoài):

Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ.
(Ca Dao)

Và từ đó cũng có những câu thơ cho Huế đúng với địa điểm và địa danh Thọ Xương ở đây, từ người Huế (Nam Hà, Đàng Trong), có lẽ dùng để cạnh tranh với Thăng Long Hà Nội:

Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương
Thuyền về xuôi mái sông Hương
Biết đâu tâm sự đôi đường đắng cay.
(Ca Dao)

Cả hai đều được người địa phương yêu mến và trân trọng: Thọ Xương với đền Trấn Vũ và Hồ Tây của Thăng Long Hà Nội cũng như Thọ Xương với chùa Thiên Mụ và Sông Hương.
Bs PHAN THƯỢNG HẢI Tôi viết lại bài viết này hy vọng quý vị người Hà Nội (và Đàng Ngoài) cũng như quý vị người Huế (và Đàng Trong) đều bằng lòng.

* Tài liệu tham khảo:
- Đại Nam Nhất Thống Chí (Quốc Sử Quán Triều Nguyễn)
- Đất Việt Trời Nam (Thái Văn Kiểm)
- Related Google Articles.

- https://nghiencuulichsu.com/2017/04/24/dia-danh-tho-xuong-o-dau/
- https://huengaynay.vn/doi-song/canh-ga-tho-khuong-67324.html
Ảnh minh hoạ: nguồn từ internet.

 




 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét