Thứ Sáu, 14 tháng 4, 2023

THƠ VÀ SỬ VIỆT -NGUYỄN CÔNG TRỨ VÀ CAO BÁ QUÁT (P. I) Phan Thượng Hải

THƠ VÀ SỬ VIỆT -NGUYỄN CÔNG TRỨ VÀ CAO BÁ QUÁT (P. I)

 Bs. Phan Thượng Hải biên soạn


 PHẦN i - NGUYỄN CÔNG TRỨ:
Nhà Nguyễn có 2 Thi sĩ và Nho sĩ tiêu biểu vào đầu thế kỷ thứ 19 là ông Nguyễn Công Trứ và ông Cao Bá Quát. Hai ông đã góp phần đặc sắc cho Thơ và Sử của nước ta.
Nguyễn Công Trứ

Làm Quan:
Ông Nguyễn Công Trứ (1778-1858) làm quan từ năm 1820 đến năm 1847 dưới 2 triều vua Minh Mạng (1820-1840) và Thiệu Trị (1840-1847).
Ông đậu Giải Nguyên ở Nghệ An (1819) lúc 41 tuổi.
Đường hoạn lộ rất thăng trầm có lúc làm tới Tổng Đốc (Hải An Tổng Đốc gồm 2 tỉnh Hải Dương và Kiến An tức là Hải Phòng bây giờ) và Thượng Thư (Binh Bộ Thượng Thư) nhưng có lúc làm lính thú ở Quảng Ngãi (1844).
Khi làm Tuần phủ An Giang, ông Nguyễn Công Trứ bị Nguyễn Công Nhàn vu cáo chở thuyền gian buôn bán lậu nên bị cách chức làm lính thú ở Quảng Ngãi.
Chức cuối cùng là Phủ Doãn Thừa Thiên rồi ông về hưu (1847), lúc đó 70 tuổi.
Có nhiều cuộc nội loạn thời Minh Mạng và Thiệu Trị: giặc Phan Bá Vành, giặc Lê Duy Lương, giặc Nông Văn Vân, giặc Khách ở Bắc Kỳ; giặc Lê Văn Khôi và 2 lần chiến tranh với Xiêm La ở Nam Kỳ. Tuy là khoa bảng văn nhân, ông Nguyễn Công Trứ cầm quân dẹp giặc Phan Bá Vành(1827), giặc Nông Văn Vân (1833) và giặc Khách (1835) ở Bắc Kỳ; và cầm quân trong chiến tranh Việt Xiêm (1841-1845). Ngoài ra ông Nguyễn Công Trứ còn dẹp giặc người Miên ở Trà Vinh.

Ông Nguyễn Công Trứ còn giỏi về kinh tế. Ông đắp đê lấn biển lập ấp và chiêu mộ dân nghèo về ở lập thành 2 huyện Kim Sơn (ở Ninh Bình) và Tiền Hải (ở Thái Bình).
Cuộc đời làm quan của ông Nguyễn Công Trứ là thể hiện của tình trạng quan trường và tình hình chính trị quân sự của Việt Nam dưới thời 2 vua Minh Mạng và Thiệu Trị (1820-1847).
Khi Pháp tấn công Đà Nẳng (1858), ông Nguyễn Công Trứ đã về hưu vẫn xin đi tòng quân đánh giặc (và dĩ nhiên bị vua Tự Đức từ chối). Lúc đó ông được 80 tuổi và chết cùng năm đó.
Sau nầy, vua Tự Đức có câu đối tặng ông Nguyễn Công Trứ:
Tả hữu nghi văn nghi võ
Tử sinh danh tướng danh thần

Kẻ Sĩ
Nhân sinh quan của ông Nguyễn Công Trứ là điển hình lý tưởng “Kẻ Sĩ” của Nho Giáo với 3 giai đoạn: (1) trước khi, (2) trong khi và (3) sau khi làm quan.

KẺ SĨ

Nhập Đề:
Tước hữu ngũ Sĩ cư kỳ liệt
Dân hữu tứ Sĩ vi chi tiên
Có giang sơn thì Sĩ đã có tên
Từ Chu Hán vốn Sĩ nầy là quý

Thân Bài:
- Trước khi ra làm quan (Lúc Vị Ngộ):
Miền hương đẳng vẫn khen rằng hiếu nghị
Đạo lập thân phải giữ lấy cương thường
Khí hạo nhiên chí đại chí cương
So chính khí đã đầy trong trời đất
Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất
Hiu hiu nhiên điếu Vị canh Sằn (*)
Xe bồ luân dù chưa gặp Thang Văn (*)
Phù thế giáo một vài câu thanh nghị
Cầm chính đạo để tịch tà cự bí
Hồi cuồng lan nhi chướng bách xuyên

- Trong khi ra làm quan (Hội rồng mây):
 
Rồng mây khi gặp hội ưa duyên
Đem quách cả sở tồn làm sở dụng
Trong lang miếu ra tài lương đống
Ngoài biên thùy rạch mũi Can Tương (*)
Làm sao cho bách thế lưu phương
Trước là Sĩ sau là khanh tướng
Kinh luân khởi tâm thượng
Binh giáp tàng hung trung
Vũ trụ chi gian giai phận sự
Nam nhi náo thử thị hào hùng

- Sau khi làm quan (Thú nhàn dật):
Nhà nước yên thì sĩ được thong dong
Bấy giờ Sĩ mới tìm ông Hoàng Thạch (*)
Năm ba chú tiểu đồng lếch thếch
Tiêu dao nơi cùng cốc thâm sơn
Nào thơ nào rượu nào địch nào đờn
Đồ thích chí chứa đầy trong một túi
Mặc ai hỏi mặc ai không hỏi tới
Ngẫm sự đời mà ngắm kẻ trọc thanh

Kết Luận:
Nầy nầy Sĩ mới hoàn danh.
Chú thích:
Khương Tử Nha (Lã Vọng) câu cá ở sông Vị Hà. Nghiêm Tử Lăng cày ruộng ở đất Sằn.
Vua Thành Thang và vua Chu Văn Vương rước người hiền bằng xe có bánh “bện cỏ bồ” (đi cho êm). Vua Thành Thang rước ông Y Doãn, vua Chu Văn Vương rước Khương Tử Nha. Nghiêm Tử Lăng từ chối không ra làm quan với vua Hán Quang Vũ Đế nhưng là thầy của vua (cho ý kiến mà thôi).
Can Tương và Mạc Tà là 2 thanh kiếm bén nhứt thời Xuân Thu.
Hoàng Thạch Công là ông Tiên dẫn Trương Lương đi tu sau khi giúp Hán Lưu Bang thắng Hạng Vũ.
Tuy nhiên thực tế thì không phải vậy. Sự khác biệt với lý tưởng Nho Giáo (của bài Kẻ Sĩ) cho thấy từ 4 bài thơ liên hoàn tự vịnh của Nguyễn Công Trứ, tả lại cuộc đời thực sự của mình (nếu so sánh với bài Kẻ Sĩ).

- Lúc vị ngộ chưa ra làm quan:
(Lúc vị ngộ)
Miền hương đẳng vẫn khen rằng hiếu nghị
Đạo lập thân phải giữ lấy cương thường
Khí hạo nhiên chí đại chí cương
So chính khí đã đầy trong trời đất
Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất
Hiu hiu nhiên điếu Vị canh Sằn
Xe bồ luân dù chưa gặp Thang Văn
Phù thế giáo một vài câu thanh nghị
Cầm chính đạo để tịch tà cự bí
Từ lý tưởng khi vị ngộ của kẻ Sĩ như cuộc đời của Khương Tử Nha và Nghiêm Tử Lăng được mô tả trong đoạn thơ trên (của bài thơ Kẻ Sĩ); cuộc đời thật sự của Nguyễn Công Trứ khi vị ngộ được ông tả trong bài 1 của bài Liên Hoàn Tự Vịnh; của ông:

QUÂN TỬ CỐ CÙNG

Chưa chán ru mà quấy mãi đây
Nợ nần dan díu mấy năm nay
Mang danh tài sắc cho nên nợ
Quen thói phong lưu hóa phải vay
Quân tử lúc cùng thêm thẹn mặt
Anh hùng khi gấp cũng khoanh tay
Còn trời còn đất còn non nước
Có lẽ ta đâu mãi thế nầy.

- Lúc ra làm quan:
(Hội rồng mây)

Hồi cuồng lan nhi chướng bách xuyên
Rồng mây khi gặp hội ưa duyên
Đem quách cả sở tồn làm sở dụng
Trong lang miếu ra tài lương đống
Ngoài biên thùy rạch mũi Can Tương
Làm sao cho bách thế lưu phương
Trước là Sĩ sau là khanh tướng
Kinh luân khởi tâm thượng
Binh giáp tàng hung trung
Vũ trụ chi gian giai phận sự
Nam nhi náo thử thị hào hùng
Từ lý tưởng làm Khanh Tướng của Kẻ Sĩ được mô tả trong đoạn thơ trên (của bài thơ Kẻ Sĩ;), cuộc đời làm quan thật sự của Nguyễn Công Trứ thể hiện qua bài 2 của bài Liên Hoàn Tự Vịnh:

HỘI GIÓ MÂY

Có lẽ ta đâu mãi thế nầy
Non sông lẩn thẩn mấy thu chầy
Đã từng tắm gội ơn mưa móc
Cũng phải xênh xang hội gió mây
Hãy quyết phen nầy xem thử đã
Song còn tuổi trẻ chịu chi ngay
Xưa nay xuất xử thường hai lối
Mãi thế rồi ta sẽ tính đây

- Lúc từ quan về hưu
(Thú nhàn dật)

Nhà nước yên thì sĩ được thong dong
Bấy giờ Sĩ mới tìm ông Hoàng Thạch
Năm ba chú tiểu đồng lếch thếch
Tiêu dao nơi cùng cốc thâm sơn
Nào thơ nào rượu nào địch nào đờn
Đồ thích chí chứa đầy trong một túi
Mặc ai hỏi mặc ai không hỏi tới
Ngẫm sự đời mà ngắm kẻ trọc thanh
Nầy nầy Sĩ mới hoàn danh.
Từ cuộc đời lý tưởng của Kẻ Sĩ sau khi hết làm quan được mô tả trong đoạn thơ trên (của bài thơ Kẻ Sĩ), cuộc đời thật sự của Nguyễn Công Trứ sau khi hồi hưu được thấy trong bài 3 và 4 của bài Liên Hoàn Tự Vịnh:

THÚ ĐIỀN VIÊN

Mãi thế rồi ta sẽ tính đây
Điền viên thú nọ vẫn xưa nay
Giang hồ bạn lữ câu tan hợp
Tùng cúc anh em cuộc tỉnh say
Tòa đá Khương Công đôi khóm trúc
Áo xuân Nghiêm Tử một vai gầy
Thái bình vũ trụ càng thong thả
Chẳng lợi danh gì lại hóa hay.

THÚ ẨN DẬT

Chẳng lợi danh gì lại hóa hay
Chẳng ai phiền lụy chẳng ai rầy
Ngoài vòng cương tỏa chân cao thấp
Trong thú yên hà mặt tỉnh say
Liếc mắt coi chơi người lớn bé
Vểnh râu bàn những chuyện xưa nay
Của trời trăng gió kho vô tận
Cầm hạc tiêu dao đất nước nầy.
Như vậy, bài thơ Kẻ Sĩ không tả trung thực cuộc đời của Nguyễn Công Trứ mà chỉ là mộng tưởng của một Nho gia?
Tương truyền rằng ngày ông về hưu (hết làm Phủ Doãn Thừa Thiên), ông Nguyễn Công Trứ cỡi chiếc xe bò tay cầm ve vẫy một tấm mo trên có viết bài thơ dưới đây chạy trước cửa các nhà quan đại thần ở kinh đô:
Xuống ngựa lên xe lọ tưởng nhàn
Lợm mùi giáng chức với thăng quan
Điền viên dạo chiếc xe bò cái
Sẵn tấm mo che miệng thế gian.
(Nguyễn Công Trứ)
Thi Sĩ
Ông Nguyễn Công Trứ là một trong những thi sĩ kỳ tài nhất của thi văn Việt Nam. Ngoài thơ Hát Nói, ông làm đủ thể thơ Đường Luật và đôi khi dùng thể Lục Bát.
- Thể thơ “Yết Hậu”:
ĐÁNH TỔ TÔM

Tổ tôm tên chữ gọi hà sào (*)
Đánh thì không thấp cũng không cao
Được thì thu cả, thua thì chạy
Nào!
(Nguyễn Công Trứ)
(*) Chú thích: Hà sào = ông tổ của con tôm
- Thể thơ chơi chữ (giống như bài thơ Rắn của ông Lê Quý Đôn):

KHẤT NỢ THUA TỔ TÔM

Thân bác văn tôi đã xác vờ (*)
Trong nhà còn biết bán chi giờ?
Của trời cũng muốn không thang bắc
Lộc thánh còn mong lục sách chờ
Thiên tử nhất văn rồi chẳng thiếu (*)
Nhân sinh tam vạn hãy còn thừa
Đã không nhất sách kêu chi nữa (*)
Ông lão tha cho cũng được nhờ.
(Nguyễn Công Trứ)
(*) Chú thích:
Bác văn: ý nói “học trò”. “Thân bác văn” là “thân học trò”.
Từ câu: “Nhất văn Thiên Tử chiếu. Tứ hải Trạng Nguyên tâm”. (Một văn chiếu vua ban ra. Bốn biển đều có ý đậu Trạng Nguyên)
Nhất sách = kế sách.

Thật ra trong bài thơ trên, mỗi câu có tên 1 con bài tổ tôm: bác văn, bán chi, không thang, lục sách, nhất văn, tam vạn, nhất sách và ông lão.

KHẤT NỢ THUA TỔ TÔM

Thân bác văn tôi đã xác vờ
Trong nhà còn biết bán chi giờ?
Của trời cũng muốn không thang bắc
Lộc thánh còn mong lục sách chờ
Thiên tử nhất văn rồi chẳng thiếu
Nhân sinh tam vạn hãy còn thừa
Đã không nhất sách kêu chi nữa
Ông lão tha cho cũng được nhờ.
(Nguyễn Công Trứ)

- Thơ Họa
Ông Nguyễn Công Trứ có một bạn trẻ là ông Nguyễn Quý Tân (1814-1858), một người đậu Tiến Sĩ ra làm quan nhưng không thích.
Đây là những bài xướng họa giữa 2 ông:
VÔ ĐỀ (Nguyên bản)                            VÔ ĐỀ (Họa)

Có nghề mà lại cậy chi nghề       Tám vạn nghìn tư thứ
ngỗng nghề
Nghề thế ai ngờ lại hóa
nghê      Thứ nghề áo mũ thứ nghề nghê
Vạn sự bất như thân cũng
hổ     Mày râu ngẫm lại lòng thêm hổ
Nhất văn vô hữu nợ còn
bê        Thư kiếm sao đành dạ bỏ
Công danh chỉ tổ khoe đồ
mã    Xanh đỏ rẻ cùi khoe tốt mã (*)
Cờ biển còn hơn của ướt sề        Phong lưu khỉ gió hót đầy sề
Bôn tẫu làm chi cho rách
gấu    Xin đừng giở thói văn chương nữa
Thà rằng ngồi đó vuốt râu
.   Bán chó sao ngoài lại thủ .
(Nguyễn Quý Tân)                               (Nguyễn Công Trứ)

(*) Chú thích: theo Tục ngữ “Tốt mã dẻ cùi”.
Đây cũng là 2 bài thơ chơi chữ. Bài xướng cố tình kể 7 con thú
(nghê, hổ, bê, mã, lợn sề, gấu và dê) bài họa kể thêm 2 con nữa (ngỗng và chó).
Khi ông Nguyễn Công Trứ được 70 tuổi:

THẤT THẬP TỰ THỌ            BẢY MƯƠI TUỔI TỰ CHÚC THỌ

(Bản Hán Ngữ)                                   (Dịch Bản Việt Ngữ)
Nhật đối nhi tào tự giải di                 Ngày cùng lũ trẻ cợt đùa chơi
Kim ngô bất tự cố ngô thì                 Quả thực ta nay khác trước rồi
Tùy cơ khối lỗi cung nhân tiếu         Múa rối mấy hồi rằng giúp nước
Trực ký niên hoa giới cổ hy               Sống lâu bảy chục cũng ơn trời
Lão thực bất kham trang diện mục Thật thà bao quản khoe mình đẹp
Anh hoa an dụng nhiễm tu tì           Tóc bạc xin đành kém vẻ tươi
Tự tàm tiên liệt hào vô trạng           Những thẹn bất tài không bác bổ
Quái sát Hồng sơn hữu thị phi.       Non Hồng thôi mặc tiếng trên đời.
(Nguyễn Công Trứ)                                    (Lê Thước dịch)


THẤT THẬP TỰ THỌ                       THẤT THẬP TỰ THỌ
      (Bản Hán Ngữ)                                   (Họa Bản Việt Ngữ)
Nhật đối nhi tào tự giải di                Bảy mươi tuổi tác vẫn nhường di (ri)
Kim ngô bất tự cố ngô thì                Mới biết xưa kia buổi thiếu thì
Tùy cơ khối lỗi cung nhân tiếu        Rượu tỉnh thơ say hồn Lý Bạch
Trực ký niên hoa giới cổ hy             Trúc cười hoa cợt thú Vương Hy
Lão thực bất kham trang diện mục Giang sơn nắm lại đôi tay khẩu
Anh hoa an dụng nhiễm tu tì           Văn võ buông ra một ngón tì
Tự tàm tiên liệt hào vô trạng           Cùng kiếp phù sinh nay dở sạch
Quái sát Hồng sơn hữu thị phi.        Dẫu ai tiếng thị với lời phi.
(Nguyễn Công Trứ)                              (Nguyễn Quý Tân)

Lần đầu tiên và là lần cuối cùng có người dùng thơ Việt Ngữ để họa thơ Hán Ngữ như ông Nghè Nguyễn Quý Tân?
Ông Nguyễn Công Trứ (1778-1858) và ông Nguyễn Du (1765-1820) là 2 thi hào của triều Nguyễn ở cùng quê tại huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Ông Nguyễn Du ở xã Tiên Điền còn ông Nguyễn Công Trứ ở xã Uy Viễn (Tuy Viễn), ngày nay là xã Châu Giang.
Đây là vùng nổi danh với sông Lam Giang và núi Hồng Lĩnh. Sông Lam Giang là hạ lưu của sông Cả chảy qua huyện Nghi Xuân ở biên giới Nghệ An-Hà Tĩnh và ra biển ở cửa Hội. Núi Hồng Lĩnh ở giữa Tx Hồng Lĩnh và 3 huyện Nghi Xuân, Cam Lộc và Lộc Hà; 1 km nam Tp Vinh (Nghệ An) và 15 km bắc Tp Hà Tĩnh.
Bs. Phan Thượng Hải.
Mời xem tiếp phần II: Cao Bá Quát.
 


THƠ VÀ SỬ VIỆT - NGUYỄN CÔNG TRỨ VÀ CAO BÁ QUÁT
Bs. Phan Thượng Hải biên soạn.
 
Nhà Nguyễn có 2 Thi sĩ và Nho sĩ tiêu biểu vào đầu thế kỷ thứ 19 là ông Nguyễn Công Trứ và ông Cao Bá Quát. Hai ông đã góp phần đặc sắc cho Thơ và Sử của nước ta.
Cao Bá Quát

Làm Quan và làm Giặc
Ông Cao Bá Quát (1809-1855) tự là Chu Thần, người huyện Gia Lâm tỉnh Bắc Ninh. Ngày nay là huyện Gia Lâm tỉnh Hà Nội.
Năm 1831: Thi Hương đậu Á nguyên ở trường Hà Nội nhưng khi duyệt quyển, bộ Lễ xếp xuống hạng chót của 20 người đậu Cử nhân.
Năm 1832: Rớt kỳ thi Hội ở Huế. Hình như ông cũng rớt 2 lần tiếp theo đó.
Năm 1841: Được quan tỉnh Bắc Ninh tiến cử vào Huế làm Hành tẩu bộ Lễ. Cùng năm đó được cử làm Sơ khảo thi Hương trường thi Thừa Thiên. Thấy có một số bài thi hay nhưng có chỗ phạm trường quy, ông với bạn đồng liêu là ông Phan Nhạ lấy son hòa với muội đèn chữa lại.
Việc bị phát giác, ông Cao Bá Quát bị giam bị tra tấn và bị kết án trảm quyết (chém đầu). Vua
Thiệu Trị sửa lại án giam hậu, giam ở Thừa Thiên.
Năm 1843: Được tạm tha nhưng bị phát phối ở Đà Nẵng.
Năm 1843-44: Theo phái đoàn Đào Tri Phú đi hiệu lực ở Indonesia (Giang Lưu Ba). Sau đó được phục chức ở bộ Lễ một thời gian ngắn rồi bị bãi chức.
Năm 1844: Về sống với vợ con ở Hà Nội. Xướng họa với thi nhân Bắc Hà như Nguyễn Văn Siêu.
Năm 1847: Được triệu vào kinh đô Huế, làm việc trong viện Hàn Lâm, chuyên về Văn thơ. Kết giao với các thi nhân ở kinh đô như Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương, Nguyễn Hàm Ninh, Đinh Nhật Thận... Ông Cao Bá Quát được mời vào Mạc Vân thi xã ( của Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương).
Tương truyền ông có 2 câu thơ về Mạc Vân Thi xã:
Ngán cho (thay) cái mũi vô duyên
Câu thơ thi xã con thuyền Nghệ An
(Con thuyền Nghệ An thường chở nước mắm vô Huế nên nặng mùi thúi)
Trong thời gian nầy có nhiều truyền thuyết văn thơ giữa vua Tự Đức và ông Cao Bá Quát.
Năm 1850: Sau 3 năm làm quan ở Huế, bị đày đi làm Giáo thụ ở Quốc Oai (Sơn Tây). Lấy cớ về quê chịu tang và từ chức.
Tương truyền ông có 2 câu đối:
Nhà trống ba gian, một thầy một cô một chó cái
Học trò dăm đứa, nửa người nửa ngợm nửa đười ươi
Năm 1854: Phò Lê Duy Cự (dòng dõi nhà Hậu Lê) nổi loạn ở Mỹ Lương thuộc vùng Sơn Tây. Cao Bá Quát làm Quốc sư.
Đây là 2 câu đối cho quân khởi nghĩa của Cao Bá Quát:
Bình Dương Bồ Bản vô Nghiêu Thuấn
Mục Dã Minh Điền hữu Võ Thang
Năm 1855: Đem quân tấn công huyện lỵ Yên Sơn lần thứ nhì. Yên Sơn là phủ lỵ của phủ Quốc Oai (ngày nay là thị trấn Quốc Oai, huyện Quốc Oai). Khi đánh nhau với quân triều đình dưới quyền lãnh đạo của Phó Lãnh Binh Sơn Tây Lê Thuận ông Cao Bá Quát bị Suất Đội Đinh Thế Quang bắn chết tại trận. Vua Tự Đức cho đem thủ cấp của Cao Bá Quát bêu và rao khắp các tỉnh Bắc kỳ. (Đại Nam Thực Lục Chính Biên).
Dòng họ Cao bị tru di tam tộc, trong đó có anh song sinh với Cao Bá Quát là Tri huyện Nông Cống Cao Bá Đạt. Ông Cao Bá Đạt tự tử.
Truyền thuyết khác không đúng theo chính sử cho rằng ông Cao Bá Quát bị Lê Thuận bắt, giải về Hà Nội, đưa vào Huế rồi cuối cùng bị chém đầu.
Trong thời gian nầy, ông có 2 câu đối nổi danh:
Một chiếc cùm lim chân có đế
Ba vòng dây xích (xích sắt) bước còn vương
Ba hồi trống giục đù cha kiếp
Một nhát gươm đưa đéo (bỏ) mẹ thời (đời)
(Ông Cao Bá Quát)

Thi sĩ
Cao Bá Quát là một Thi sĩ kỳ tài. Ông để lại 1353 bài thơ và 21 bài văn xuôi. Ngày nay hậu thế còn giữ tất cả 275 bài thơ.
Đại đa số là những bài thơ Hán ngữ dùng thể thơ Đường Luật (đại đa số) và Cổ Phong. Ông dùng thể Đường luật Thất ngôn bát cú là nhiều nhất, tuy cũng có dùng thể Đường luật Tứ tuyệt và Đường luật Ngũ ngôn. Còn lại thiểu số là những bài thơ Việt Ngữ dùng thể thơ Hát Nói và chỉ có 1 bài theo thể Lục Bát. Ngoài ra ông Cao Bá Quát còn họa thơ rất nhiều, tiếc là thường thì không có nguyên bản. Điều lạ là không thấy bài thơ xướng họa nào với các thi nhân trong Mạc Vân thi xã.
Thơ của ông Cao Bá Quát có rất nhiều điển cố kể cả điển cố từ thơ (Kinh Thi hay Đường thi). Đề tài trong thơ của ông rất bao quát và sâu rộng.
Trong lịch sử đời ông thường có những câu đối hay những giai thoại văn chương rất bình dân nhưng qua những bài thơ của ông, chúng ta mới thấy ông là một người có học thức và có kiến thức cao kỳ và sâu sắc hơn nhiều.

- Đây là bài thơ ông làm khi nghe tin phải đi phát phối ở Đà Nẵng (1843):

LƯU VIỆN DU NGUYỆT VĂN ĐẮC TÁI PHÁT ĐÀ NẲNG, THỊ DẠ ĐỒNG VŨ HOÀI PHỦ THỐNG ẨM
(Ở viện hơn một tháng, được tin lại phải phát phối đi Đà Nẵng, đêm ấy cùng ông Vũ Hoài Phủ uống rượu thật say)
Thử sinh quy lộ chuyển du du Từ nay biền biệt đường về
Lão khứ văn chương bất tự mưu Tuổi già chữ nghĩa khó bề lo thân
Trục khách dĩ an tiều tử cước Phận tiều trốn khách bình thân
Thi ông nhưng thị phối quân đầu Nghiệp thơ tướng lính gian truân
lưu đày
Hương kiều phong vũ nan vi dạ Hương Kiều mưa gió đêm nay
Đà Tấn vân sơn tiệm giác thu Thu về Đà Nẵng gió mây đôi miền
Tha nhật sầu tâm đãi quân ký Nhớ thương gửi bạn trọn niềm
Ngũ Khê minh nguyệt Dạ Lang chu. Ngũ Khê trăng tỏ soi thuyền Dạ
Lang.(*)

(Cao Bá Quát) (Vô Danh thị dịch)
(*) Chú thích:
Ngũ Khê và Dạ Lang chỉ những nơi rất xa ở Trung Quốc vào thời xưa, muốn ám chỉ ở đây là Đà Nẵng. Hương kiều = cầu của sông Hương ở Huế
Lý Bạch đời Đường làm thơ tiễn Vương Xương Linh bị giáng chức đi Long Tiêu có 4 câu nói tới Ngũ Khê và Dạ Lang:
Dương hoa lạc tận tử quy đề
Văn đạo Long Tiêu quá Ngũ Khê
Ngã ký sầu tâm dữ minh nguyệt
Tùy quân trực đáo Dạ Lang tê.
- Đây là 2 bài thơ sau khi được làm quan lần thứ nhì (1847-1850).
CHÍ NHẬT ĐỒNG CHÍ ĐÌNH TIỂU ẨM, TẦU BÚT THỨ VẬN
(Ngày Đông chí cùng Chí Đình uống rượu, phóng bút họa vận)

Thăng trầm hà nhật liễu Nổi chìm theo đến bao giờ
Túc tích kỷ nhân tồn Bạn xưa còn lại lơ thơ mấy người
Lão khứ khan ngô bối Bọn ta già yếu cả rồi
Sinh hoàn hạnh chúa ân (*) Ơn vua được sống may hồi về đây
Mộng tàn kinh phá úng (*) Tan mơ lòng thấy sợ thay
Thân cảm tại hy tôn Thân còn mừng tựa trong tay chén quỳnh
Mạc thán lưu quang chuyển Lo gì năm tháng qua nhanh
Tha thì đãi lập ngôn. (*) Lập ngôn có lúc trời dành cho ta.
(Cao Bá Quát) (Trương Việt Linh dịch)

(*) Chú thích:
Năm 1841, khi đang làm Sơ khảo kỳ thi Hương ở Thừa Thiên, ông Cao Bá Quát dùng muội đèn sửa lại 1 bài có chữ viết phạm húy. Việc bị lộ, ông bị kết tội xử chém nhưng được vua Thiệu Trị ân xá chỉ phải ở tù trong thời gian ngắn.
Phá úng = đập vỡ vại nước. Tư Mã Quang (1019-1086) là chính trị gia và sử gia đời Tống, hồi nhỏ chơi cùng nhóm bạn. Một đứa té vào vại nước lớn sắp chết chìm, cả bọn hoảng sợ bỏ chạy nhưng Tư Mã Quang bình tỉnh lấy gạch đập vỡ vại và cứu bạn mình.
Lập ngôn: là 1 trong 3 điều không thể mất (Tam bất hủ) trong Tả Truyện là Lập Đức, Lập Công và Lập Ngôn.

CHÍNH TẠI THUẬN NHÂN TÂM

(Chính trị cốt thuận lòng dân)
Lập chính hoàng du hoán Phép vua trị nước sáng ngời
Đồng dân đế trị khâm Chúng dân nể phục tuyệt vời đế vương
Huyền thư tam đại chính (*) Ba đời treo bảng lệnh đường
Khiết củ nhất nhân tâm (*) Nhân tâm chấn chỉnh rập khuông theo cùng
Cơ Tất tình kiêm hảo (*) Đông tây ngưỡng mộ đồng lòng
Vân nghê tứ bội thâm (*) Cầu vòng nặng móng mưa trông mây nhuần
Du phương ca Hạ ngạn (*) Mong ước vua Hạ du tuần
Vọng tuế úy Thương lâm (*) Mưa Thương mùa tốt đợi phần minh quân
Đường ấm tư nhân hóa (*) Cảm nhờ giáo hóa đức nhân
Vân sinh ngưỡng đức âm (*) Chúng dân ngưỡng mộ hồng ân của người
Khoan nhân Thang chúc võng (*) Thương dân Thang khấn lưới trời
Giải phụ Thuấn thao cầm (*) Yêu dân Thuấn gày đàn thời giải khuây
Giám cổ nghiêm tòng kỷ Tự nghiêm xét các việc nầy
Sừ gian tuyệt khổng nhâm (*) Trừ gian thần ác lại đầy thương dân
Như xuân hân thế thái Vui đời thịnh cùng đón xuân
Hàm hạ tụng quân lâm. (*) Mừng vua chăm chỉ lo dân nước cường.
(Cao Bá Quát) (Lương Trọng Nhàn dịch)
(*) Chú thích:
Huyền thư = Treo văn bản, một cách công bố pháp lệnh nơi công sở.
Nhất nhân: Theo Kinh Thư (Thái giáp hạ) có câu "Nhất nhân nguyên lương, vạn bang dĩ trinh (Một người hoàn hảo, muôn nước được yên vui). Một nước ở đây chỉ Thiên tử và muôn Nước tức là các nước Chư hầu.
Cơ Tất: Trong Nhị thập bát tú (28 ngôi sao) trên bầu trời, sao Cơ thuộc phương Đông và sao Tất thuộc phương Tây.
Vân nghê = Cầu vòng (móng trời). Mây được coi thuộc Dương và Cầu vòng thuộc Âm, Âm Dương hòa hợp tạo thành Mưa. Ở đây ý nói tâm tình của dân cũng là của vua.
Hạ ngạn = Ngạn ngữ đời nhà Hạ, trước nhà Thương. Sách Mạnh Tử (Lương Huệ vương hạ) có câu Hạ ngạn vấn: Ngô vương bất du, ngô hà dĩ hưu (Ngạn ngữ nhà Hạ nói: Vua ta không du hành, ta sao được hạnh phúc).
Vọng tuế = Mong đợi mùa màng tốt. Tả Truyện có câu: Quốc nhân vọng quân như vọng tuế (Người trong nước mong vua như mong năm được mùa).
Thương lâm = Mưa (nhà) Thương. Kinh Thư chép lời vua Cao Tông (Vũ Đinh) nhà Thương nói với Phó Duyệt, là vị Tể tướng mới được vua chọn: "Nhược tuế đại hạn, dụng nhữ tác lâm vũ (Nếu năm gặp đại hạn, dùng người làm ra mưa dầm).
Đường ấm = Bóng mát của cây Cam đường. Bài Cam Đường trong Kinh Thi tỏ lòng thương nhớ và biết ơn của dân chúng với Thiệu bá, người được Chu Văn Vương phái tới giáo hóa phương Nam. Bài được dịch ra: Bảo vệ cây Cam đường không phải chặt phá vì Thiệu bá từng dừng lại ngừng nghỉ dưới bóng mát của cây Cam đường nầy. Thiệu bá là Thiệu Công Thích, là con của Chu Văn Vương.
Vân sinh: có thể là Thương sinh = sống trong nơi rậm rạp. Thương sinh là chữ dùng trong thiên Ích Tắc của Kinh Thi: Đế quang thiên hạ, chí hải ngung thương sinh (Đức của Vua sáng khắp thiên hạ, đến cả người sống trong nơi rậm rạp).
Thang chúc võng = (Vua) Thang khấn lưới. Theo Sử ký của Tư Mã Thiên, vua Thang (Thành Thang) ra đồng nội, thấy người ta căng lưới bốn mặt (bắt chim muông) thì vua khấn: từ bốn phương đất trời hãy lọt vào lưới của ta rồi vua mở 3 mặt của lưới (để thả) và khấn: Dục tả, tả. Dục hữu, hữu. Bất dụng mệnh, nãi nhập ngô võng (Muốn sang trái, hãy cứ sang trái. Muốn sang phải, hãy cứ sang phải. Muốn bỏ mạng, hãy vào lưới ta). Chư hầu biết chuyện đều khen rằng: Đức vua Thang thật lớn, đến cả chim muông (Vua Thành Thang có đức lớn đã mở lưới thả chim).
Giải phụ: theo điển tích có nghĩa là "Giải bỏ bực dọc, tăng lên tài sản". Trong bài Nam Phong của Kinh Thi về chuyện vua Thuấn có câu: "Nam phong chi huân hề, khả dĩ giải ngô dân chi uẩn hề. Nam phong chi thì hề, khả dĩ phụ ngô dăn chi tài hề& quot; (Gió Nam ấm áp chừ, có thể giải bực dọc của dân ta. Gió Nam đúng thời chừ, có thể tăng của cải dân ta).
Khổng nhâm = Đại gian nịnh. Có từ câu của Kinh Thư: Hà úy hồ sảo ngôn lệnh sắc, khổng nhâm (Sợ gì bọn khéo nói có sắc đẹp, đại gian nịnh).
Hàm hạ = Cả nước. Tấn thư có câu: "Quần lê hân đới, Hàm hạ đồng khương (Dân chúng vui mừng xúc động, Cả nước đều phồn vinh).
Quân lâm = Vua đến (với Dân). Từ ngữ từ câu trong Tả Truyện ca ngợi vua nước Sở: Hách hách Sở quốc chi quân lâm chi (Nước Sở cường thịnh, vua đến với dân).
- Đây là bài thơ Lục Bát độc nhất của ông tả lúc phải lên đường đi làm Giáo thụ ở Quốc Oai (1850):

ĐẾN LÀNG ĐÔNG DU, ĐÊM NGỦ DỖ

Đầu sông đứng ngóng quê hương
Quê hương đâu phải dặm trường xa xôi
Cớ sao mãi chẳng tới nơi
Vừa đi vừa đứng bồi hồi làm sao

Thiếu người cáng võng, phải đâu
Cũng không chờ đợi bạn bầu những ai
Từ khi vướng lấy lụy đời
Nửa bầu máu nóng nhường vơi dần dần

Đường đời biến ảo phong vân
Việc đời ấm lạnh bao lần đổi thay
Mũ treo còn chửa hẹn ngày
Cổng sài nào biết sau này nơi nao

Nghiệp xưa vườn ruộng dăm sào
Rêu hoang cỏ dại ai nào ngó coi
Họ hàng người cũng thưa rồi
Bữa cơm dưa muối thết mời vẫn chưa

Biệt ly biết đến bao giờ
Thà im im bắt, nói ra ngại lời
Trời tây bóng đã xế rồi
Vẫn còn nấn ná quê người một thân.
(Cao Bá Quát)
- Đây là 1 trong những bài thơ Hát Nói hưởng lạc lúc ông về sống với gia đình sau khi đường
hoạn lộ thất bại (1850-1854), trước khi ông nổi loạn (1855):

UỐNG RƯỢU TIÊU SẦU

Thế sự thăng trầm quân mạc vấn
Yên ba thâm xứ hữu ngư châu
Vắt tay nằm nghĩ chuyện đâu đâu
Đem mộng sự đọ với châu thân thì cũng hệt
Duy giang thượng chi thanh phong
Dữ sơn gian chi minh nguyệt
Kho trời chung mà vô tận của mình riêng
Cuộc vuông tròn phó mặc khuôn thiêng
Gõ nhịp lấy đọc câu: "Tương tiến tửu" (*)
"Quân bất kiến Hoàng hà chi thủy thiên thượng lai
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi" (*)
Làm chi cho mệt một đời.
(Cao Bá Quát)
(*) Chú thích: Đây là câu thơ trong bài "Tương Tiến Tửu" của Lý Bạch: Quân bất kiến Hoàng hà chi thủy thiên thượng lai bôn lưu đáo hải bất phục hồi
- Đây là bài thơ Xướng Họa giữa ông Nguyễn Công Trứ và ông Cao Bá Quát vào năm 1847 khi ông Nguyễn Công Trứ được 70 tuổi. Hai bài thơ làm lúc 2 ông làm quan ở Huế.

THẤT THẬP TỰ THỌ BẢY MƯƠI TUỔI TỰ CHÚC THỌ

Nhật đối nhi tào tự giải di            Ngày cùng lũ trẻ cợt đùa chơi
Kim ngô bất tự cố ngô thì             Quả thực ta nay khác trước rồi
Tùy cơ khối lỗi cung nhân tiếu     Múa rối mấy hồi rằng giúp nước
Trực ký niên hoa giới cổ hy           Sống lâu bảy chục cũng ơn trời
Lão thực bất kham trang diện mục  Thật thà bao quản khoe mình đẹp
Anh hoa an dụng nhiễm tu tì         Tóc bạc xin đành kém vẻ tươi
Tự tàm tiên liệt hào vô trạng         Những thẹn bất tài không bác bổ
Quái sát Hồng sơn hữu thị phi.     Non Hồng thôi mặc tiếng trên đời.
(Nguyễn Công Trứ) (Lê Thước dịch)

HỌA UY VIỄN THẤT THẬP TỰ THỌ

Quần sơn nam vọng độc chi di       Non Nam nhìn tới mỉm đôi môi
Dao tưởng tiên sinh vị lão thì          Tưởng nhớ tiên sinh lúc thiếu thời
Tự cổ anh hùng vô đại dị                 Những kẻ anh hùng riêng mỗi cảnh
Như kim xỉ đức kiến ưng hy            Mấy ai xỉ đức được như người
Thường gia thế vị chung tu tửu       Rượu nhờ tẩy sạch bao mùi tục
Cấm đoạn sương hoa bất tỳ             Râu cằm không màng những phấn bôi
Văn đạo Hồng phong dục hồi thủ    Nghe nói Hồng phong nay trở gót
Khởi ưng lục thập cửu niên phi.      Lẽ nào sáu chục chín năm sai.
(Cao Bá Quát)                                    (Vô Danh thị dịch)

- Đây là những bài thơ không khác Thơ nhà Đường của Trung Hoa với cùng 1 đề tài.
TỰ QUÂN CHI XUẤT HỶ        TỪ NGÀY CHÀNG RA ĐI

Tự quân chi xuất hỷ                  Từ ngày anh bước chân đi
Dạ dạ thủ không sàng               Đêm đêm hiu quạnh giường kia lạnh lùng
Hải nguyệt chiếu cô mộng        Trăng soi mộng lẻ canh trường
Giang phong sinh mộ lương     Gió qua bến lạnh chiều sương gợi sầu
Tiểu kính ký viễn thiếp             Gương soi anh nhớ hình nhau
Hàn y lưu cố phường                Phòng xưa áo lạnh em nào lãng quên
Trì thử các tự úy                       Ấp yêu kỷ niệm êm đềm
Bất khiển lưỡng tương vương.  Tháng năm đâu có nhạt mầm nhớ thương.
(Cao Bá Quát)                        (Lý Lãng Nhân dịch)

HỮU SỞ TƯ NỖI NHỚ

Tiểu tiểu nhân gia tử        Con ai hai đứa bé
Song song bộ ngữ trì        Vừa đi vừa thỏ thẻ
Vong tình năng hữu kỷ.   Có ai quên được tình
Ngô diệc ức ngô nhi         Ta cũng nhớ con mình
Luyến mẫu đề cơ xứ         Khi bám mẹ kêu đói
Khiên ông học bái thì       Khi níu ông học chào
Môn lan kim bán tịch      Trước nhà nay vắng vẻ
Ư nhĩ hệ tương ti.            Thấy trẻ nhớ thương sao.
(Cao Bá Quát) (Dịch)

Ông Cao Bá Quát là Thi sĩ Hán Ngữ hàng đầu trong Văn Học sử nước Việt.
Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền
Bài viết này là 1 Đoạn trong bài Thơ và Sử Việt - Nhà Nguyễn (Bs Phan Thượng Hải) đăng lần đầu trong phanthuonghai.com
Tài liệu tham khảo:
Nguyễn Công Trứ - Google Wikipedia
Cao Bá Quát - Google Wikipedia

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét