Chủ Nhật, 8 tháng 1, 2012

Văn Học dân gian Quảng Trị- L.V. Trạch

LÊ VĂN TRẠCH - VĂN HỌC DÂN GIAN QUẢNG TRỊ


         
VĂN HỌC DÂN GIAN QUẢNG TRỊ 
Lê văn Trạch 
      Văn hoá nói chung, là biểu tượng của mọi lề  lối, phương thức sinh hoạt từ tiếng nói, tập tục, cách ứng xử, lễ hội, tín ngưỡng đến cách ăn mặc, lời ru, tiếng hát… gom lại; là cốt cách, sức sống… của một cộng đồng dân cư từ nhỏ  đến lớn. Chưa có một kết luận cụ thể  nào xác định thời điểm có mặt của người Việt tại vùng đất Quảng Trị, chỉ biết một  điều là đã được diễn tiến bởi nhiều  đợt di dân qua hàng bao thế kỷ. Cội nguồn của người Việt được hình thành trong vùng châu thổ các sông ở miền Bắc, tạo dựng một nền văn minh, văn hoá nông nghiệp. Những người di dân vào Nam vẫn mang theo truyền thống ấy. Quảng Trị là một dải  đất hẹp nhưng có nhiều hệ sinh thái, nhiều khu vực nông nghiệp khác nhau, không phải là một nơi dễ  dàng làm ăn sinh sống, hàng ngày người dân đối mặt với nhiều thứ khắc nghiệt. Do bản năng sinh tồn, họ chiến đấu và chiến thắng mọi gian nguy để tồn tại và phát triển. Góp phần vào việc giảm bớt sự căng thẳng để tạo nét hài hoà  trong sinh hoạt đời thường, họ nghĩ ra những thứ để thưởng ngoạn, vui chơi dân giả. Đó là những chuyện thần thoại, chuyện cười, những nhân vật có óc khôi hài, châm biếm, những câu ca, lời ru tiếng hát, điệu hò; tất cả do mang một nét  đặc thù Quảng Trị, một nền văn học dân gian. Trong phạm vi một bài viết ngắn chúng tôi chi giới thiệu những thể loại có tính cách đại chúng là Thơ  Ca Hò Vè với một số nội dung tiêu biểu mà  xin bỏ qua những mẫu chuyện, những con người đã tạo nên sắc thái vui tươi thú vị nhưng chỉ  hạn hẹp trong một địa phương nào đó.
       Thơ  Ca Hò Vè là sản phẩm của nông dân, phản  ảnh bao trùm mọi sinh hoạt với một loại ngôn ngữ  bình dân mang tính đại chúng, cho thấy rõ nét cái chơn chất mộc mạc nhưng thắm đậm nhân tính của con người Quảng Trị. Tạm thời có thể sắp xếp theo các thể loại sau: 

I / Tục ngữ:
      A. Về  thời tiết và sản xuất
      Cò  ăn ruộng sâu thì nắng
      Cò  ăn ruộng cạn thì mưa 
      Công cấy thì  bỏ, công làm cỏ thì  ăn
      Chớp ngã  Cồn Tiên, mưa liền gặp trộ 
      Đập đất nhỏ, luống đánh to
      Xung quanh rắc  đậu, trồng ngô xen vào 
      Đói thì  ăn môn ăn khoai
      Đừng thấy ló lỗ giêng hai mà mừng 
      Trăng rằm  đã to lại tròn
      Khoai lang đất cát đã ngon lại bùi 
      Xứ  Cùa đất đỏ ba dan
      Ai ơi trồng mía làm giàn thả  tiêu 
      
      B. Về  đời sống xã hội 
      Liệu cơm mà  gắp mắm ra
      Liệu cựa liệu nhà  mà gả con vô 
      Khun ba năm không ai biết
      Dại một giờ  bạn hay 
      Đi buôn bữa lỗ bữa lời
      Ra câu giữa vời bữa có  bữa không 
      Ai ơi chớ lấy học trò
      Dài lưng tốn vải  ăn no lại nằm 
      Khoai lang cổ  bở cổ trân
      Làm rễ  họ Trần cực lắm ai ơi 
      Bỏ  công múc nước đường xa
      Có  trong thì múc, ngà ngà  thì thôi 
      Sui gia là  bà con tiên
      Ăn ở không hiền là bà con quỷ 

II / Câu đố:
      Hai người ở hai buồng
      Ngó  đi nhìn lại như tuồng cấm cung
      Đêm về sập cửa thả chông
      Ngày thì  vòi vọi đứng trông nhau hoài
                                                      (Hai con mắt) 
      Gặp nhau đây bất luận đêm ngày
      Lật ra xem thử  lỗ này ở đâu
      Đâm vô thì rút ra mau
      Đừng để trung nớ mà đau lòng nàng
      Rút ra máu chảy tràn lan
      Khi nớ  duyên thiếp, nợ chàng ngái xa
                                                     (Đạp gai) 
      Họ  hàng chỉ sống trên non
      Tìm cây hút nhụy nuôi con tháng ngày
      Không may lửa dậy khói bay
      Thảm thương ấu tử sống rày thác mai
                               (Tổ ong bị đốt) 
      Cây xanh mà  lá cũng xanh
      Dầm mưa dãi nắng theo anh võ vàng
      Một mai lửa  đỏ thành than
      Mây bay khói lượn truớc mặt chàng, chàng ơi
                                                (Cây thuốc lá) 

III/ Vè:
      Một thể loại truyền khẩu rất phổ thông, dễ nhớ, thường là mô  tả cảnh sinh hoạt ở nông thôn, một nhân vật đặc biệt, đôi khi nêu thói hư tật xấu với dụng ý giáo dục . 

      A. Vè  Ba Lòng:
      Thanh trời rạng thấy núi xây
      Rừng xanh suối bạc  đáo vầy tứ phương
      Trà  Trì, Văn Vận hai phường
      Đá Nầm, Chinh Thạch giao lương thuận hòa
      Tháng năm bắp  đã tới mùa
      Chè  thơm mít chuối bên Cùa gánh sang
      Bao nhiêu thao vải, lụa hàng
      Vật gì  phường chợ cũng băng ngàn trải lên
      Đò thì mắm nục, mắm nêm
      Đò thì cá khô, muối ruốc cũng mang lên tại phường
      Đò thì gạo, nếp, trứng, đường
      Đò thì vàng bạc, lược, gương, cau trầu
      Đò thì ghè, đục, ang, âu
      Tréc, om, trình thống, dĩa dầu, bình vôi
      Buôn chi thì  nỏ có lời
      Lưỡi cày, lưỡi cuốc, núc, nồi, đá, dao
      Buôn chi than, vải lụa thao
      Nhuộm màu xanh lục, rêu rao thêu thùa
      Bao nhiêu cũng nhờ  hột bắp mà thôi
      Rồi mùa ngó  lại, giơ cồi với mao 

      B. Vè  thằng nhác
   Lẳng lặng mà  nghe
   Kể  vè thằng nhác
  Gia đình khổ cực
Vợ  yếu con thơ
Chồng ai được nhờ
Chẳng nên trò trống
Nửa ngày thức dậy
Lục  đục soong nồi
Vắt  áo đi chơi
La cà hàng xóm
Vợ  nhờ cày ruộng
Tao bị đau chân
Vợ  nhờ quét sân
Đau lưng vẹo cổ
Vợ  nhờ bửa củi
Cái búa nó hư
Vợ  bảo đi bừa
Sợ  rằng trâu húc
Vợ  nhờ đi gặt
Tao gánh đau vai
Thở  ngắn than dài
Tội tình chị vợ
Ấy thế mà!
Nồi cơm vừa dở
Chưa kịp ai mời
Cúi cổ cúi tai
Một hồi chén sạch
Là  cái thằng nhác
Ăn dữ không làm
Hỡi xóm hỡi làng
Nghe vè thằng nhác 

 C. Vè con gái 
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè con gái
Tay chân mềm mại
Khác thể bông ba
Chờ  mẹ đi ra
Cắp tiền thu dấu
Muốn  ăn khoai nấu
Muốn  ăn khoai nướng
Muốn  ăn xôi chè
Ăn rồi ngồi xếp bè he
Cái lưng bơ bừng cái thúng
Ăn chùng ăn vụng
Cho sướng cái thân
Việc nỏ muốn mần
Dôông thì muốn lấy
Áo năm bảy cấy
Mược vào đi chợ
Béng ướt dụy tôm
Hai tay bóoc lá
Lộ  mồm hả ra 

IV/ Đồng dao
Bập bong bong tay mô  khôông tay mô có
Bập bò  bọ tay mô có tay mô  khôông
Chị  lấy dôông em ở quá
Chị  ăn cá em mút xương
Chị  đường em mật
Chị  vật em coi
Chị  voi em ngựa
Chị  bựa em bèn
Chị  kèn em trống
Chị  trống em mái
Chị  méo em tròn
Hai hòn về chị
Rầm rà rầm rì
Xây lúa Đồng Nai
Cơm gạo phần ngài
Tấm cám phần tui
Lờ  đệng cháy nhà
Bà  già chạy chựa
Cháy nửa bồ thóc
Lóc cóc chạy về
Ông Đề hỏi răng
Cu Nhăng cắn nhện 
Heo chi – Heo lang – Lang chi – Lang cẳng – Cẳng chi – Cẳng giò –  Giò chi – Giò móng – Móng chi – Móng heo 

V/ Câu đối
      Văn vận tuột quần Văn vận vận
      Bích La đau bụng Bích La la 
      Cam Lộ  buôn cam, Cam Lộ Lộ
      Bích giang không nón, Bích giang giang 
      Tân Trúc trồng tre, thở  hoi hóp
      Đông Hà xúc hến hát ngêu ngao 

VI/ Ca dao
      Ca dao chiếm phần lớn nhất trong văn học dân gian, biểu hiện tâm hồn giàu tình cảm, phóng khoáng của người nông dân, một thứ tình cảm bình dị chơn chất trong sáng như cuộc đời hiền hòa đôn hậu của họ, được thể hiện trong mọi tình huống, hoàn cảnh về gia đình, xã  hội, đặc biệt là về tình yêu đôi lứa, một đề tài muôn thuở 

A. Quan hệ gia đình

Biết răng chừ cá gáy hóa rồng
Để  đền công ơn Thầy Mẹ ẵm bồng ngày xưa 
Chị  em như chuối nhiều tàu
Tấm lành che tấm rách, đừng nói nhau nặng lời
Cây kia ăn quả ai trồng
Sông kia uống nước hỏi giòng từ  đâu
Cơ  đồ gầy dựng bấy lâu
Công lao tiên tổ lẽ đâu quên hoài
Mộ  phần gìn giữ hôm mai
Những ngày lễ tết chẳng sai lệ  thường 
Có  chồng rồi khác chi con ngựa có  dây cương
Lôi mô chạy nấy khổ trăm  đường ai ơi 
Còn cha gót đỏ như son
Một mai cha chết, gót con đen sì 
Mẹ  già ham việc tiếc công
Cầm duyên con lại thu đông mãn rồi
Mãn rồi cai đội hồi hương
Trai về làm ruộng, gái buôn nuôi chồng 
Ra đi bố mẹ ở nhà
Gối nghiêng ai sửa, chén trà  ai bưng 

B. Quan hệ  xã hội

Ai về Đông Hà, ai qua Cam Lộ
Ai về Gia Độ, ai đến Gio Linh
Ai về Triệu Phong, Quảng Trị  quê mình
Cho em nhắn gởi chút tình nhớ  thương 
Bạn về không có chi đưa
Môn khoai đang dại, mít dừa  đang non 
Cây cao bóng mát chẳng ngồi
Lại ngồi trửa nắng trách trời không dim 
Cây khô xuống nước cũng khô
Phận nghèo đi tới chỗ mô  cũng nghèo 
Con quan lấy đứa mần than
Nắng mưa phải chịu cơ hàn phải theo 

C . Quan hệ  lứa đôi 

Trăng lên tới đó rồi tề
Nói chi thì nói, em về kẻo khuya
Bướm vàng đậu đọt cau tơ
Kiếm cái nơi mô nương tựa
Chơ  răng cứ vất vơ rứa hoài 
Chàng ơi phụ thiếp làm chi
Thiếp là cơm nguội những khi đói lòng 
Đi mô cho thiếp đi cùng
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp theo 
Cam chua, quýt ngọt… bồng the
Thấy em nho nhỏ, anh ve anh để dành 
Xa anh có bấy nhiêu ngày
Tình em như mảnh trăng gầy nửa  đêm 
Hai ta mót củi một cồn
Bứt tranh một chỗ, tiếng đồn thật xa 
Em đương vút nếp hong xôi
Nghe anh lấy vợ, thúng trôi nếp chìm 
Ai hay nông nổi mần ri
Ngày xưa ở rứa, vội chi trao lời 
Anh đã có vợ thời thôi
Không phải mắm nêm chuối chát mà  muốn moi cho nhiều 
Anh về đừng có ngó  lui
Để em ngó dọi ngùi ngùi thêm thương 
Anh đưa em lên đến ngã  tư sòng
Em trở Về Cam Lộ, anh trở  lại Triệu Phong với ai chừ 
Được nên chồng nên vợ thì hay
Rủi thời đói khổ có  ăn mày cũng phu thê 

      VI. Hò:
            Hò là thể loại dân ca phong phú, đa dạng, có tính quần chúng và  mang nét đặc thù Quảng Trị Đó là một hình thức sinh hoạt sôi nổi, được diễn ra trong công việc đồng áng, lễ hội hay là một cách giải trí trong buổi nông nhạn Có nhiều điệu hò  và cách hò tùy theo không gian thời gian, lao động nặng nhọc khác nhaụ Quét vôi thì hò hụi, giã gạo thì hò khoan, hò hô, chèo đò thì hò mái nhì, nếu đò mắc cạn thì  hò mái đảy, hò rủ rơm, hò đánh bài thai, bài chòi, hò kéo gỗ, hò ru và hò  đối đáp… Ở đây chúng tôi xin giới thiệu mấy  điệu hò tiêu biểu: 
             A. Hò  ru:
      Tất cả chúng ta đều lớn lên từ 4 tao nôi và lời ru của Mẹ. Làn điệu ngọt ngào êm dịu như đã thấm vào máu thịt xương tủy và cũng lớn lên theo giòng đời . Qua năm tháng nổi trôi, lời ru luôn luôn là sự gợi nhắc tình cảm, nghe mãi nhưng nghe lại vẫn không khỏi bồi hồi: 
Khi con thức Mẹ cho con bú
Khi con lú Mẹ lại ru hời
Nuôi con cực lắm con ơi
Chỉ  mong cho con lưng dài vai rộng
Để lấp biển vá trời như ai ! 
Mẹ  thương con ngồi Cầu Ái Tử
Vợ  trông chồng đứng núi Vọng Phu
Mai đây bóng xế trăng lu
Con ve kêu mùa hạ
Biết mấy thu đợi chờ 
Em nghe anh đau đầu chưa khá
Em đây băng đồng chỉ sá  bẻ nạm lá qua xông
Ước làm sao cho nên đạo vợ chồng
Đổ mồ hôi ra em chặm
Lại ngọn gió lồng em che 
Ru hời ru hỡi là ru
Bên cạn thời chống bên su thời chèo 
Xây thành đắp lũy trên non
Cắm hoa dưỡng nước nuôi con tháng ngày
Một mai lửa dậy khói bay
Con ơi ! Mẹ không biết sống rày thác mai 
Ơn cha ba năm báo bổ
Nghĩa mẹ chín tháng cưu mang 
Bên  ướt Mẹ nằm bên ráo con lăn
Lấy chi trả nghĩa sinh thành
Lên non tạc đá xây lăng phụng thờ 

      B. Hò  đối đáp:
      Là một thể loại văn nghệ tự túc độc đáo dược phổ biến rộng rãi trong mỗi làng quê Quảng Trị trong thập niên 30, 40. Những lúc nông vụ đã tạm ổn, vào những đêm trăng, đâu đâu cũng nghe tiếng hò rộn ràng sôi nổi tạo nên một không khí tưng bừng vui vẻ. Có thể chia làm hai loại: Hò ân tình và  Hò đâm bắt. 

      1) Hò ân tình:
      Loại này đơn giản dễ  hò, có thể lấy từ câu đố, một cốt chuyện đã có sẵn, chỉ cần nhập vai là  hò được hoặc đôi bên đối đáp về  những chuyện trời trăng mây nước vô thưởng vô  phạt Địa điểm hò thường được chọn ở  những nhà rộng rãi thoáng mát để có được  đông đảo khán giả tham dự. Thường thì các cô  gái đã đợi sẵn còn các chàng còn vòng vòng ngoài ngõ hay trước sân:
Ai đứng ngoài đường cho muỗi cắn ho kêu
Vô  đây phân giải đôi điều cho vui 
Các chàng chỉ đợi có thế mạnh dạn bước vào:
Chào lê chào lựu chào đào
Ai xa chào trước ai gần chào sau
Chào bên nam mất lòng bên nữ
Chào người quân tử sợ  dạ thuyền quyên
Cho anh chào chung một tiếng kẻo chào riêng khó  chào 
Ai có chồng thì khuyên chồng đừng sợ
Ai có vợ thì xin vợ  đừng ghen
Ra đây ta hò hát cho quen
Rạng ngày ai về nhà nấy…
Khá  thể ngọn đèn hai tim 

Đó là màn dạo đầu, cuộc hò sẽ tiếp tục:
 Nữ:       Đố anh chi sắc hơn dao
              Chi  sâu hơn biển, chi cao hơn trời 
Nam:     Con mắt em sắc hơn dao
              Lòng sâu hơn biển, trán cao hơn trời 
 Nữ:       Bánh cả mâm răng kêu bánh ít
              Trầu cả chợ răng gọi trầu không
              Ai mà đối đặng làm chồng nữ  nhi
 Nam:    Chuối không đi tây răng kêu chuối sứ
             Cây không đi học răng kêu cây thông
             Anh đã đối đặng em theo chồng về  mau
  Nữ:    Nghe anh thuộc sách Kinh Thi
             Hỏi anh con cá nằm dưới cỏ gọi là con cá chi rứa anh hè                                                                                                                                                                                               Nam:       Anh đây thuộc sách Kinh Thi
              Con cá nằm dưới cỏ anh nghĩ  là con cá tràu     Nữ:       Em như bông sen trong hồ
              Các anh như bèo như bọt nhìn chi được cơ đồ nơi em Nam:    Nước lên cho sóng cuộn theo
              Cho sen chìm xuống bèo trèo lên trên 
Nữ:      Em đây như con rồng vàng
            Chín tầng mây phủ nằm ngang giữa trời 
Nam:   Anh đây có phép thần thông
            Vén mây cỡi gió bắt con rồng coi chơi 
 Nữ:    Em đây như chiếc chuông vàng
           Treo trong thành nội có hàng ngàn quân canh 
Nam:   Quân canh dù mấy chục ngàn
            Dùi chiêng anh mang sẵn, anh nện chuông vàng đứt đôi 
            Kiến bò cột sắt sao mòn
            Con vò vò xây tổ sao tròn mà  xây
            Kiến bò cột sắt thành đàn
            Con vò vò xây tổ khám vàng cũng xây 
            Thương thay các cậu chự bò
            Cái lưng môốc thếc thếc
            Bộ  giò đen thùi thui
            Em về dở sách ra dò
            Cha em lúc trước cũng chự bò  như anh 
            Trai không vợ như chợ  không đình
            Mưa dông một trộ ghé mình vào  đâu 
            Trai chưa vợ lo phò vua vệ  quốc
            Chợ  không đình tại thợ mộc suy vi
            Sao không lo phận thiếp lại  đi hỏi chàng 

       2) Hò đâm bắt: 
      Thường là đối đáp giữa trai và gái, loại này đòi hỏi một khả năng thiên phú: Thông minh, nhanh nhẹn, tháo vát. Đối thủ  luôn luôn tạo bất ngờ, không có thì giờ  suy nghĩ, chọn lựa. Người ra chiêu có lợi thế  hơn (thường là nữ) đi những đường quyền móc họng, phạm thượng. Ngôn ngữ ở đây thuộc loại dân gian dung tục, các danh hò thường không né tránh bất cứ một từ ngữ nào miễn đạt được hết ý và đưa đối phương vào thế hiểm hóc (Nhân đây cũng xin mở một dấu ngoặc về  loại văn chương này vì gần đây trên văn  đàn hải ngoại, nhà lý luận phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc có đưa ra bản thảo về  ngôn từ dung tục trong văn học dân gian miền Nạm  đại khái như: Vân Tiên ngồi núp bụi môn. Chờ khi trăng lặn… Nguyệt Nga…) bởi thế trong phần lược kê dưới đây nếu có một vài từ đại loại như thế, kính mong các bậc trưởng thượng thông cảm:
       Trong đêm hò tại vùng Long Quang Linh Yên, một siêu hò đã đánh đòn phủ  đầu các nam nhi: 
Anh ra chi mỗi tháng mỗi ra
Cực lòng em lắm mẹ cha hỏi hoài
       Mới nghe tưởng là một lời trách móc trữ tình, thực ra chị này đem “việc riêng” của mình ra để so sánh xưng tụng thật là hết ý . Một số ngượng nghịu bỏ về. Có người đáp lại nhưng sống sượng, thiếu hấp dẫn:
Anh ra ba em cũng ra
Anh còn sống, ông cụ thác xuống ngã  ba mất rồi 
Một hôm khác tại Gia Đẳng:
Tiếng đồn em học hết sách quốc ngữ, hết chữ  Kinh Thi
Con bò cái đi trước, con bò  đực đi sau, nó cười chi rứa eng hè
Anh học hết sách quốc ngữ, hết chữ  Kinh Thi, con bò cái đi trước, con bò  đực đi sau nói cười nó  cọ, nó đo-u sao thiếp không biết lại  đi hỏi chàng 

Vùng Đá Nầm, Đá Nổi ở Ba Lòng cũng một thời nhộn nhịp: những lúc nông nhàn trai tráng miệt đồng lên khai thác lâm sản và những đêm hò lại diễn ra:
Liệu bề đát được thì  đan
Chớ  đừng đan rồi để  đó mà thế gian chê  cười 

Cô  gái có vẻ kênh kiệu, coi thường chàng trai, nhưng chàng ta bình tĩnh tung đòn phản công rất ngoạn mục:
Anh đây đan cũng giỏi, đát cũng tài
Lận thì đè côi đè xuống, còn nức thì  xỏ ngoài xỏ vô 

Đến hiệp hai thì nam danh hò bối rối:
Ra đường lại gặp anh Ba
Anh ở “trung nớ” anh ra răng chừ  ? !!! 
       Chàng ta xin khất, đi tìm bà  cô: là một danh hò đã gác kiếm, sau khi hối lộ  một xấp thuốc Tầm Bỏi, bà đã chỉ cho câu  đáp, mặc dầu không sâu sắc lắm nhưng cũng đỡ mất mặt:
Anh ở trung nớ mới ra bựa qua
Cùng ra có cậu bên nhà kết nghĩa thầy trò
Anh nhanh chân anh tới trước còn cậu lò  dò theo sau !!! 
       Có những cô gái thật là lì lợm lém lỉnh đôi khi làm các chàng trai yếu bóng vía phải ngọng nghịu chùn chân:
Anh làm thợ mộc khéo đã ra chi khéo
Đóng bức đố xéo đã ra chi tài
Răng không giơ cái lại chàng ra chắn mộng để thòi lòi mộng ra 

Tuy thế vẫn có những nam nhi thông minh lanh lợi, đáp lại vô cùng thỏa đáng:
Anh đã  đưa cái lại chàng ra chắn mộng
Mà  thầy mẹ bên nhà khoát khoát khoan khoan
Để khi đi về móc áo, lỡ chừng treo khăn 

Cũng đã có cô gái bạo mồm bạo miệng tung chưởng vào đối phương:
Em mua cho anh cái dù tám cóng
Dưới có mốc đồng
Răng anh không đội
Để  đầu không rứa hè 

Nhưng đối thủ của nàng không phải tay vừa, đã bình tĩnh phản công:
Cái dù tám cóng dưới có  cái móc đồng
Em đem về cho cha em đội cho nội em che
Phận anh là rễ đội nón tre quen rồi 

Đôi khi lời đối đáp thật hóm hỉnh, thông minh: 
Tiếng đồn em lấy chồng già
Đêm nằm em thấy ớt cà ra răng
Tre già còn dẻo hơn măng
Ớt cà tra có hột, chớ hơn thằng ớt tơ 
Văn nghệ dân gian như  đã nói là một chất liệu ngôn ngữ hòa tan trong tâm thức của mọi người, nó như mạch ngầm  ẩn dấu đâu đó tưởng chừng quên nhưng chỉ  một giây lắng đọng khắc khoải, sẽ bừng dậy những nỗi nhớ niềm thương da diết. Đó là một kho tàng vô tận tiềm ẩn trong mỗi người Quảng Trị, không thể có một công trình tìm kiếm hoàn chỉnh .Trong phần lược ghi với một ít nội dung tượng trưng, hy vọng tạo được một khoảnh khắc thanh thản khi nhớ về quê hương. 
                                  Lê Văn Trạch
                                                            Email: letrach@yahoo.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét