Gồm các bài viết:
3. Nắng còn trên đồi sim
2. Trở về chốn xưa
2. Trở về chốn xưa
1.Rộn ràng ngày hội ngộ
TRỞ VỀ NƠI XƯA
NẮNG CÒN TRÊN
ĐỒI SIM
Dương
Thị Bích Đào
Thùy Vân, một mình rảo bước xuống bờ biển gần ngôi
trường nàng đang học, đó là trường trung học Nguyễn Hòang nằm trong trại tạm cư
số năm Non Nước-Đà Nẵng. Nàng ngồi trên bãi biển trong một buổi chiều vắng lặng,
nhìn về cuối chân trời, với ánh nắng ngã sang màu vàng cam, màu đỏ sẩm, đẹp lạ
lùng, giữa tiếng sóng vỗ nhẹ vào ghềnh đá, vào bờ biển. Ngồi một mình nơi đây
để ôn lại những kỷ niệm của những ngày đã qua, những kỷ niệm đẹp và êm đềm, mai
đây nàng sẽ từ giã bãi biển Non Nước và không biết bao giờ nàng có dịp gặp lại,
cuộc sống ở trại tỵ nạn làm cho tâm hồn nàng lớn dần lên, những suy nghĩ lớn
hơn, nàng đứng lên và đi nhanh về trường. Tan trường, những tà áo trắng trinh
nguyên lồng lộng trong gió biển, mái tóc dài ôm kín bờ vai, chiếc cặp ôm vào
lòng, nàng đi qua phi đạo để trở về nhà.
Thời gian qua nhanh, ba tháng nghĩ hè sắp trôi qua, nàng
đang chuẩn bị mọi thứ để ra Huế học tại trường trung học Đồng Khánh năm cuối cùng
của bậc trung học vì trường Nguyễn Hòang không có giáo sư dạy môn tiếng Anh cho
học sinh ban C kề từ khi Thầy Kế qua đời khi chiếc máy bay Boeing đưa Thầy từ
Sài gòn ra Đà Nẵng bị lâm nạn. Nàng còn bao nhiêu việc phải làm, đi ra Huế nộp
học bạ xin chuyển trường, thuê phòng trọ, may thêm áo dài, đan áo len vì ngòai
Huế vào mùa Đông trời lạnh hơn, mua sách vở, rủ hai bạn cùng đi: Ngọc Anh và Kim
Cúc.
.
Thùy Vân và hai bạn thuê được một phòng trong một ngôi
biệt thự xinh xắn tọa lạc ở Phủ Cam Huế. Ngôi nhà này nằm trên con đường dài và
hẹp, gần nhà Thờ Phủ Cam. Xung quanh bao phủ bởi hàng dậu bằng cây chè tàu,
vườn trồng nhiều cây Samppuche, cây khế, cây bần
quân, đặc biệt có nhiều cây bồ kết, thân cây cao, lá nhỏ trông giống như lá me,
rũ xuống lung lay trứớc những ngọn gió thổi qua.Với nhiều tàng cây nặng trĩu
lặng lẽ vươn ra phủ xuống trên mái nhà, trên hành lang, trên lối đi, hai bên
hông nhà, những bậc tam cấp, trước hàng hiên. Có những cành cong xuống là đà
trứơc mặt bao lơn có thể đưa tay với tới, những tàng cây bồ kết làm dịu đi cơn
nắng gay gắt mùa hè. Những trái bồ kết còn xanh kết lại từng chùm, mỗi chùm
khỏang mười đến mười lăm trái, có hình dáng như trái phượng nhưng nhỏ hơn
nhiều, có nhiều hột, vào mùa này thì nó đang có màu xanh nhạt khi chín thì ngã
sang màu đen tuyền. Người dân miến Trung dùng trái bồ kết từ bao đời nay, nó
rất dễ dàng cho người phụ nữ khi gội đầu, chỉ cần bẻ nhỏ từng miếng bồ kết để
trong một cái thau, đổ ít nước nóng vào ngâm hoặc để vào thau nước phơi nắng
trong vòng ba mươi phút thì ta sẽ có nước gội đầu, hương nồng cay làm cho tóc
óng mượt và đen bóng, nó cũng còn trị dứt chứng gàu trên tóc.
Ngôi nhà được xây theo lối kiến trúc của Pháp, bằng
gạch nung đỏ, mái lợp ngói, với những cửa sổ lớn bằng kính có nhiều ô, rèm cửa
sổ màu trắng bằng vải ren, bên ngòai thêm một lớp cửa gỗ lá sách tạo cho căn
nhà ấm áp và sang trọng. Căn nhà chính có bốn
phòng ngũ rộng, đi lên bằng những bậc tam cấp, nối tiếp là bao lơn, một cửa ra vào bằng gỗ quý. Ở giữa nhà là
phòng khách với bộ ghế sopha bằng gỗ màu nâu sậm tiệp với các cánh cửa của các
phòng ngũ. Tường sơn màu trắng, trên tường treo những bức tranh cổ điển. Kế nhà
chính, là nhà bếp với những ngăn tủ* đựng đồ dùng cho việc nấu nướng và một bộ
bàn có tám cái ghế dùng làm bàn ăn, trên mặt bàn phủ một cái khăn màu ngọc trai
với những mũi thêu nổi lên những bông hoa hồng nhỏ. Đối diện với bàn ăn có một
cửa sổ rộng làm bằng kính trông ra vừờn sau nhà. Một giàn hoa thiên lý được làm
bằng tre, lọai hoa này dây leo, cây đâm nhánh tủa ra và leo lên giàn, lá nhỏ
màu xanh lục, bông hoa thơm ngào ngạt kết từng chùm nở hé nụ nhỏ màu vàng chanh
càng về khuya hương thơm tỏa đi khắp vườn, len qua khe cửa vào trong phòng mùi
hương thoang thỏang êm dịu. Đứng ở cửa sổ này có thể nhìn ra vườn rộng với
nhiều cây ăn trái, kế bên bếp là nhà vệ sinh và phòng tắm.
Nối tiếp nhà bếp bằng một hành lang dài có mái che, là một dãy nhà ngang, mái lợp tôn,
tường xây bằng gạch, có nhiều phòng mỗi phòng có cửa một cửa đi riêng và một
cửa sổ nhỏ, có lẽ trước đây dành cho những ngừơi giúp việc nhà ở, hiện nay thì
cho sinh viên thuê.
Khu vườn bên phải của ngôi biệt thự cũng có nhiều cây
dừa thân cây cao tàu lá dừa thỏng xuống, trái kết lại từng buồng. Gần hàng dậu
được trồng ít khóm thơm thi thỏang mới ra trái. Nhìn cách trưng bày của căn nhà
chứng tỏ chủ nhân là một người phụ nữ đảm đang.
Chủ nhân của căn biệt thự là chị Hà góa phụ của một
công chức sống với hai đứa con, một bé trai khỏang tám tuổi tên là: Huy, và một
bé gái năm tuổi tên là Hạnh. Chị Hà khỏang ba mươi tuổi, nhưng trông chị già
trước tuổi, đôi mắt to, với hàng my rậm có những vết quầng thâm do nhiều tháng
năm dài mất ngũ, nước da ngâm đen, mái tóc dài kẹp lại gọn gàng. Mỗi buổi sáng
trước khi đi làm chị đưa hai con vào trường học sau đó vội vã đến sở làm. Chị
làm kế tóan cho một ngân hàng tư nhân, dáng người mảnh khảnh với chiếc áo dài
màu tím hoa cà hay màu tím than, đôi khi màu đen, hiếm khi thấy chị mặc áo dài
màu sáng, có lẽ cuộc đời của chị quá u buồn khi mà cái chết của người chồng quá
cố đến một cách bất ngờ vào những năm trước.
Qua sự giới thiệu của chị Hà, nàng và hai bạn đều yên
tâm khi sống ở trong căn nhà này. Thùy Vân cùng hai bạn chuyển vào căn phòng trong ngôi
biệt thự xinh xắn, cả ba cô gái đều hài lòng với chỗ ở mới đầy đủ tiện nghi,
phòng ấm áp khi mùa đông và cũng mát mẽ khi mùa hè, khi trời mưa phùn đứng trên
bao lơn nhìn ra ngòai đường cảnh đẹp vô cùng với màn mưa giăng giăng rơi xuống
cây bồ kết, mưa giăng kín qua lối đi nhỏ vào sân vườn lát bằng bê tông sỏi,
những viên sỏi nhỏ màu trắng nhô lên, những nụ hoa hồng, hoa tường vy nở rộn
ràng trong nắng ban mai. Mỗi buổi sáng ba người bạn cùng nhau thả bộ đến trường
chỉ mất khỏang mười lăm phút, từ dốc Phú Cam qua cầu đi thẳng trên một con
đường làm bằng nhựa là đến trường.
Trường trung học Đồng Khánh Huế tọa lạc trên đường Lê Lợi, mặt tiền nhìn ra dòng sông Hương
trên một mãnh đất rộng bao bọc xung quanh với những bức tường xây bằng gạch cao
khỏang chừng hai mét quét vôi màu hồng đậm. Trường học được xây theo lối kiến
trúc Pháp với những dãy nhà lầu một tầng, một dãy lầu khỏang 12 phòng học rộng,
trần rất cao, cửa sổ kính, mái lợp ngói, sàn lát bằng gỗ dày. Có nhiều cây xanh
già cỗi theo năm tháng, những cây phượng, cây me, cây nhãn, làm bóng mát cho
sân trường… Trong sân trường có nhiều lối đi nhỏ tráng bằng xi măng, song song
những lối đi được trồng nhiều lọai hoa tùy theo mùa nở rộ, nhiều nhất là hoa
hồng, hoa tường vy, cẩm chứớng, hoa thược dược, được người phu trường chăm sóc
cẩn thận, bởi vậy ai đến thăm trường cũng tấm tắc khen ngợi, trông ngôi trường
thật đẹp và nên thơ.
Đường Lê Lợi rất rộng với những hàng me tây cao lớn,
có hai trường trung học nổi tiếng là Đồng Khánh và Quốc Học nằm song song với
nhau cùng nhìn ra bờ sông Hương với những cây phượng vỹ nở hoa rộn ràng khi mùa
hè đến, màu sắc đỏ au, rực rỡ biết bao!. Hai ngôi trường chỉ cách nhau một con
đường nhỏ, một ngôi trường dành cho nữ sinh, một trường dành cho nam sinh. Cũng
trên con đường này có Viện đại học Huế, thư viện, bệnh viện Trung Ương, trường
Đại học Luật Khoa,Trường đại học Văn Khoa và Khoa học. Cũng đi dọc theo đường
Lê Lợi này qua khỏi cầu Tràng Tiền phía bên phải là Trường Đại Học Sư Phạm,
trường Kiểu Mẫu, kế tiếp phía bên trái sát bờ sông có Khách sạn Hương Giang rất
nổi tiếng bởi vẽ đẹp kiêu kỳ của nó nằm bên dòng sông Hương lãng mạn nên
thơ.Tất cả các cơ sở này đều theo lối kiến trúc của Pháp. Con đường này là tiêu
biểu cho khu văn hóa, bên kia sông có con đường Trần Hưng Đạo, Đường Phan Bội
Châu, chợ Đông Ba tiêu biểu cho khu thương mại.
Thành phố Huế có ba cây cầu bắc qua sông Hương, Cầu
Tràng Tiền có sáu vài mười hai nhịp, sơn màu trắng bạc, cầu thứ hai, là cầu sắt
chỉ dùng riêng cho xe lửa, hai cây cầu làm từ thời Pháp thuộc, kiểu dáng theo
thiết kế của người Pháp. Để giảm bớt trọng tải cho cầu Tràng Tiên, vì nó đã bị
gãy một nhịp trong cuộc chiến năm Mậu Thân nên vào đầu thập niên 70 Huế đã có
thêm một cây cầu khác theo lối kiến trúc tân tiến hơn nhưng nó không đẹp bằng
cầu Trường Tiền gọi là cầu mới.
Trường Đồng Khánh được đặt tên của một vị vua triều
Nguyễn. Ngài lên ngôi năm 1885, lấy niên hiệu và Thụy
hiệu là Cảnh Tông-Thuần Hòang Đế,
làm vua được ba năm, mất ngày 28 tháng 1 năm 1888 vào tuổi 24 tuổi.
Mùa đông ở Huế thường thì mưa dầm và trời lạnh, cũng
rét buốt như ở Quảng Trị, nàng cùng hai bạn thường “cuốc bộ” đi học, nhiều lúc
trong cơn mưa tầm tã, nhiều lúc lạnh rét căm căm. Thùy Vân thật sự cô đơn và
trống vắng khi hai người bạn đã từ giã nàng để cùng gia đình đi định cư ở Hàm
Tân, thuộc tỉnh Bình Tuy theo chương trình di dân khai
hoang lập ấp của chính phủ dành cho đồng bào Quảng Trị đã không còn chỗ để hồi
cư. Đó là vào giữa tháng 12 năm 1973.
Mùa hè đã đến, những con ve sầu ở trên những tàng cây
trong sân trường kêu lên theo từng điệp khúc, một con ve xướng lên khúc nhạc;
thế rồi hằng ngàn con ve khác cùng đáp lại một nhịp điệu kêu lên thật lâu không
dứt tiếng, thật là ồn ào, nhiều lúc thầy phải ngưng giảng bài vì học sinh không
nghe được. Lớp học 12C2 của nàng là phòng cuối trên dãy lầu phía bên trái của
trường, cửa sổ mở rộng nhìn ra khỏang không gian bên ngòai có những cây nhãn,
cây phượng cao lên đến lớp học, lũ ve trốn trong những vỏ cây, nằm ép mình
trong những chiếc lá. Người ta nói con ve từ lúc ấu trùng nằm trong vỏ cây là
15 năm mới trưởng thành phát được tiếng kêu trong mùa hè đó….
Mùa thi Tú tài đã qua và Thùy Vân đã thi
đậu, còn nổi vui mừng nào hơn, mười hai năm, quả là một khỏang thời gian quá
dài của một người học trò cặm cụi với đèn sách, cơm áo cha mẹ cho đi học, biết
bao thứ mà cha mẹ phải lo lắng, để khỏi buồn lòng cha mẹ với quyết tâm thi đậu
tú tài nay đã đạt.
Thùy Vân trở về Thị tứ Hải Lăng, Quảng Trị, nơi gia
đình nàng về hồi cư vào đầu tháng sáu vừa qua. Đây là một bãi đất cát trắng,
không có cây xanh, người ta đổ thêm đất đỏ Ba-zan để làm những con đường chạy
song song với nhau, trên những con đường dài này, những ngôi nhà được cất lên
theo kiểu tiền chế, mái lợp tôn dợn sóng, vách bằng gỗ thông, nền nhà chưa được
tráng xi măng, nó là nền đất nên nhiều bụi bặm, nhà nàng nhìn ra đường quốc lộ
1. Đêm đêm những con đôm đốm bay lập lòe trong màn đêm tối thẩm.
Một tỉnh lỵ Quảng Trị được thu nhỏ được xây dựng lại trên vùng đất
mới gồm có chợ và trường học, cư xá công chức, chùa và nhà thờ ...
Ba nàng đã về hưu. Giờ đây ba nàng không biết làm gì
cho hết thời gian. Những ngày hè ở đây dài thê lê, nắng gay gắt, gió Lào thổi
xuống bãi cát nóng bỏng.
Mùa hè, những cơn gió Lào từ dãy núi Trường Sơn thổi xuống,
những ngọn gió nóng làm rát mặt, gió mang theo cát và hơi nóng làm cho ai cũng
không muốn ra khỏi nhà nhưng Ba nàng không chịu ngồi ở không trong căn nhà tôn
thấp và nóng, ba nàng đi lên rú để chặt gốc sim về làm củi nấu nướng, và rồi ba
chị em nàng cũng theo ba lên rú. Từ bãi cát Thị Tứ đi bộ băng qua đường Quốc Lộ
1, có một đường mòn nhỏ, theo con đường mòn này đi miết khỏang một dặm thì đến
một triền dốc rộng mênh mông tòan là những bụi sim mọc lấp xấp trên nền cát
trắng xám, bên những cây cỏ dại, mùa hè hoa sim trổ bông màu tím ngan ngát,
những cánh hoa tím bàng bạc lấp lánh sương đêm còn đọng lại đẹp vô cùng dưới
bầu trời trong xanh của buổi sáng sớm làm cho tâm hồn nàng êm ái lạ thường,
nàng hít thở không khí trong lành. Ba nàng bới những gốc sim, chị em nàng mổi
người chặt cây sim ra từng nhánh nhỏ rồi bó lại từng bó. Ba nàng mồ hôi đẫm ướt
tấm lưng, làn da vốn đã màu bánh mật nay lại càng nâu sậm hơn, các chị em nàng
đều thương và kính trọng ba.
Dưới ánh nắng chói chang của bầu trời miền Trung, trên
đôi vai nặng trĩu họ trở về nhà khi trời đã quá trưa, để lại sau lưng nắng vẫn
còn trên đồi sim, nàng thích vẻ đẹp hoang dại của núi đồi, những ngày trôi qua
trên đồi sim nàng cảm thấy vui hơn ở nhà. Cả tháng nay, cứ mỗi buổi sáng sớm
khi ánh dương vừa ló dạng cả bốn cha con lên rú, Thùy Vân và hai em hóa trang
bằng cách mặc chiếc áo lính trận màu xanh sậm, chiếc nón lá đội xụp cùng với
mạng che mặt không ai biết đó là ba chị em nàng.
Hôm nay là ngày
cuối cùng của một tháng chặt củi sim vì còn mấy ngày nữa chị em nàng phải trở
lại trường học cho niên khóa mới năm 1974-1975. Củi sim, gánh về phơi khô chất
đầy trong căn nhà bếp, đó là thành quả lao động của họ
trong một thời gian ngắn, chị em nàng rất vui khi đã làm được việc để Ba mình
được vui lòng.
Mỗi buối sáng, ba nàng thường ngồi một mình trên bộ
bàn có sáu ghế đặt ở giữa ngôi nhà nhìn ra ngòai trời với khỏang không gian
truớc mà lo âu suy nghĩ: “Cuộc sống ở đây
quá tạm bợ với căn nhà tôn vách ván trên bãi cát chơ vơ, làm gi để sinh sống,
đất cát bạc thếch không có màu mỡ để trồng trọt cuối cùng người đi đến quyết
định: Vào Nam tìm miền đất mới.”
Mùa hè qua đi,
mùa thu lại đến, các em của nàng đã trở lại trường học, trường Nguyễn Hòang
được tọa lạc trên một khuôn viên rộng, trường vừa xây dựng xong, rộng rãi và
thóang mát có tầng lầu và ban công rất đẹp, các em nàng rất thích thú khi được
trở về trên quê hương, học trên mái trường thân yêu cùng thầy cô và bè bạn cũ.
Thùy Vân trở lại Huế để ghi danh học Luật tại trường
ĐH Luật khoa Huế, nàng hy vọng sau này sẽ xin được một việc làm trong một ngân
hàng tư nhân, nếu có được hai chứng chỉ về môn kinh tế của trường Luật. Nàng
vẫn ở lại trong căn phòng trọ của ngôi biệt thự ở Phú cam, chỉ có một mình
thôi, không có bạn cùng phòng. Nàng phải chi tiêu dè xẻn vì số tiền mẹ cho quá
ít ỏi, không dám mua gì ngòai thức ăn và trả tiền phòng. Một buổi sáng đến
giảng đường, nàng gặp lại người bạn học cùng lớp 12, cô ấy tên là Lan Anh nhà ở
đường Phan Đình Phùng, nên giờ đây nàng có bạn để đi học vào buổi sáng, trưa về
trên cùng một con đường.
Thuỳ Vân trở về Thị tứ Quảng Trị vào dịp lễ Noel năm
1974, Vân trả lại phòng trọ cho chị Hà, giã từ trường Luật, từ giã người bạn
gái Lan Anh, giã từ đường Lê Lợi với những buổi tan trường với nắng vàng loang
đỗ, hàng cây me tây rợp bóng, đường Lê Lợi thân thiêt quá!. Gia đình nàng không
còn ở lại Quảng Trị mà sẽ vào miền Nam sinh sống trong một vài tháng
tới.
Đó là một ngày cuối năm thời tiết se lạnh nhưng có
nắng hanh vàng, trong một bữa tiệc đám cưới của chị Lê người cùng xóm ngày
trước ở Quảng Trị. Đám cưới chị Lê và anh Khánh tổ chức trong căn nhà chỉ có
bốn bàn cho hai họ, Thùy Vân gặp một người đàn ông, anh ta chững chạc với chiếc áo sơ mi màu xanh, quần tây màu nâu nhạt,
mang đôi dày màu nâu, chiếc áo lạnh bằng da màu xám, trông anh rất lịch thiệp,
anh ấy cao lớn, nước da trắng, chiếc mũi cao, vầng trán rộng, đôi mắt sáng. Anh
ấy đến bên Vân và làm quen.
-Chào cô bé, cô bé học trường Nguyễn Hòang phải không?
- Dạ, không, tôi học ở Huế.
- Cô bé học trường nào?
- Dạ, Trường Luật.
- Tôi có thể biết được tên cô không?
- Dạ, tên Thùy Vân.,
-Tên rất đẹp
-Vân gọi tôi là Huy
-Dạ vâng.
- Nhà Thùy Vân ở đâu?
- Dạ, phường đệ tam.
-Khi nào có dịp tôi sẽ đến thăm.
Tết năm Ất Mão năm 1975
Ngòai trời mưa phùn và gió lạnh, hai cô em gái: Thùy
Hương và Thảo Nguyên che dù đi chúc tết bà con và bạn bè, không khí Tết có vẽ
ảm đạm như bầu trời mưa phùn ngòai kia khiến cho nàng không muốn đi đâu hết.
Ngồi một mình trong căn phòng bé nhỏ của bốn chị em nàng, suy nghĩ vẫn vơ đến
nhiều chuyện. Người thanh niên mà nàng đã gặp trong dịp đám cưới chị Lê.
Huy đến thăm nhà nàng trong dịp tết cổ truyền vào buổi
tối ngày mùng hai tết, nàng cũng chưa biết được anh đang học trường nào hoặc
làm gì, ba mẹ nàng nói chuyện với anh rất là hợp ý, thế rồi, vào cuối tuần anh
thường đến nhà chơi, thỉnh thỏang xin phép mẹ cho nàng ra ngòai quán uống nước,
ngồi nói chuyện ở những quán cà phê nhỏ ở ven đường, thị Tứ này bây giờ chưa có
điện, bởi vậy không có đèn đường, đường sá tối căm, nhà nhà thắp đèn dầu, ánh
sáng le lói hắt qua khe cửa sổ.
Chị Quỳnh Hoa trở lại trường học sau hơn một tuần về
nhà ăn tết. Chị vẫn ở lại Huế học cho đến khi ra trừong, truờng có khu nội trú
nên mẹ không lo lắng nhiều mỗi khi gia đình chuyển vào Nam sinh sống.
Vầng trăng tròn mười sáu nhẹ nhàng tỏa sáng, Huy và
nàng sóng bước bên nhau dưới ánh trăng soi sáng vằng vặc xuống những mái tôn
dợn sóng bàng bạc, rọi xuống những con đường đất đỏ Bazan, cảnh trí ấy thật mờ
ảo như một màn sương mù của buổi sáng mùa thu này nào ở tỉnh lỵ Quảng Trị thuở xưa.
Hai người đi xuyên qua khu chợ của thị xã để đưa Vân về nhà, dưới chân cát
trắng xóa cùng với ánh trăng tạo nên một khung cảnh nên thơ. Vân trong bộ đồ
tây, áo sơ mi màu trắng ngắn tay, quần tây màu hồng nhạt, khóac thêm một chiếc
áo len màu hồng phấn trông nàng xinh hơn, dịu dàng hơn, nàng yên lặng đi bên
anh, ánh trăng thượng tuần chiếu sáng khắp bầu không gian yên tỉnh đến lạ
thường, cả khu Thị Tứ đang chìm đắm trong giấc ngũ, chỉ mới chín giờ đêm thôi
mà mọi nhà đều cửa đóng im lìm, trông nơi đây như là một tiền đồn heo hút nào
đó, hay một vùng sa mạc hoang vu, cảnh vật quá lạnh lẽo, quá cô đơn và buồn tẽ.
Sao tự dưng tỉnh lại cho dân về định cư nơi đây, bởi chỉ cách quốc lộ một
khỏang chừng 700 mét, bên kia đường quốc lộ là những dãy mồ hoang lớp lớp của
những nạn nhân chết trong chiến sự mùa
hè năm 1972, nàng suy nghĩ mà không thể hiểu được. Tại sao?
-Về nhà thôi anh, ngày mai gia đình em vào miền Nam, anh đừng
đến tiễn nhé! Thùy Vân nói nhỏ.
Huy nắm tay nàng xiết chặt và dặn dò:
-Thùy Vân nhớ giủ gìn sức khỏe, anh sẽ thường viết thư
cho em.
-Dạ, em hiểu.
Di chuyển vào Nam.
Đó là ngày mùng 3 tháng 3 năm 1975 cả gia đình nàng
lên xe đi vào Sài Gòn, đúng như ba nàng đã định, sau hai ngày xe chạy và ngừng
để nghĩ qua đêm tại phòng trọ, cuối cùng gia đình nàng đã đến Long Thành bình
yên. Ngòai vườn, nắng đã lên cao trên những cây chôm chôm đầu mùa trĩu quả, cuộc
sống mới của gia đình nàng trên một mảnh vườn rộng với một căn nhà nhỏ.
Savannah, ngày
9/4/2012
DTBD.
Có thể đọc bài này tại link dưới:
Dương Thị Bích Đào
Vào
một buổi sáng của tháng năm năm1976, trên bến xe đò tại ngã bảy Sài Gòn, Thùy
Vân chen chân sắp hàng trước quầy bán vé để mua một vé xe trở về quê hương Quảng
Trị. Đây là bến xe đò chạy đường Quốc Lộ Nam- Bắc, tên của hảng xe tư nhân vẫn
còn đề bảng “Phi Long Tiến Lực.”
Thùy
Vân đưa tờ giấy phép đi đường của địa phương cấp để mua vé xe theo giá chính thức,
hơn một tiếng đồng hồ mới đến lượt nàng mua vé. Mua được tấm vé nàng mừng khôn
xiết để vào trong túi áo và gài lại cẩn thận, ra khói quầy bán vé nàng rảo bước
đi lại trong bến xe, ngước mắt nhìn trên những mui trần của những chiếc xe đò
đã chất đầy ắp nào là xe đạp, phụ tùng xe đạp, thau, xô, rỗ rá, bằng nhựa màu sắc
đẹp bóng lóang làm từ mủ cao su thiên nhiên, những đồn điền cao su đặc biệt được
trồng ở vùng miền đông Nam bộ (miền Đông Nam bộ). Có những lọai hàng như xà
phòng, bột giặt, bột ngọt, kem đánh răng, đường, các lọai vải như vải lụa, vải
ka-tê, vải gấm và các loại vải khác được sản xuất từ các nhà máy khu công nghiệp
Biên Hòa và các cơ sở sản xuất của người Hoa sinh sống ở Sài Gòn- Chợ Lớn.
Những phụ tùng thay thế, nguyên vật liệu để sản xuất được nhập khẩu từ trước vẫn
còn lại trong kho, trong các cửa tiệm trên thị trường miền Nam lúc bấy giờ.
Thùy Vân bước lên xe và tìm được một chổ ngồi thích hợp cùng với một ít hành lý mang theo gồm mấy bộ đồ, một ít thực
phẩm khô như bột đậu xanh, đậu nành, một ký đường, một cây thuốc lá để đi thăm anh Huy người yêu của nàng đang học tập cải tạo tại trại Ái Tử. Nàng tựa lưng vào ghế, xe từ từ chuyển
bánh ra khỏi thành phố theo đường quốc lộ 1.
Trời chợt đổ mưa, cơn mưa rào ầm ầm trút xuống đường nhựa, hai bên đường nước chảy xiết, những đường cống dẫn nước thóat thường hay bị nghẽn làm cho nước mưa không thể chảy xuống cống mà tràn lên đường, đôi khi nước mưa cũng có thể làm ngưng trệ giao thông vài giờ, ngòai trời mưa vẫn nặng hạt, các cửa kính đã kéo xuống, xe vẫn tiếp tục chạy cho đến tối thì đến đèo. Trời đã tạnh mưa, vượt qua đèo này là đến thành phố Nha Trang, xe đang dừng lại dưới chân đèo Rù Rì. Người chủ xe đò là một phụ nữ khỏang sáu mươi tuổi, bà ta bước xuống xe và thắp nhang khấn vái ở một cái miếu bên kia đường mong muốn được an tòan cho cả chiếc xe khi lên đèo vì xe chở quá tải. Trời đã tối hẳn, ánh sáng chỉ là những tia sáng đèn pha của các chiếc xe chạy ngược chiều hắt lên le lói. Thùy Vân cố chợp mắt để hy vọng tìm một giấc ngũ nhưng không sao ngũ được, nàng mơ màng rồi những ký ưc lần lượt trở về trong tâm trí nàng.
Trời chợt đổ mưa, cơn mưa rào ầm ầm trút xuống đường nhựa, hai bên đường nước chảy xiết, những đường cống dẫn nước thóat thường hay bị nghẽn làm cho nước mưa không thể chảy xuống cống mà tràn lên đường, đôi khi nước mưa cũng có thể làm ngưng trệ giao thông vài giờ, ngòai trời mưa vẫn nặng hạt, các cửa kính đã kéo xuống, xe vẫn tiếp tục chạy cho đến tối thì đến đèo. Trời đã tạnh mưa, vượt qua đèo này là đến thành phố Nha Trang, xe đang dừng lại dưới chân đèo Rù Rì. Người chủ xe đò là một phụ nữ khỏang sáu mươi tuổi, bà ta bước xuống xe và thắp nhang khấn vái ở một cái miếu bên kia đường mong muốn được an tòan cho cả chiếc xe khi lên đèo vì xe chở quá tải. Trời đã tối hẳn, ánh sáng chỉ là những tia sáng đèn pha của các chiếc xe chạy ngược chiều hắt lên le lói. Thùy Vân cố chợp mắt để hy vọng tìm một giấc ngũ nhưng không sao ngũ được, nàng mơ màng rồi những ký ưc lần lượt trở về trong tâm trí nàng.
Quê
hương của nàng có thành phố nhỏ thơ mộng nằm bên dòng sông Thạch Hãn êm đềm, nước
trong vắt gợn sóng lăn tăn, đôi khi thay màu bạc bởi nước lũ cuồn cuộn tràn về
chảy xiết qua những cánh đồng, làng mạc rồi đổ ra biển đông. Với con đường Gia
Long lộng gió, vào mùa hè trời nóng oi bức, khi chiều đến người dân thường ra
đây ngồi trên những chiếc nghế đá bên cạnh những gốc cây để hóng gió hay ngắm
nhìn hòang hôn vào lúc ánh sáng mặt trời xuống thấp chiếu lấp lánh trên làn nước
màu xanh ngắt ấy đẹp vô cùng.
Trên
mảnh đất đau thương và định mệnh đó, chiều ngang chỉ là một con số km ít ỏi,
tính từ dãy núi Trường Sơn đến Cửa Việt khỏang 30km, tòan là những đồi cát trắng
xám, đất đai bạc thếch không màu mỡ người dân mong muốn đến mùa lũ, với cơn nước
lụt từ nguồn đổ về màng theo ít tôm cá của núi rừng, đem theo màu mỡ của phù
sa, phủ cho ruộng lúa xanh hơn, cho trái bắp ngọt ngào hơn, cũng như được mùa
hơn, để giảm bớt đi cực khổ phải ăn cơm ghé sắn, ghé khoai, điều mà người dân
mong ước có đủ lúa gạo ăn trong năm và cho con cái đến trường học, được vào học
trường Trung Học Nguyễn Hòang là niềm tự là hào của bậc làm cha mẹ.
Như một định mệnh khắc khe trút xuống với người
dân Quảng Trị vốn đã nghèo nay lại càng tan nát hơn. Đó là mùa hè năm 1972, bom
đạn đã cày xới tan hoang thành phố nhỏ bé nhưng đầy thơ mộng yêu thương của nàng, tất cả mọi người đều chịu
chung số phận: Nhà cửa tan nát, phố xá điêu tàn, có nhiều gia đình mất mát cả người
thân yêu của mình, cuộc chiến ấy đã cướp đi bao nhiêu mạng sống của người dân tay lấm
chân bùn, bao đời họ đã sống một đời cơ cực trên quê hương cày lên sỏi đá. Thóat được khỏi vòng lửa đạn,
người dân ra đi tứ xứ để mưu sinh, bây giờ cuộc chiến đã chấm dứt một số người
dân đã trở về nơi xưa gầy dựng lại từ đầu, nàng rất mong muốn nhìn tận mắt cảnh
vật như thế nào?.
Chiếc xe đò đưa Thùy Vân về quá khứ, xe đang
đi trên đèo Hải Vân, phong cảnh thiên nhiên nơi đây đẹp quá! rực rở biết bao! dưới bầu trời
miền Trung nắng vàng chiếu xuống vùng biển Lăng Cô trước mặt với cát thì trắng ngần
như tuyết, xa xa những làng chài với những chiếc ghe nhỏ đang thả cho thuyền trôi nhẹ
trên vùng biển với làn nước trong vắt. Chiếc tàu suốt hành trình Bắc Nam đang
ôm lượn theo sườn đèo Hải Vân như một con trăn khổng lồ vào niên kỷ xa xưa, cảnh
vật thật mỹ lệ làm sao! nàng luôn nhìn ra hai bên đường, nhìn xuống biển sâu với
một màu xanh êm dịu.
Sắp đến Huế rồi, Huế bây giờ ra sao? Có còn rộn
ràng tiếng nói cười líu lo của những cô nữ sinh trường Đồng Khánh với những tá áo trắng
tung bay trên đường Lê Lợi? Có còn trường Đại học Luật khoa ngày nào mà mỗi buổi
sáng nàng cùng cô bạn gái Lan Anh ngồi bên giảng đường ghi chép bài thầy giảng? Bao nhiêu câu hỏi ùa vào tâm trí nàng, nàng không thể tự trả lời những câu hỏi
mình đặt ra, trong chốc lát nữa thôi chiếc xe đò sẽ đến Huế.
Xe
vừa đến An Cựu, nàng nhìn hai bên đường, đường phố thưa thớt người qua lại, xe
đang di chuyển trên chiếc cầu Mới bắc ngang qua sông Hương, dòng nước trong xanh vẫn lững
lờ trôi, thấp thóang trên dòng nước trong xanh ấy những chiếc thuyền nan bé nhỏ
xuôi theo dòng nước trôi đi.
Xuống
xe, nàng đón chiếc xe xích lô để về khu nội trú của chị Quỳnh Hoa. Khu nội trú
có hai dãy lầu một tầng đối diện nhau, ở giữa là một cái sân rộng xây theo lối
kiến trúc của Pháp nằm khiêm nhường trên con đường Trưng Trắc, đó là tên đường cũ,
có lẽ bây giờ đã đổi lại tên khác. Chị của nàng đang học năm cuối của ngành nữ
hộ sinh. Hai chị em gặp lại nhau vui mừng khôn xiết, có bao nhiêu điều mà hai
chị em nàng kể cho nhau nghe đến quá khuya mới đi ngũ.
Nàng
thức dậy sớm, bên ngòai trời mưa lâm râm chị Quỳnh Hoa cùng với hai người bạn
và Thùy Vân đi ra phố Huế, đến Ngân hàng để đổi tiền, đường phố giờ đây lặng lẽ,
cảnh đìu hiu, người dân buồn bã, lo lắng, cảnh vật trông điêu tàn hơn bao giờ hết.
Bây giờ là đầu tháng năm nhưng sao trên đường phố vắng bóng tà áo trắng thướt
tha ngày nào, có lẽ học sinh đã thay đổi đồng phục. Nhìn qua Phu văn Lâu trên những
cành cây phượng những bông hoa nở rộ màu đỏ thắm làm cho tâm hồn nàng rưng rưng
xúc động.
Ngân hàng đông đúc khách hàng đến đổi tiền, lạ
lùng là không ai cởi áo mưa mặc bên ngòai mà cứ để vậy cho dù những giọt nước
mưa vẫn còn bám trên áo, rơi xuống sàn nhà. Khách hàng không xếp hàng để vào đổi
tiền mà cứ chen chúc nhau mạnh ai nấy xô đẩy để đến quầy đổi tiền. Vào thời điểm
đó ở Sài Gòn xài tiền của chính phủ lâm thời CHMNVN phát hành trong khi từ Huế
đi ra thì xài tiền màu đỏ do Việt Nam dân chủ cộng Hòa ấn hành, vì thế nàng cần
phải đổi tiền để chi tiêu trong mấy hôm ở lại Huế và đi Quảng Trị.
Hôm
sau, sáng thứ bảy, chị Quỳnh Hoa và nàng đón xe đò để về Quảng Trị, nàng hy vọng
sẽ gặp được anh Huy ở trại cải tạo, có lẽ anh sẽ ngạc nhiên lắm! anh sẽ vui mừng
biết bao khi gặp lại nàng, nàng đang nôn nóng gặp lại anh.
Hôm
nay trời lại nắng, chiếc xe đò màu vàng đen ấy đưa hai chị em về quê hương,
trên con đường xưa cũ còn lại những vết hằn do bom đạn tàn phá chưa được tu sửa,
nào là ổ gà, ổ voi, chiếc xe chạy rất là mệt nhọc. Xe đi qua Phong Điền, An Lỗ,
người dân đang làm ruộng, có lẽ cuộc sống của họ đã trở lại bình thường sau bao
lần chạy lọan, qua Mỹ Chánh, đến khu thị tứ mà năm 1974- 1975 gia đình nàng về
hồi cư ở trên bãi cát trắng như sa mạc đó, bây giờ nhìn lại trống vắng, một số
người dân đã tháo gỡ những căn nhà để đi định cư nơi khác, còn lại một ít căn
nhà trên đồi cát trắng.
Nàng
nhìn ra ngòai cửa kính để nhìn cảnh vật hai bên đường, xe đang chay đến cầu Dài
nơi mà bốn năm về truớc trận chiến mùa hè đỏ lửa đã biết bao nhiêu mạng người
vùi thây chốn đó. Vào năm 1974, những vị Hòa Thượng, Đại Đức,Tăng Ni Phật tử từ
Huế, Sài gòn đến nơi đây lập chay đàn cầu siêu cho các oan hồn còn lẩn khuất
đâu đó. Đi ngang qua nơi đây cảnh vật vẫn còn xác xơ, với những bụi sim mọc lấp
xấp trên nền cát trắng xám, không ai mà không ngậm ngùi khi nhớ đến bốn câu đối
đã ghi trên các tấm liễn khi các thầy tụng kinh giải oan khiên cho nạn nhân xấu số:
- “Đây
Đại lộ kinh hoàng ghi lắm cảnh bi thương
Muôn
thuở khôn vơi niềm tủi hận"
- " Nọ
dòng sông Bến Hải khơi bao nguồn sóng gió
Ngàn
thu luống chạnh nỗi chia ly.”
Hai
chị em nàng bước xuống xe đò, theo con đường cũ Hồ Đắc Hanh để vào trung tâm tỉnh lỵ Quảng
Trị cũ. Trên con đường Duy Tân ngày nào rộn ràng tiếng cười nói của học sinh của
trường TH. Nguyễn Hòang mà giờ đây thì hòan tòan im vắng, nàng ngơ ngác như đang
lạc bước vào chốn hoang sơ nào, cả một thành phố hòan tòan sụp đổ như những bức
ảnh mà phóng viên chiến trường năm xưa đã đăng tải trên báo chí. Nàng đang đi
trên hoang tàn đổ nát lòng buồn man mác nhờ đến hai câu trong bản nhạc, Khói trời
mênh mông của Trịnh Công Sơn.
“Ta
về nơi đây phố xưa dấu đạn
Con
đường bên sông cỏ lá buồn tênh.”
Hai
chị em mong muốn đến thăm lại ngôi nhà thân yêu nhưng không thể đi được, bởi những
hố bom, những đống gạch vụn, từng tầng bê tông, cốt sắt đang nằm ngổn ngang trên
những con đường, những bụi cỏ gai, lau lách lấp đầy lối đi, mà biết đâu đó những trái bom
bi nằm lẫn khuất trong lùm cây bụi cỏ, nên hai chị em ngồi xuống bên vệ đường gần
trường học năm xưa để nhớ lại từng con đường, từng lối đi, từng dãy phố như
đang hiện lên trong đầu nàng rỏ nét, nàng nhìn về đường Trần Cao Vân nơi mà
ngày xưa có căn nhà nhỏ của gia đình nàng, khỏang cách chỉ độ tám trăm mét mà
xa như nghìn trùng cách trở. Nhìn cảnh vật đó nàng muốn khóc thật nhiều để tâm
hồn nàng lặng dịu hơn, hai chị em đứng dậy và tiếp tục đi theo con đường Duy
Tân để về làng, qua làng Trí Bưu; hai bên đồng ruộng người dân đang cấy lúa, chợt
nàng nghe tiếng goi: Thùy Vân! Thùy Vân! nàng dừng lại trông thấy bạn Hồng đang
cấy lúa, bạn ấy trước cùng học 12c nhưng khác truờng ở Huế. Từ giã bạn, hai chị
em nàng men theo bờ của dòng sông Vĩnh Định để về làng Bích La Đông. Đây là quê
ngọai của nàng. Người dân làng đã hồi cư về sống trong những căn nhà mới dựng
lên bằng tre, mái lợp tranh sơ sài trên mảnh vườn củ đã bị bom đạn tàn phá, cây
cối bị cắt lìa, không có ai bà con để thăm bởi họ đã ra đồng làm ruộng. Hai chị
em ra nghĩa địa để thắp nhang cho những người thân đã khuất, tiếp tục đi qua
làng nội, cũng ra ngòai đồng tìm mộ của người thân để thăp nhàng, cuối cùng hai
chị em trở lại Hải lăng nơi có người dì đang ở tại khu cư xá công chức cũ.
Xe
chạy đến ngã ba vào Hải Lăng, nàng chia tay với chị Quỳnh Hoa, chị trở lại trường
học, còn nàng một mình xuống xe đò đi bộ đến cư xá, rất may mắn cho nàng bời dì
vẫn còn ở nhà với hai đứa con, dượng đã đi học tập cải tạo, cuộc sống của dì cũng
quá cơ cực bởi đồng lương giáo viên quá eo hẹp. Tối hôm đó có người anh họ, tên
anh là Hòang cũng từ Sài gòn ra để đi thăm người anh trai đang cải tạo ở trại
tù số hai Ái Tử, nàng quá đổi vui mừng không còn lo lắng điều gì khi ngày mai
nàng ra ÁiTử.
Bữa
cơm tối đạm bạc của dì chỉ có một ít cơm, phần còn lại là bột mì đen cán mỏng cắt
thành từng miếng nhỏ hấp trên nồi cơm, nhìn hai đứa nhỏ trông rất tội da mặt
xanh xao vì thiếu chất dinh dưỡng, ngòai việc đi dạy cấp I tại trường dì không
biết làm gì hơn để kiếm thêm chút đỉnh tiền sinh sống, ngày qua ngày với tiêu
chuẩn của nhà nước cấp phát gạo và bột mì đen. Dì cũng không có đủ tiền để đi
thăm dượng một lần ở trại cải tạo ngòai miền Bắc.
Nàng
thức dậy thật sớm để cùng người anh họ đi ra Ái Tử. Hai người đón được chiếc xe
đò chạy tuyến đường Huế -Đông Hà, họ lên xe và may mắn còn chổ ngồi, xe chạy khỏang
20 phút thì đến địa phận Ái Tử.
Những
tia sáng đầu tiên của một ngày bình minh vừa ló dạng, từ biển đông rực lên một
màu đỏ thắm chiếu sáng lung linh, trong màn sương mờ đục đó Thùy Vân bước xuống
xe đò khi xe vừa dừng lại bên phải của con đường QL1, nàng cùng người anh họ
băng qua bên kia đường để đi lên trại cải tạo.
Con
đường đất đỏ hiện ra trước mắt nàng, đó là một con đường mòn hai bên đường
sương rơi còn đọng lại trên cỏ, thỉnh thỏang có những đám lau lách hay những bụi
tranh. Nàng cùng anh họ vượt nhiều cây số đường với nhiều sỏi đá dưới ánh sáng
bình minh mổi lúc càng tỏ rạng, đường đi lên dốc càng đi càng lên dốc, có nghĩa
đây là những ngọn đồi, gió thổi lồng lộng, có những bụi sim với hoa màu tím đẹp
dưới bầu trời trong sáng êm ả. Nàng bước đi nhanh hơn để theo kịp anh họ của
nàng đi nhanh quá. Nàng trong bộ đồ bằng vải ka-tê màu đen với chiếc mũ màu xanh
biển, đôi giầy sandal nên nàng đi nhanh và cảm thấy dễ chịu, hơn hai tiếng đồng
hồ họ đã đến trước cổng trại hai. Sau khi trình giấy tờ xin thăm viếng người
anh họ, tên anh là An, anh đi ra trong chiếc áo nhà binh bạc màu và quần tây cũ.
Anh gầy hơn nhiều so với trước đây trong những năm trước, cuộc thăm viếng chỉ kéo
dài khỏang 30 phút, nàng không thấy ai canh gác và cũng không thấy ai thăm viếng
những người tù khác.
Từ
giã anh An, hai anh em nàng đi theo còn đường mòn cũ, đường đi xuống dốc, cảnh
vật cũng trơ trọi, trên cánh đồng rú rộng mênh mông này không có ai ngòai hai
người, nàng cố đi thật nhanh để xuống trại bốn mong muốn gặp lại anh Huy. Anh
đang làm gì? hôm nay là ngày chủ nhật anh có ở láng trại không? cuộc gặp gỡ này
làm cho anh bất ngờ lắm, nàng suy ngĩ về anh nên không cảm thấy mệt hay khát nước
gì cả, cứ đi vậy cho đến trưa, nới đây có một con suối chảy rộng, với những cây
tre nhỏ mọc hai bên bờ suối, bất chợt nàng nhìn thấy một người thanh niên đang
tắm ở suối, đến gần hơn nàng nhận ra là anh Hùng, anh ấy trước cũng học trường
Nguyễn Hòang, nhà ờ đường Lý Thái Tổ, nàng không dám tới gần, anh họ bảo:
-Vân
chờ anh ở đây, để anh đi trình giấy.
Khỏang
15 phút anh Hòang trở ra anh chưa kịp nói gì thì nàng hỏi:
-Mình
vào thăm phải không anh?
-Không!
Huy đi lao động làm muối ở biển Hà La rồi.
Còn
nổi buồn nào hơn nữa nàng quá hy vọng để gặp lại anh nhưng bây giờ thì nàng đâu
biết cách nào để đi biển Hà La thăm anh Huy.
Anh
Hòang nói:
-Vân!
đừng buồn nữa, đưa quà cho anh để anh nhờ người bà con ở gần đây gởi cho Huy.
-Dạ.
Nàng
và anh Hòang đến nhà của một người cô bà con với anh, bà cô đó sống trong một
căn nhà làm bằng phên tre mái lợp tranh, nàng không hiểu tại sao bà ấy lại sống
trong cánh rừng rú này đất đai khô cằn, ruộng vườn không có thực sự thì nàng
không hiểu tại sao?, sau này nàng biết được bà cô của người anh họ có người con
gái lấy chồng bộ đội bởi vậy bà và người con gái sống xa xôi hẻo lánh như vậy từ
trước, bây giờ người chồng của cô con gái là cán bộ làm việc ở Ái Tử. Bà cô cho uống nước hai anh em lại từ giã bà
cô để trở về Hải Lăng, cuộc hành trình của nàng không đem lại cho nàng một chút
may mắn nào.
Nàng thu xếp hành lý từ giã
dì, đi bộ ra đường QL1 để đón xe đò vào Huế, hy vọng nàng sẽ mua được vé xe trở
về Sài gòn vào ngày mai, tiếp tục cuộc sống ngày qua ngày vào rừng làm rẩy ở
Long Thành nơi mà gia đình nàng vào đây sinh sống từ mùa hè năm năm trước. Ngồi
trên chiếc xe đò nàng không buồn ngắm cảnh vật hai bên đường mà nhắm mất lại để dòng suy tư trở về
trong tâm trí của nàng.
Không biết bao giờ nàng có dịp
trở lại đây thăm anh Huy? nàng vẫn hy vọng một ngày nào đó anh sẽ trở về và gặp
lại nàng, nàng vẫn luôn cầu mong cho anh được bình yên.
Ngày
mai, khi trở lại Long Thành cuộc sống của nàng vẫn ngày qua ngày bàn chân thon
băng qua những con suối, băng qua những cánh rừng già rậm rạp, có những tàng
cây cao lớn che khuất ánh sáng mặt trời, ánh sáng chỉ chiếu xuyên qua tàng cây
già cổi. Đôi khi, ánh tà dương xuống nàng nhìn thấy những áng mây chiều giăng
giăng bao phủ những ngọn đồi trước mặt, càng đi sâu vào rừng những con vắt có
thể bám vào da thịt bất cứ khi nào, mấy chị em nàng nhờ có chiếc áo lính (treillis) của
những người lính quẳng lại trên đường chạy loạn mà mẹ nàng đã nhặt về, giặt cẩn
thận và cất sau vườn, cũng nhờ chiếc áo lính đó che mưa che nắng cho chị
em nàng.
Trong cánh rừng sâu có một rừng tre rộng mênh
mông, nàng cùng ba và hai em gái cứ bước đi trên con đường dài quanh co trên
triền dốc, có lúc chặt tre, có lúc cưa cây củi , cuộc sống rất vất vã nhưng
nàng và hai em chưa bao giờ khóc chấp nhận những đổi thay trong cuộc sống của
mình. Văn hào Shakespeare đã nói rằng:” Liều thuốc duy nhất cho những người khốn
khổ là niềm hy vọng,” cũng như trong cuốn sách nào cũng có nói: “Đừng tuyệt vọng,
trong cái rủi lại có cái may, trong mất lại có còn, những gì hiện hữu quanh ta
là sự mất còn của tự nhiên trong vòng luân hồi khép kín.”.Chấp nhận nhọc nhằn
và tương lai mờ mịt ,biết đâu một ngày nào đó hạnh phúc sẽ mỉm cười với mình.
Mùi
hương của lá xanh, mùi của cỏ hoa, thỉnh thỏang nàng cũng thấy những cánh lan rừng
đẹp rực rở kiêu sa màu vàng, màu tím, làm cho nàng cảm thấy rưng rưng trong buổi
chiều lộng gió.
Vào
lúc này ba nàng thường vào rừng để chặt những cây tre đem về bán mua thực phẩm,
thường khi vận chuyển thì các em nhỏ hơn cũng vào rừng để phụ giúp các chị vận
chuyển những cây tre đã được chặt, hai người một cây, vác lên vai đi theo những
con đường mòn nhỏ rồi ra đến con đường lớn, khi nào chặt đủ khỏang 100 cây
thì chở về bằng chiếc xe kéo có hai bánh do sức người kéo và đẩy. Cuộc sống mới
đưa đẩy gia đình nàng vào bế tắc của mưu sinh, bằng cách này hay cách khác kiếm
lương thực để thóat cảnh chết đói, xung quanh nhà nàng, tất cả các gia đình
khác đều có cuộc sống tương tự, áo rách quần xài, lương thực khan hiếm, cuộc sống
trở về thời kỳ đồ đá, khi mà bàn tay con người phải làm tất cả, dụng cụ lao động
rất là đắt đỏ để mua một cái cuốc, cái cào, hoặc cây rựa quả là một sự khó khăn nói chi đến dùng trâu ngựa
để kéo cày hay vận chuyển.
Song
song với việc kiếm tiền bằng cách bán tre hay bán những khúc gổ dùng để làm củi,
ba nàng cũng phát hoang một mẫu đất trong rừng hoang vu để trồng trọt, đốn đi
những gốc cây nhỏ, cành lá, tàng cây, chặt
đi những bụi cỏ gai, cào lại chất lên từng đống sau đó đốt cháy để lại mảnh đất
màu đỏ sẩm rất tốt cho hạt lúa, bắp đậu nẩy mầm, mẹ nàng cũng gieo thêm các lọai
giống rau quả như dưa leo, bầu bí, trái cây như: đu đủ, chuối, để kiếm thêm tiền
đi chợ.
Thường
thường, mỗi lần vận chuyển tre ra khói khu rừng âm u tịch mịch thì trời đã về
khuya, ánh trăng đã lên cao chiếu sáng ngời trên không gian vô tận, có lẽ là 12
giờ đêm hoặc là khuya hơn nữa, sau đó đem tre đến vựa để bán với giá tiền vào
thời điểm đó: một cây tre mua được một kg gạo. Việc chặt tre rất là khó vì ba
nàng phải leo lên gần ngọn cây tre khác, chặt đi những cành, lá, gai, chặt hết
những cây có dây leo bám vào thân tre sau đó xuống đất chặt gốc cây rồi từ kéo
cây tre ra ngòai. Đó là một việc làm hết sức nguy hiểm vì sợ nhất là gió thổi mạnh
và những con rắn Càm chạp lửa ở đâu đó trong bụi tre phóng ra bất cứ lúc nào.
Chiều
hôm đó, mây đen vần vũ, tiếng sét đánh và những tia chớp lóe lên những ánh sáng
ở tận chân trời, nhưng trời vẫn chưa mưa. Nàng vẫn mong cơn mưa rào đổ xuống
cho những hạt giống vừa gieo xuống nẩy mầm sớm hơn, để khỏi lo âu phiền muộn
khi mà nắng hạn kéo dài sẽ mất đi những thúng hạt giống đắt đỏ hiếm hoi. Không
bao lâu bầu trời trở nên xám ngắt, trời như sắp tối, cảnh vật như trơ trọi giữa
cánh rừng già.
Những
giọt nước đầu tiên rơi xuống trên mái tranh, vài ngọn gió thổi tới, mưa rơi xuống
lớn hơn, gió thổi mạnh, nước mưa tạt vào chòi ướt lạnh. Sau một tiếng sấm như
long trời lở đất mưa trút xuống ào ào như thác đổ, mấy cha con ngồi trong chòi
nhìn mưa rơi. Cây cối oằn xuống trong tiếng gào thét của trời đất, nước chảy xối
xả trước căn chòi như muốn kéo phăng căn chòi nhỏ bé của ba nàng. Cơn mưa kéo
dài hơn hai tiếng mà chưa dứt. Thảo Nguyên nói nhỏ:
-Có
lẽ mình phải ở lại trong rẩy thôi ba ạ.
Ba
nàng trả lời nhưng người vẫn nhìn ra ngòai trời để đóan khi nào trời tạnh.
-Các
con sẽ ở lại, vì nước ở suối 3 dâng lên cao các con không thể bơi qua được, còn
ba sẽ về nhà để mẹ các con không lo lắng.
Nhìn
mưa rơi, nét mặt người trở nên rạng rở lạ thường, trận mưa rào này sẽ làm cho vụ
mùa tốt tươi hy vọng sẽ có lương thực trong ba tháng tới, giảm bớt phần nào lo
lắng, ba nàng chợt nói:
-Cơn
mưa này làm cho đất đai màu mỡ hơn, cám ơn ông trời, thôi ba về các con ở lại cẩn
thận.
Ngòai
trời mưa lâm râm, ba nàng lặng lẽ rời khỏi cái chòi để trở về nhà trong một buổi
chiều âm u lạnh lẽo của núi rừng già, đường trơn trợt, người phải lội qua ba
con suối rồi đến vùng đất cao hơn và sẽ về đến nhà mất khỏang hơn ba tiếng đồng
hồ.
Chiều
hôm đó, ba chị em nàng ở lại trong rẩy, đây là lần đầu tiên ở lại rẫy, họ không
cảm thấy sợ hãi điều gì, cảm thấy thân quen, và gần gũi. Thảo Liên nhóm lửa bếp
nấu cơm làm cho căn chòi ấm áp hơn. Trong căn chòi có sẳn nồi nấu cơm, một
thùng đựng nước để nấu ăn, một ít gạo, một ít khoai mì xắt nhỏ phơi khô, một hủ
mắm, một ít gia vị, một ngọn đèn dầu nho nhỏ, một hộp diêm, một cái giường làm
bằng tre, một chiếc võng, trên giường tre có sẵn mùng, mền, chiếu, gối. Trời đã
tạnh mưa, nàng ra ngòai rẩy hái một ít rau dền để nấu một nồi canh ăn cho mát.
Rau dền cơm, đó là một lọai rau thường mọc hoang trong vườn, trong đất rẫy. Rau
dền cơm cây thấp, thân mềm, lá nhỏ, cọng trắng lá xanh nên phân biệt với lọai
rau dền có lá và thân đều màu đỏ tía cũng là lọai rau mọc xen lẫn trong lúa,
trong bắp, trong cỏ, khi nấu có màu đỏ tươi trông rất đẹp mắt. Mưa xuống thì
rau dền mọc nhanh hơn và cũng mềm mại ngon ngọt hơn.
Đêm
đã xuống. Đêm bao la phủ xuống trùng điệp núi rừng, chỉ có một đốm sáng nhỏ của
ánh đèn dầu chiếu le lói trong căn chòi xiêu vẹo này. Lát nữa đây ánh đèn dầu sẽ
tắt chỉ còn bóng đêm đen huyền bí của đất trời. Thảo Liên và Thảo Nguyên nằm ngũ
ngon lành, nằm xuống bên cạnh em gái không bao lâu bất chợt nàng cảm thấy đau
nhói ở trên đầu bên trái, cảm giác đau này nàng đã bị một lần, nhưng lần này
thì đau nhiều hơn, đó chính là con bò cạp đã chích nàng, cảm giác đau vô cùng tận,
không gian như lắng đọng chỉ nghe âm thanh của gió của lá cây xào xạc, ngọn đèn
dầu đã tắt, biết làm sao hơn khi ở đây không có thuốc men gì hoặc có dầu
gió để xức vào, cũng không thể tìm thấy
con bò cạp, người ta nói khi con bò cạp chích mình tìm cách giết nó xong bôi nó
lên vết chích thì cơn đau sẽ giảm đi nhanh chóng hơn, cuối cùng nàng mò mẩm
trong đêm tối kiếm được củ nghệ và chà xát lên vết bò cạp chích, nàng vẫn còn
thấy đau, chợt nhớ ra mẹ nàng có để một ngọn đèn bằng dầu “Mù u” trong cái chén
nhỏ để đâu đó gần bếp nấu ăn, nàng ngồi dậy, bật diêm lên ánh sáng đủ cho nàng
thấy cái đèn nhỏ xíu nằm sát bếp. Châm lửa lên, ngọn đèn có ánh sáng mờ xanh,
nàng lấy dầu mù u xoa lên đầu, chà xát thật mạnh, dần dần cơn đau giảm nhiều
hơn. Nàng nhìn ra ngòai trời, bầu trời đen đặc, cả không gian chìm ngập trong
bóng tối, chỉ nghe tiếng côn trùng kêu, con ểnh ương, tiếng vượn hú trong rừng
sâu hơn, chung quanh khu đất khai hoang này chỉ có 3 gia đình, cái chòi của nhà
nàng, của nhà chú Thương, và của nhà ông Sẻ, nhưng chòi này cách chòi kia cả
ngàn mét.
Chiếc
xe đò đã đưa nàng đến Huế vào buổi chiều trời nắng đẹp, nàng đón xe xích lô để
về khu nội trú, ở ại với chị Quỳnh Hoa đêm nay rồi ngày mai nàng sẽ lên xe trở
lại Sàigon, bất chợt mấy câu thơ hiện ra trong đầu nàng:
Trở về nơi chốn xưa
Trời như đang sắp mưa
Mong gặp lại người xưa
Trên con đường nắng đổ
Đâu còn áo trắng bay.
Trở về nơi chốn xưa
Thị tứ buồn lưa thưa
Năm, ba ngôi nhà gỗ
Trên đồi cát trắng bay
Hiu hắt không người quen.
Bơ vơ em một mình
Biết tìm anh phương nao?
Savannah March, 2 / 2013.
Bich Đào.
RỘN RÀNG NGÀY HỘI NGỘ
Dương Bích Đào
Trời Savannah đã gần cuối Thu, hai hàng cây Phong ở trước Apartment đang thay lá, đổi màu, từ xanh, vàng, sang màu cam, rồi màu đỏ sẩm, màu đỏ như màu rượu chát, đẹp lạ lùng. Mưa nhỏ nhẹ bay trên thành phố vắng, như mưa phùn ở Huế với ngọn gió heo may lành lạnh, làm cho tôi nhớ những cơn mưa ở Huế vô cùng, mưa rơi trên những cây Bồ kết, trên những cây khế, cây bần quân vvv…. trước sân vườn nhà trọ năm nao ở Phú Cam.
Còn bây chừ, mưa rơi lất phất qua khung cửa kính, rơi trên những cây Sồi, cây Thông, cây Phong, trên những cánh hoa Penssé đủ màu sắc, mỏng manh yếu đuối, những giọt nước mưa còn đọng lại trên những cánh hoa lung linh huyền ảo .
Trời se lạnh nhưng không buốt giá như cách đây hai tuần, thỉnh thoảng tôi vẫn nghe tiếng gió hú trên những ngọn cây, âm thanh rờn rợn, mà mùa Thu năm trước, tôi cứ tưởng là tiếng rít của bánh xe nghiền trên đường phố. Lá rụng phủ đầy gốc cây, màu đỏ ối, rơi rớt trên cỏ, trên hoa, trên Parking, trên đường phố nhỏ. Mổi buổi sáng, một người Mễ thổi những lá Thu, rồi gom lại trong những cái bao, chở đến một nơi nào đó.
Đã từ lâu lắm rồi, cò lẽ từ đầu thập niên 90. Hội ái hữu cựu học sinh Nguyễn Hòang ở Sàigòn đã bắt đầu họp mặt, và như thế mỗi độ Xuân về Tết đến, cũng có một lần tao ngộ, và trong tôi có nhiều lý do để rồi không đi dự được, nhưng trong tâm khảm của tôi, vẫn mong muốn có một ngày được họp mặt.
Bây giờ cơ hội này mà bỏ qua thì biết bao giờ gặp lại Thầy Cô và bạn bè thân thương trong suốt nhiều thập niên không gặp, mặc dù gia đình tôi vừa sang định cư ở Hoa Kỳ chưa tròn một năm, điều này làm tôi bao đêm suy nghĩ, cuối cùng hai vợ chồng tôi quyết định đi dự: “Họp mặt liên Trường Tỉnh Quảng Trị “ tại Houston, Texas.
Sáng Thứ sáu ngày 4/7/08, trời trong và mát, tôi cùng chồng và vợ chồng em gái tôi Bích Liên lên phi trường của Thành phố Savannah, để đi Alanta, sẽ quá cảnh ở đó 1h30, rồi tiếp tục bay qua Houston, lòng tôi cảm thấy bồi hồi xúc động. Phi cơ của hảng hàng không Airtran rời phi đạo lúc 11h50, cả bốn chúng tôi ngồi gần nhau, hai ông cột chèo cũng từ lò luyện Nguyễn Hòang nên chấp nhận lời đề nghị của chị em tôi một cách vui vẻ.
- Có phải hai chị là Bích Đào và Bích Liên không ?
Em tôi đáp nhanh:
- Dạ vâng! Sao anh biết ?
- Tôi là Trạch nghe Thầy Thăng nói sẽ gặp hai chị tại phi trường này, và tôi nghĩ đúng là hai chị rồi .
Trò chuyện không bao lâu chúng tôi lại lên phi cơ để đi Houston .
Phi cơ giảm dần tốc độ, đang lượn bay trên nền trời Texas, qua khung cửa kính nhỏ của phi cơ, nhìn xuống, từng tầng mây trắng xóa, rồi dần dần lộ ra những rừng cây xanh thẳm, những xa lộ rộng thênh thang, từng lớp lớp xe nối đuôi nhau chạy ngược xuôi, cảnh trí thật ngọan mục, miên man suy nghĩ máy bay đã chạm đất rồi, bất chợt tôi nghe tiếng cell phone của chồng tôi. Chồng tôi nói:
- Cô Nhàn gọi, em nghe đi
Nhàn nói reo vui trong điện thọai:
- Bích Đào à, Nhàn không đi đón BĐ được, anh Hương chồng mình sẽ tới phi trường đón, anh mặc áo sọc, nhớ nghe Bích Đào.
Tôi vui mừng trả lời bạn:
- Bích Đào biết, sẽ nhận ra anh Hương, bye .
Sau khi nhận hành lý, trời chợt đổ mưa, một cơn mưa rào trút xuống thành phố Houston, làm cho bầu trời mát mẻ, xua tan cái nóng rực lửa vốn sẳn có của Texas.
Anh chị Minh, trước đây bạn cùng phi đòan với chồng của Bích Liên đến và nói :
- Anh chị về đâu, tụi em đưa về luôn cho tiện.
Tôi cám ơn nhã ý của chị. Cơn mưa rào đã vội vả ra đi, chúng tôi đứng gần đường xe ra vào của cửa check hành lý, không bao lâu anh Hương lái xe đến đón vợ chồng tôi, anh xuống xe và nói :
- Bích Đào và anh Thi lên xe đi, tôi đưa về!
Tôi vui mừng và nói :
- Dạ vâng.
Anh Hương nói giọng Huế trầm ấm, rất là Huế. Như vậy là vợ chồng em gái tôi về với anh chị Minh, anh Hương đưa chúng tôi về khu thương xá Hồng Kông 4, nơi đây có cửa tiệm Bussiness của Nhàn, cô bạn gái năm xưa, ba mươi sáu năm bây giờ gặp lại. Khi bước vào cửa tiệm hình ảnh đập vào mắt tôi là một cô gái khỏang mười tám tuổi giống Nhàn như là một bản sao, đó là Nhàn của mấy chục năm về trước, đôi mắt to đen láy, mũi cao thanh tú, nước da ngâm đen, tóc dài đen óng, nụ cười xinh tươi cởi mở .
Chúng tôi ngồi bên nhau ở ghế sofa trong cửa tiệm, nói chuyện kể cho nhau nghe về một thời áo trắng năm xưa, ôn lại những kỷ niệm khi đi học, có khi trời mưa to gió lớn, rét buốt, lạnh căm căm, đến trường là ướt hết, không có áo mưa nào che được gió tạt, thổi mạnh, thỉnh thỏang có nước lụt, phải xăn quần lên, khi đi qua cái đập ở gần chùa Tỉnh Hội, nước mênh mông, chảy cuồn cuộn, nhiều lúc đến trường, nhưng Thầy, Cô ở Huế không ra dạy, cả bọn chúng tôi đạp xe đi loanh quanh thành phố.
Và cũng tại ghế sofa này, tôi cũng gặp lại bạn Huệ cùng chồng và con gái, con rể, gặp các anh chị niên trưởng ở các bang khác đến, vợ chồng anh chị Mai từ Việt Nam sang, anh chị Lộc, thầy Đông, Vợ chồng chị Mỷ Tín …..từ Philadenphia đến, Bác Quang, trong ban tổ chức dù đã ngòai tám mươi, nhưng vẫn lái xe lên xuống phi trường để đón đồng hương ..
Chồng tôi gọi điện cho anh Đô biết chúng tôi đã đến, anh Đô vui vẻ mời vợ chồng tôi về nhà anh, tôi từ giả bạn để đến nhà anh Đô theo lời mời, hẹn bạn tối gặp lại .
Anh chị Đô rất hiếu khách. Chị Quỳnh My vợ anh Đô vừa đẹp người, và đảm đang, chuẩn bị chu đáo một bữa tiệc đầy đủ thức ăn ngon, sau này tôi được đọc những đỏan văn do chị viết, tôi rất ngưỡng mộ chị, lời văn nhẹ nhàng thánh thóat ảnh hưởng triết học Phật giáo Phương Đông. Ở đây tôi gặp lại chị Thanh Hà, chị Tần quê ở chợ sãi, nơi mà ngày xưa vào thập niên 60 gia đình tôi đã nhiều năm sinh sống, các chị vẫn trẻ đẹp cho dù tháng năm dài chồng chất .
Trái qua phải: Thi (ông xã Bích Đào), Bích Đào, Huệ, Ông xã Huệ, Nhàn, Hương (ông xã Nhàn)
Từ giã anh chị Đô, vợ chồng tôi lên xe anh Hương về nhà bạn, buổi tối hôm đó có Huệ ở khách sạn sang chơi, ba đứa chúng tôi ngồi bên nhau ríu rít chuyện trò cho đến khuya, Nhàn để cho tôi ngũ một mình trong phòng đọc sách, bạn ân cần đem mền gối và dặn dò :
- Bích Đào ngủ đây nghe, nhớ đóng cửa lại, vì ngòai kia các chú vẫn còn thức để đánh bài, đổ xâm hường, ngủ cho ngon, vì cả ngày đi mệt rồi.
Tôi nói :
- Nhàn đừng lo, mình sẽ ngũ được .
Anh Hương rất ân cần, nên nhiều anh chị niên trưởng đã về nhà anh ngủ lại, một phòng dành cho các chị, chị Mỹ Lệ, chị Đòan, chị Lộc, có chị người ở Đà Lạt làm dâu QT nhưng tôi không biết tên, còn lại Thầy Đông, Anh Lộc, chú Khiếu, chú Kha từ Boston và anh Thi ngủ ở phòng Karaoke.
Trái qua phải, hàng đầu: Thi, Đông, Phúc, Sử, Kha. Hàng sau: Toàn, Lộc, x, Lệ, Huệ, Đào, Nhàn, Hương.
Sáng thứ bảy 5/7/08, Nhàn thức dậy sớm, chuẩn bị càfê và nước trà. Anh Mừng, anh Đô, Anh Út, Anh Hồng đến nhà bạn, chuyện trò vui vẽ, tôi cảm thấy tình cảm ấm áp của quê hương khi gặp các anh chị niên trưởng ở đây. Tôi cùng Nhàn với chị Bình và vợ anh Út luộc gà làm gỏi để đãi tiệc buffet vào chiều nay. Nhàn mua mấy chục con gà từ nông trại mang đến, trông rất ngon lành không thua gì gà mái dầu ở Việtnam, Nhàn nói:
- Gà đi bộ trong farm
Tôi muốn ở lại nhà bạn để phụ nấu nướng, nhưng chị Bình không cho và nói :
- Em ở xa đến đi ra ngoài phố chơi cho biết .
Vợ chồng tôi không đi theo tour, tôi đi cùng bạn ra khu thương xá Hong kong 4 để xem buôn bán, có bán các loại đặc sản nhập từ VN sang, khu vực bán đồ ăn uống giống như chợ Bến thành Sài Gòn ngày nào.
Trái qua phải, hàng trước: Cư, x, Trung, x ,x. Hàng sau: x, x, thầy Tuấn, thầy Sét, thấy Hoà, x, x.
Chiều đến chúng tôi đi họp mặt tiền hội ngộ, tôi gặp thầy Liệu và cô Lan, người thầy, cô, mà chúng tôi hằng kính mến, có một thời gian sống gần nhau trong một thành phố nhỏ ở VN là thành phố Biên Hòa, sau mười bốn năm bây giờ gặp lại. Cô Lan mừng lắm, nắm lấy tay tôi hỏi:
- Em có khỏe không, đầu của em còn đau không?
Tôi trả lời cho cô thầy yên tâm:
- Dạ đầu em có bớt, sang bên này có thuốc uống.
Cô ôm vai tôi và nói:
- Vây thì may quá, cô nghe em đau đầu nhiều, cô thầy cũng lo lắng cho em.
Tôi vui vẻ cám ơn thầy cô, chúng tôi chụp hình với thầy cô để làm kỷ niệm .
Buổi chiều đó có khỏang hai trăm người tham dự, rộn ràng tiếng cười nói chào hỏi, chồng tôi gặp đươc hai người bạn Nguyễn Hòang, anh Hiệp, anh Thắng, dân ban B hồi đó, chồng tôi rất vui khi gặp được bạn.
Cuộc vui nào cũng kết thúc chúng tôi lên xe về lại nhà bạn, Nhàn nấu cháo gà, tôi phụ dọn ra bàn cho các bác, các chú, và các anh chị ăn, lòng tôi cảm thấy rất vui, cơn đau đầu kinh niên của tôi đã đi đâu mất. Tiếng hát từ phòng Karaoke trên lầu vọng xuống rất hay, thầy Đông và chú Khiếu hỏi:
- Ai mà hát hay rứa.
Rồi chú Khiếu chạy lên lầu xem. Nhàn nói:
- Anh Thi hát đó
Tôi biết rồi nhưng vẫn im lặng, nhiều anh chị đã ở lại hát cho đến khuya mới ra về. Tôi đi ngủ sớm hơn, nhưng đã hai giờ sáng rồi.
Sáng ngày 6/7/08, cũng như sáng ngày hôm qua, Nhàn và anh Hương thức dậy sớm pha càfê và nước trà. Chúng tôi ra sân vườn trước để chụp hình kỷ niệm. Nhìn qua bên kia đường, trên thảm cỏ xanh mượt, một đàn vịt trời đang nhởn nhơ trên cỏ, trên hoa, tôi hỏi bạn:
- Vịt ở đâu bay về đây nhiều vậy? Nhàn nói :
- Hồi đó có hai con, sau mấy năm sinh sôi nảy nở, nhiều quá, City đem đi nhiều đợt đó. Tôi nói:
- Có lẽ bên kia có một cái hồ rộng lớn, với nhiều cây cao, bóng mát, nơi cư trú của chim muôn “đất lành chim đậu”. Sân vườn của nhà bạn rất đẹp, trồng nhiều lọai hoa, cây cọ dừa, thảm cò xanh, được chăm sóc cẩn thận, nhìn căn biệt thự khang trang, tôi thật sự mừng cho bạn đã gầy dựng nên sự nghiệp trên đất khách quê người .
Mười giờ sáng chúng tôi đi ra chợ Hong Hong tìm mua một ít đồ đặc sản quê hương để về làm quà, như là mắm ruốc chà Quảng Trị, hột sen Huế, nhãn lồng v.v… Năm giờ chiều chúng tôi đi đến nhà hàng nơi tổ chức “Đại Hội Liện Trường Tỉnh QT”. Anh Thi và tôi đứng trước ban công Hồ Sen, mặt tiền của nhà hàng, gặp lại anh Thắng, rồi cả ba chúng tôi lên lầu ghi tên đóng tiền cho buồi tiệc. Tôi thấy mấy chị trong ban tổ chức mặc áo dài đẹp quá, còn mấy anh thì mặc veston cũng không kém phần sang trọng.
Chúng tôi vào bàn ngồi chung với nhóm ở lại nhà Nhàn tối hôm qua. Vợ chồng Nhàn và Huệ ngồi bàn trên. Tôi đi một vòng xem có ai quen không, gặp được thầy Tuấn từ Việt Nam sang. Mặc dầu tôi không phải là học trò của thầy nhưng qua nhiều bài viết của thầy, tôi cảm thấy thân thiện, tôi chào thầy và trở về bàn, có một anh đang đứng nói chuyện với chồng tôi, trông rất vui vẽ, anh ấy cười tươi, chồng tôi nói:
- Anh Xuân Hùng bạn anh đó, trước năm 72 học cùng lớp với anh.
Tôi chào anh Hùng rồi nói :
- Vậy là anh gặp được ba người bạn, còn em thì gặp được hai thôi.
Chúng tôi cũng gặp vợ chồng chú Phỉ là bạn cùng trại tù Hòan cát của ba anh Thi, vợ chồng chú rất vui mừng khi gặp chúng tôi, chụp hình với chú thím, với anh Thắng, anh Xuân Hùng và vợ chồng anh Hiệp.
Trên sân khấu được trang trí cờ, hoa, và bong bóng, chị Thanh Hà làm MC rất duyên dáng, Anh Hồng trưởng ban tổ chức nói lý do của buổi họp mặt hôm nay. Sau nghi thức tổ chức buổi lễ . Thầy Liệu, Cựu Hiệu trưởng Trường Nguyễn Hòang, đọc diễn văn khai mạc. Thầy làm hiệu trưởng sau " mùa hè đỏ lửa", trường học tạm bợ ở trại số năm Non Nước Đà Nẵng, và khi hồi cư vào năm 1974-1975, ở thị tứ Hải Lăng. Nhìn thầy đứng trên sân khấu, tôi liên tưởng hình ảnh thầy đang đứng trên bục giảng, dưới mái trường năm nao, đâu đây bụi phấn còn vương vấn trên áo thầy, với nụ cười hiền từ không phai nhạt .
Buổi họp mặt rộn ràng trong không khí vui mừng khôn xiết, với khỏang hơn năm trăm người tham dự, trong không gian tràn ngập tiếng nói tiếng cười của những tà áo năm xưa, gặp nhau tay bắt mặt mừng, tiếng gọi mi tau thân thiết, hình như các anh chị đang trở về dưới mái trường thân yêu, một thời để nhớ, dưới những tàng cây sầu đông nỡ hoa tím trắng đẹp, dưới những tàng cây phượng vỹ khoe sắc khi tiếng ve sầu hợp tấu những khúc nhạc buồn, vì nhận biết chia ly...
Bên cạnh niềm vui ngày hội ngộ, các anh chị không quên nhắc lại những mảnh đời của mỗi người trong chúng ta đã trãi qua vào những năm tối tăm của đất nước, cả một bầu trời u ám đè nặng đên đôi vai, hần nhiều thầy cô không còn được đứng trên bục giảng, một số học sinh không được đến trường .
Rõ ràng nhất là QT của chúng ta đã bị bom cày đạn xới đỗ nát tang thương. Thành phố đã bị chôn vùi dưới từng tầng bêtông cốt sắt. Viết đến đây tôi lại nhớ vào năm 1973 tôi đi cùng với các anh chị trong hội ái hửu sinh viên QT đang học ở Huế trở về thăm quê hương trên chiếc xe GMC. Xe đi vào đường Trần Hưng Đạo, con đường gập gềnh sỏi đá, tôi không còn nhận ra đâu là Bệnh viện QT, đâu là Ty Công Chánh, chỉ còn lại trường Bồ Đề, để lại dấu tích với những bức tường loang lổ, bởi những viên đạn xuyên qua, xe chạy đến ngã ba rồi rẽ ra bờ sông Thạch Hãn. Tôi thực sự đã khóc khi nhìn những hố bom sâu thẳm, những đống gạch vụn cao, những cây cỏ lấp đầy lối đi, còn đâu "con đường xưa em đi ". Tâm trạng tôi lúc bấy giờ như bản nhạc: Khói mênh mông của Trịnh Công Sơn:
Ta về nơi đây phố xưa dấu đạn
Con đường bên sông cỏ lá buồn tênh .
Tôi đi trên hoang tàn đổ nát lòng buồn man mác, nhìn vời vợi qua bên tê sông Thạch Hãn, một rừng cây thông đã bị cắt ngang bởi nhiều lọai súng đạn khác nhau ..AK, M16, B40, B41, B52 thật tội nghiệp cho xứ Quảng Trị của chúng tôi, chạy biết bao nhiêu lần trong cuộc chiến, cất nhà bao nhiêu lần trong cuộc đời, đến khi chiến tranh chấm dứt thì còn lại hai bàn tay trắng. Nhân vật Scarlet trong :"Gone with the wind" của Magarette Mitchel, sau khi chấm dứt nội chiến Scarlet vẫn còn nhà để trở về, còn đất đai dể trồng trọt, còn chúng ta không còn gì hết .
Nhàn đến bên cạnh tôi và nắm tay tôi nói :
- Bích Đào đi gặp Thầy Khảm.
Tôi đến bên thầy khoanh tay chào thầy mà không nói lên được lời nào, bởi quá vui mừng. Sau đó thầy hỏi :
- Em ở bang nào ? Sang đây lâu chưa?
Tôi vẫn nhớ như in dáng thầy cao lớn khỏe mạnh. Thầy dạy chúng tôi môn tóan năm lớp 9/1 truờng NH. Có lần thầy đến bên bàn của tôi và nói:
- BĐ, Xuân Mộng ( ngồi cạnh tôi ), hai em định đi ban nào ?
Tôi và Mộng là học sinh dốt tóan nên Mộng trả lời :
- Da thưa thầy tụi em đi ban C.
Thầy cười vui vẻ .......nhớ cô Khuê dạy văn lớp 9/1 cô có nét đẹp quý phai. Tôi rất thích thơ nên những bài thơ cô cho về học như thơ của Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, tôi thường học thuộc long. Nhớ thầy Cư dạy tiếng Anh lớp 10c2 thầy rất nghiêm khắc, có lần tôi lên bảng, thầy nói “Em viết cho thầy câu này: tôi còn trẻ quá không thể lấy chồng.” Cả lớp cười ầm lên, nhưng tôi vẫn viết đúng văn phạm “I'm too young to get married”. Tôi cũng nhớ đến thầy Nhẫn với đôi mắt sáng sau lớp kính cận dày, thầy còn rất trẻ, cả lớp chúng tôi xôn xao nói “Chắc thầy mới ra trường, thầy đẹp trai, thầy nghiêm khắc”. Tiếng Pháp rất khó học, một tuần chúng tôi học sáu giờ, phải học kỹ lắm mới theo kịp bài, lớp tôi có bạn Nguyễn Thị Đức là học sinh giỏi tiếng Pháp. Sau này tôi và Đức cùng học chung lớp 12c2ĐK Huế tôi hỏi “Răng Đức học tiếng Pháp giỏi rứa ?” Đức trả lời tỉnh bơ “Vì mình yêu thầy”. Tôi ngạc nhiên nói “Chẳng lẽ thầy Phạm Kiêm Âu đang dạy tiếng Pháp lớp mình ?” Đức vui vẻ nói “Thầy ĐV Nhẫn, được chưa các cô nương?”
Hình lưu niệm
Tiệc vui nào rồi cũng kết thúc. Đại hội thật sự thành công, bởi sự sắp xếp chu đáo của ban tổ chức, phân công rõ ràng, từ việc đưa đón lên xuống phi trường, nơi ăn chỗ nghỉ, ban ẩm thực cho buổi chiều tiền hội ngộ, ban văn nghệ, MC, đậm nét nhất là cái tình ấm áp của chủ nhà Houston mở rộng, nên chúng tôi cảm thấy rất tự nhiên .
Chúng tôi trở lại nhà bạn chuẩn bị cho ngày mai trở về Savannah . Tối hôm đó Huệ đến và nói :
- BĐ ngủ đâu ?
- Ở phòng đọc sách trên lầu.
Huệ nói mình sẽ ngủ chung với BĐ, hai đứa tôi kể chuyện này, chuyện khác, tôi ngâm thơ cho Huệ nghe, không bao lâu Huệ đã ngủ say. Tôi nghĩ thầm, giấc ngủ đến với Huệ quá dễ dàng, nên cuộc sống của cô ấy thật vui vẻ hạnh phúc.
Sáng thứ hai ngày 7/7/08, Nhàn đã chuẩn bị đồ ăn sáng, từ giả bạn, anh Hương lái xe đưa hai chúng tôi ra phi trường. Anh Thi và tôi cám ơn anh, và cám ơn đồng hương QT. Tạm biệt Houston . Hẹn ngày gặp lại . . .
CHSNH.Dương Bích Đào
CHSNH.Dương Bích Đào
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét