Thứ Sáu, 21 tháng 10, 2022

TẠ TỴ, VỚI HÀ NỘI (1921-2004)

TẠ TỴ, VỚI HÀ NỘI 
 

Tạ Tỵ (1921-2004) tên thật là Tạ Văn Tỵ, sinh ngày 3-5-1921 (tức ngày 26-3 năm Tân Dậu) tại Hà Nội. Trong giấy khai sinh của ông ghi ngày 24-9-1922, vì khai muộn mất một năm. Từ khi còn là một sinh viên, Tạ Tỵ đã thành danh khá sớm. Năm 1941, nhờ nhận một giải thưởng tranh, ông được đến thăm kinh đô Huế.
Năm 1943, ông tốt nghiệp tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Và cũng năm này, bức tranh “Mùa hè” của Tạ Tỵ đoạt một giải thưởng của Salon Unique.
Năm 1946, chiến tranh nổ ra giữa Việt Minh và Pháp, Tạ Tỵ cùng với nhiều hoạ sĩ VN khác, đã tham gia mặt trận Việt Minh chống Pháp và ông là người thầy dạy mỹ thuật đầu tiên trong Liên khu 3. Tác phẩm “Nhớ Hà Nội” năm 1947 (20×25 cm) được Tạ Tỵ vẽ trong giai đoạn này.
Tháng 5-1950, Tạ Tỵ rời khỏi vùng kháng chiến để trở về Hà Nội. Ông viết cho một người bạn rằng “Cách suy nghĩ của tôi không hợp với kháng chiến sau mấy năm chung sống với họ”. Bắt đầu từ đầu thập niên 1950, ngoài tài vẽ chân dung hí hoạ, ông còn sáng tác trên nhiều lĩnh vực khác, như: truyện, thơ, kịch bản, bút ký...
Năm 1951, ông triển lãm 60 bức tranh tại Hà Nội. Sau 1954, ông vào Nam và sống ở Sài Gòn. Ở đây ông đã phục vụ trong quân đội VNCH với cấp bậc sau cùng là trung tá trong Tổng cục Chiến tranh Chính trị. Năm 1956, ông triển lãm hơn 60 bức tranh đầu tiên tại Sài Gòn. Và năm 1961, ông triển lãm lần thứ hai 60 bức tranh lập thể và trừu tượng cũng ở nơi đó.
Năm 1975, sau thời gian học tập cải tạo, ông cùng vợ con vượt biển đến Malaysia và đi định cư tại Hoa Kỳ. Trong thời gian sống tại nước ngoài, Tạ Tỵ lại tiếp tục sáng tác. Năm 2003 sau khi vợ ông qua đời tại Mỹ, ông quyết định trở về VN với ước vọng sống những ngày cuối cùng ở quê hương mình. Vào 10 giờ sáng 24-8-2004 (mùng 9-7 năm Giáp Thân), Tạ Tỵ đã từ trần tại nhà riêng số 18/8 đường Phan Văn Trị, quận 5, TP.HCM, sau một cơn bệnh kéo dài do tuổi già, hưởng thọ 83 tuổi.
Sự nghiệp của ông, về hội họa:
- 1951: triển lãm 60 bức tranh tại Hà Nội.
- 1956: cuộc triển lãm hơn 60 bức tranh đầu tiên tại Sài Gòn.
- 1961: Cuộc triển lãm lần thứ hai 60 bức tranh lập thể và trừu tượng ở Sài Gòn.
Tác phẩm của ông được trưng bày tại nhiều bảo tàng viện nghệ thuật quốc tế ở Tokyo, San Francisco, New York và Paris.
Về văn chương:
- Những viên sỏi (tập truyện, NXB Nam Chi tùng thư, 1962)
- Yêu và thù (tập truyện, NXB Phạm Quang Khai, 1970)
- Mười khuôn mặt văn nghệ (nhận định văn học, NXB Nam Chi tùng thư, 1970)
- Phạm Duy còn đó nỗi buồn (NXB Văn sử học, 1971)
- Cho cuộc đời (thơ, NXB Khai Phóng, 1971)
- Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay (nhận định văn học, NXB Lá Bối, 1972)
- Bao giờ (tập truyện, NXB Gìn vàng giữ ngọc, 1972)
- Nghĩ (tạp văn, NXB Khai Phóng, 1974)
- Ðịa ngục (hồi ký, NXB Thằng Mõ, 1985)
- Khuôn mặt văn nghệ đã đi qua đời tôi (hồi ký, NXB Thằng Mõ, 1990)
- Xóm nhà tôi (tập truyện, NXB Xuân Thu, 1992)
Tạ Tỵ là một nghệ sĩ đa tài. Ban đầu ông có vẽ sơn mài, cùng thời kỳ với những họa sĩ như Nguyễn Gia Trí, Lê Phổ, Nguyễn Tư Nghiêm... Nhưng ông được biết đến nhiều hơn cả khi đi theo trường phái tranh lập thể. Tạ Tỵ là người gắn bó và đi đầu trong phong cách hội họa lập thể ở VN từ thập niên 1940 đến 1960; sang thập niên 1970, ông chuyển sang phong cách trừu tượng.
Tuy sống trong thời kỳ hai miền VN chia cắt, nhưng người ta không tìm thấy bóng dáng chiến tranh trong hội họa Tạ Tỵ. Một mảng tranh được công chúng biết đến nhiều là những bức ký họa do Tạ Tỵ vẽ về những nghệ sĩ mà ông quen biết. Những bức chân dung các nghệ sĩ như Đái Đức Tuấn, Vũ Hoàng Chương, Trịnh Công Sơn... có thể tìm thấy nhiều trên sách báo miền Nam VN trước 1975 và được giới nghệ sĩ đánh giá cao.
Ngoài hội họa, ông còn nổi tiếng trên nhiều lĩnh vực sáng tác: truyện, thơ, kịch bản, bút ký... Trong hơn nửa thế kỷ sáng tác, Tạ Tỵ đã để lại nhiều tác phẩm với các thể loại khác nhau.
Ðề tựa cho tuyển tập truyện ngắn “Những viên sỏi” của Tạ Tỵ xuất bản lần đầu tiên, nhà văn Nguyễn Hoạt viết: “Tôi nhận thấy trong con người Tạ Tỵ cũng như trong tác phẩm văn chương của anh, cái đáng yêu nhất, đáng quý nhất vẫn là ‘Tình thương’ chân thành, một ‘Tình thương’ do sự khích động qua xúc cảm mà bật ra, chứ không phải là một thứ văn chương hời hợt, giả tạo”.
Nguồn ảnh bài  : sưu tầm từ Internet &FB Nguyễn Phú Yên
 


 
THƠ TẠ TỴ
NHỮNG CON ĐƯỜNG HÀ NỘI
 
Nửa đêm không ngủ
Nhớ về Hà Nội mến thương
Hà Nội ơi Hà Nội
Tương tư thức trắng canh trường
Hà Nội của tôi
Của một triệu người lìa Hà Nội
Bỏ quê hương bỏ cả phố phường
Đánh mất tuổi thơ, chôn vùi kỷ niệm
Bỗng đêm nay sống lại trong tôi
Những con đường Hà Nội mến thân ơi
Hỡi những con đường
Có từ lúc tôi ôm bầu sữa mẹ
Những vỉa hè quen thuộc tự ngày xưa
Những vỉa hè phơi nắng dầm mưa
Chân chập chững theo chiều tay mẹ dắt
Rồi nhớn lên
Giữa những con đường dằng dặc
Tiếp nối nhau theo bờ ngói xiêu xiêu
Tiếp nối nhau như tay của người yêu
Truyền hơi thở khi gió mùa đến sớm
Những con đường
Những con đường rờn rợn
Tiếng chân người lạnh lẽo gõ đêm khuya
Nghe than van từng điệp khúc não nề
Nghe rỉ rả mưa phùn lầy lội
Nghe rụng xuống dưới chân tường sám hối
Những thân tàn rũ gục chết mùa đông
Từng âm thanh gờn gợn buốt trong lòng…
Hà Nội, ôi Hà Nội!
Hà Nội của tôi
Với hình ảnh mẹ già khắc khoải
Với em thơ mòn mỏi đếm ngày xanh
Vọng tiếng thời gian bóng xế ngang mành
Nghe thương nhớ nghẹn ngào trong ngực
Đường phố cũ chôn vùi uất ức
Thanh xuân nào e ấp giữa bàn tay
Vào chợ đời đánh mất tuổi thơ ngây
Nhìn mắt trắng buồn tênh cười thế sự
Những con đường
Ôi, những con đường cũ
Chiều phế hưng nằm ngủ dưới thời gian
Lớp bụi đời phủ trắng màu tang
Trong im lặng của bao người Hà Nội
Mà năm tháng chưa xóa mờ tội lỗi
Cứ đêm đêm từ năm cửa ô xa
Hát vọng về theo những canh gà
Tiếng sênh phách hú hồn ma quỷ
Bánh xe nghiến mặt đường rền rĩ
Tóc ca nhi chảy ướt vũng bùn nhơ
Hà Nội ơi! Vỡ nát cả mong chờ
Hà Nội, chao ôi Hà Nội
Hà Nội với những con đường đọng tím
Những con đường câm nín
Những con đường chết lịm ở tim tôi.
Tuổi hoa niên từng hát khúc yêu đời
Và nhảy múa khắp nẻo đường Hà Nội
Bao thương mến với bao nhiêu bối rối
Trôi về đây tàn phá cõi tâm linh
Trắng đêm thâu, trắng cả khối chân tình
Từng xác lá thu về vàng lối cỏ
Mùa úa héo dâng đầy đôi mắt nhỏ
Em ơi em! Có biết thuở nào khuây
Nhớ thương nhau qua những cánh đêm gầy
Nhìn gương mặt hãi hùng sau giấc ngủ.
Ôi, Hà Nội
Ôi những con đường cũ
Đâu hàng Bông hàng Trống với hàng Khay
Đâu hàng Đào khoe nõn những bàn tay
Những đôi mắt nhìn nhau sầu ly cách
Nước Hồ Gươm còn xanh màu cẩm thạch?
Tà áo ai còn đẹp buổi hoàng hôn?
Nhớ thương xưa nhạt nắng những khung tường
Nghiêng nghiêng xuống mặt hồ ôm bóng nước
Những con đường
Những con đường năm trước.
Của ngày xưa, xa lắm Hà Nội ơi
Đêm nay về ngự trị giữa lòng tôi
Đêm nay về, với năm cửa ô nghẽn lối.
Thao thức mãi, từng canh gà báo vội
Rạng đông nào gối lệch tóc đêm sâu
Ở ngoài kia, bóng tối đã phai mầu!..
(trích thi phẩm Cho cuộc đời, 1966)
 
THƯƠNG VỀ NĂM CỬA Ô XƯA
 
Tôi đứng bên này vĩ tuyến
Thương về năm cửa ô xưa
Quan Chưởng đêm tàn dẫn lối
Đê cao hun hút chợ Dừa
Cầu Dền mưa dầm lầy lội
Gió về đã buốt lòng chưa?
Yên Phụ đôi bờ sóng vỗ
Nhị Hà lấp lánh sao thưa
Cầu Giấy đường hoa phượng vĩ
Nhớ nhung biết mấy cho vừa…
Cửa ô ơi, cửa ô
Năm ngả đường đất nước
Trôi từ vạn nẻo sông hồ
Nắng mưa bốn hướng đổ vào lòng Hà Nội
Gục đầu nhớ tiếng võng đưa!…
Có biết chăng ai, mái tóc bồng bềnh chảy xuôi ý đẹp
Có nhớ chăng ai, lệ nào ướt đẫm tình người
Tê tái tiếng cười
Từng cánh hoa đời khép lại
Thương về năm cửa ô xưa!…
(1955).
 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét