Trần Kiêm Đoàn và các bài viết
1.Tinh thần học thuật Phật giáo
2.Túy hạnh tân Niên( thơ)
TINH THẦN HỌC THUẬT PHẬT GIÁO
Trần Kiêm Đoàn
Năm
nay, 2012, là năm đầu tiên trong ký ức của thế hệ Chiến Tranh Việt Nam,
xứ Huế không có một trận lụt nào từ đầu thời điểm lụt lội “tháng Bảy
nước nhảy lên bờ” cho đến hết mùa Giáng Sinh. Thế nhưng Huế vẫn rụt rè
với những cơn mưa và trở lạnh vào những ngày cuối năm. Cư dân trang mạng
càng làm biếng thăm nhau trên những thôn cùng xóm vắng thì lại càng có
nhiều “duyên nợ” gặp gỡ nhau hơn tại những điểm nóng của thời cuộc và
chữ nghĩa. Những ngày gần cuối năm, sinh hoạt “giặc I-meo” khá rộn ràng
là tin đồn “Ngày tận thế” sẽ xảy ra vào ngày 21-12-2012 chỉ vì lịch
Mayan ở tận Nam Mỹ, đã có từ nhiều nghìn năm
trước, kết thúc dòng thời gian cuối cùng vào ngày nầy. Riêng người theo
đạo Phật thì chỉ mỉm cười thú vị vì lý thuyết nhà Phật đã xác định điểm
giao thừa giữa tận thế và sáng thế chỉ là sát na của đương niệm hiện
tiền.
Bầu không khí sau 21-12 vừa nguội lại bị hâm nóng lên khi người đọc bắt gặp một nguồn tin tôn giáo: “Vì sao luận văn tốt nghiệp Học Viện Phật Giáo Việt Nam ‘Thực chất của Đạo Hòa Hảo’ bị ‘ném đá’ dữ dội?”
Xem ra mới biết rằng, trong tháng 12/2012, văn phòng Trung Ương Phật
giáo Hòa Hảo đã có văn bản phản đối chính thức gởi tới Giáo hội Phật
giáo Việt Nam cũng như Học viện Phật giáo Việt Nam tại Sài Gòn, đồng
thời với hơn 40 tín đồ Phật giáo Hòa Hảo từ miền Tây Nam bộ cũng trực
tiếp đến HVPGVN để khiếu kiện. Đối tượng của sự phản đối nầy là một
luận văn tốt nghiệp khóa IV của Tăng sinh Thích Thiện Huệ (từ đây xin
được viết tắt: Ts. TTH) qua chủ đề: “Thực chất của Đạo Hòa Hảo” do cố GS Minh Chi hướng dẫn và Hòa thượng Thích Giác Toàn, thay mặt Hội đồng Điều hành phê duyệt: “Đạt yêu cầu”!
Ở
mức độ thông thường và phổ quát của hệ thống đại học toàn cầu thì luận
văn tốt nghiệp thuộc phạm trù học thuật ở một trong 3 cấp độ: Luận văn
(Essay) thường dành cho cấp cử nhân (Bachelor), Tiểu luận (Thesis)
thường dành cho cấp thạc sĩ (Master) và luận án (Dissertation) dành cho
cấp tiến sĩ (Doctor). Nói một cách tổng quát, mỗi cấp độ
có những yêu cầu và giới hạn riêng. Ở mức độ càng cao thì tính chất tham
khảo, nghiên cứu, tổng hợp, luận giải và lập thuyết càng sâu và rộng
hơn. Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp luận văn cấp cử nhân vượt
trội hơn cả tiểu luận hay luận án cấp tiến sĩ và ngược lại. Nhắc lại
khái niệm tương đối mang tính truyền thống nầy để liên hệ tới luận văn
tốt nghiệp đã nêu dẫn ở trên của Ts. TTH. Luận văn tốt nghiệp thường
phản ánh công trình nghiên cứu khách quan và phương pháp luận của sinh
viên tốt nghiệp đậm nét hơn là nỗ lực phủ bác một hệ thống tôn giáo,
chính trị hay xã hội mang bản chất chính luận gay gắt như trường hợp Ts.
TTH; nhất là trong bối cảnh của một học viện Phật giáo.
Tạm
gác ra ngoài những biên kiến tôn giáo và chính trị, vấn đề trung tâm ở
đây là trên căn bản học thuật, liệu luận văn “đạt yêu cầu” của Ts. TTH
có đạt được mục đích tìm ra được “Thực chất của Đạo Hòa Hảo” hay không.
Và, nhìn từ lăng kính Phật giáo, Ts. TTH đã vận dụng được gì tri thức
luận Phật giáo để chứng minh, phân tích và tổng luận về thực chất của
đạo Hòa Hảo.
Thế
giới quan Phật giáo, trước hết, là cái nhìn nhất nguyên. Dẫu khai triển
lớn đến mức độ nào và gút thắt nhỏ đến giới hạn nào; thô triển và cực
vi đến đâu thì vẫn đối diện với sự thật hiển nhiên “ba nguồn một thể”:
Khổ <> vô thường <> vô ngã = Không. Và rồi không lại hoàn
không! Bốn thánh đế, mười hai nhân duyên và ba dấu ấn cũng chỉ là một
cách lý giải dòng hiện sinh vốn đã có từ vô thủy đến vô chung. Đạo Phật
từ thời nguyên thủy đến hôm nay mỗi lúc, mỗi nơi, mỗi sinh thể đều tùy
căn cơ mà biến hiện. Mỗi sự đau khổ, mỗi biểu hiện của vô thường của tận
thế và khai sinh
có mặt cùng lúc theo từng chớp mắt tùy duyên mà sinh khởi. Không ai cả
mà là tất cả… đều bị chi phối trong vòng tròn thành, trụ, hoại, không.
Chẳng có một trung tâmtối thượng và uyên nguyên nào làm chủ tể mà tùy
vào vô lượng phương tiện để đối trị và xoay vần. Tiếc thay, trong luận
văn tốt nghiệp, Ts. TTH đã khởi tâm phân biệt khi tự xác tín theo lối
biện chứng suy đoán “cây đa sinh ra ông thần; ông thần phải cần cây đa”
để làm phương tiện luận lý khi đem những khúc quanh lịch sử và sự tương
tác nhất thời giữa con người và hoàn cảnh để làm căn bản chứng minh
nguyên nhân ra đời của một pháp (trong vô lượng pháp): Đạo Hòa Hảo.
Trong lúc dưới nhãn quan Phật giáo thì mỗi hiện tượng sinh khởi đều
không thể phát xuất từ một nguyên
nhân hay điều kiện đơn lẻ nào cả mà thành; tất cả đều là hợp duyên mà
biến hóa. Ts. TTH đã tự dừng lại giữa trùng trùng duyên khởi để nắm bắt
những hiện tượng chính trị và xã hội thời Nam Bộ kháng chiến làm tiêu đề
xác định cột mốc khai sinh cho đạo Hòa Hảo. Do vậy, nên tác giả luận
văn có vẻ như chỉ thấy hiện tượng cái cầu vồng làm nên cơn mưa mà bất
chấp hết thảy thiên thời địa lý khi đặt bút viết:
“Trong
các cuộc kháng chiến chống thực dân và đế quốc, một số người đã lợi
dụng niềm tin và sự thiếu hiểu biết của người dân bằng loại tín ngưỡng
nầy mà lôi kéo họ vào các hoạt động chính trị dưới hình thức của một tôn
giáo, đạo Hòa Hảo là một ví dụ điển hình…”
Về
mặt tri thức luận, Ts. TTH không dựa trên cột xương sống Trung Đạo của
Phật giáo mà lại dựa trên tạp luận cực đoan và biên kiến thiếu vi tế của
nhà nghiên cứu chưa thành để mô tả lý thuyết kinh văn của đạo Hòa Hảo
như là một mớ ý và lời hỗn độn, vay mượn khập khiễng từ nhiều nguồn tư
tưởng khác nhau phi Phật giáo, phi tôn giáo, hoàn toàn không có một chỗ
đứng nào trong hệ thống tôn giáo:
“Hòa
Hảo là một tôn giáo được thành lập cách đây không lâu, lẽ ra trong kế
thừa, nó phải có tính sáng tạo, khi có sự ảnh hưởng hay tiếp nối tư
tưởng, mà hầu như toàn bộ giáo lý đạo nầy, nói chung, đều là sự vay mượn
lẫn lộn, thiếu trung thực, thiếu sáng tạo từ những tư tưởng của các tôn
giáo có trước như Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, Bửu Sơn Kỳ Hương, Cao
Đài Giáo…Trong đó chỉ có ba hệ thống tư tưởng của Phật, Khổng, Lão là có
ảnh hưởng sâu đậm đến sự hình thành giáo lý đạo Hòa Hảo. Cho nên, trên
lập trường tư tưởng, tôn giáo nầy hoàn toàn không có chỗ đứng.”
Thật
ra, nguồn kiến thức nhân loại là một quá trình vay mượn kế thừa và tác
động lên nhau. Ngay cả những khái niệm rất cơ bản trong lý thuyết Phật
giáo như Duyên, Nghiệp, Luân Hồi… cũng đã xuất hiện rất sớm trong văn lý
Vệ Đà, Áo Nghĩa Thư, Bà La Môn… hàng nghìn năm trước khi Phật giáo ra
đời ở Ấn Độ.
Học
thuật Phật giáo đòi hỏi một phương pháp luận tương ứng với giáo thuyết
căn bản của nhà Phật; trong đó, tinh thần từ bi và trí tuệ là cánh cửa
mở vào thế giới chữ nghĩa của kinh văn. Khiêm cung, ái ngữ, trí tuệ và
buông xả là một phần quan trọng trong phẩm hạnh của hành giả tu trì theo
đạo Phật. Ngược lại, chấp trước và ngã mạn là cánh cửa khép kín tư duy.
Ngày xưa, Châu Lợi Bàn Đà là một đại đệ tử của đức Phật, nhưng học bao
nhiêu tháng ngày vẫn không thuộc được một câu kinh bên cạnh A Nan Đà với
trí nhớ phi thường, nghe qua một lần là đã thuộc làu thiên kinh vạn
quyển. Căn trí ngắn dài do tác nghiệp; chẳng phải là yếu tố tiên
quyết của bậc chân tu, của người hành giả. Bồ tát Thường Bất Khinh đảnh
lễ từ hàng vương hầu khanh tướng đến giai cấp gánh phân Chiên Đà La: “Xin cúi chào một đức Phật tương lai!”.
Tất cả đều là biểu tượng. Một biểu tượng từ bi và trí tuệ muôn đời của
đạo Phật do thấy được thể tánh của vạn pháp, không bị vô minh che lấp
bởi cái hình tướng giả tạm bên ngoài và âm thanh, chữ nghĩa ma trơi của
nhân thế. Với tinh thần Phật giáo, học thuật sẽ biến thành học phiệt,
vọng ngôn hay hý luận khi chỉ biết khư khư lấy cái gang tay của mình làm
đơn vị đo lường chiều sâu vô lường của đức tin và tâm thức. Chưa nói về
kiến thức mà chỉ nói về phẩm hạnh của bậc xuất gia cũng đáng suy gẫm
khi đọc bài luận văn tốt nghiệp
của Ts. TTH, diễn đạt theo một văn phong phi học thuật đến độ bất ngờ:
“Xét
cho cùng, Huỳnh Phú Sổ vẫn là một nhà thông thái của một đám người dốt
nát đang tôn xưng ông là giáo chủ, một giáo chủ kiêu căng, khoác lác,
hay lòe đời bằng một mớ kiến thức rơm rác do học lóm mà được, một giáo
chủ luôn tạo những mâu thuẩn trong lời dạy của mình, vậy mà có ai hay
biết gì đâu, vẫn cho đó là những khuôn vàng thước ngọc cần phải noi
theo.”
Trong
Bát Chánh Đạo, không có “Chánh Tín” bởi pháp thị do tâm. Linh tại ngã
bất linh tại ngã, lòng tin là một cảm thức nặng tâm lý chủ quan có thể
đúng với người nầy, nhưng lại sai đối với người nọ và ngược lại. Lắm
lúc, chỉ có con nhím đực mới thấy được “làn da mượt mà” của con nhím cái
mà thôi. Nhưng Ts. TTH đã tự giới hạn mình riêng một góc trời trong
không gian bao la “vạn pháp đều là Phật pháp” để phân tích bỉ thử khi
nhận diện nhân vật Huỳnh Phú Sổ. Tác giả luận văn đã dùng lăng kính thị
phi đời thường để soi rọi vào giả tướng của người theo đạo Hòa Hảo nên
hệ luận tất nhiên là sẽ đưa tới sự khẳng
định gần với xu hướng phủ định luận tiêu cực như sau:
“Theo
chúng tôi, sở dĩ Huỳnh Phú Sổ mượn hình thức tôn giáo để hoạt động
chính trị là có hai nguyên do: thứ nhất, vì tôn giáo là nơi tín ngưỡng
của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, và cũng là nơi chính quyền thực
dân không dám xâm phạm, do đó, hình thức tôn giáo đối với ông ta là nơi
hoạt động an toàn nhất; thứ hai, chính vì tôn giáo là nơi tín ngưỡng
của mọi người dân nên ông sẽ dễ dàng huy động được nhiều người vào
những hoạt động chính trị của ông, nhất là với tầng lớp nông dân ít học.
Vì vậy, đạo giáo nầy, cũng được gọi là đạo giáo của những người ít
học.”
Cái
“học” trong tôn giáo rất khác với cái học đời thường. Khái niệm tiến sĩ
đời thường là một tập đại thành của kiến thức; nhưng học vị tiến sĩ
Geshe của Phật giáo Tây Tạng là kết quả của công hạnh tu trì, kiến thức
chỉ là phương tiện trợ duyên. Người “ít học” trong Phật giáo không phải
là người dân chân đất chưa học hết trường làng mà là những người chấp
trước, ngã mạn và vô minh, kể cả những bậc đại khoa buông lung khoa đại!
Trong sinh hoạt Phật giáo truyền thống, bậc Vô Học “vô sư tự ngộ” vẫn
thường được xếp cao hơn hàng Hữu Học “nan ngộ hữu sư”. Bởi
vậy, theo tinh thần Phật
giáo thì bề dày của pháp trí chẳng phải là mức độ đến trường nhiều hay
ít, chứng chỉ học tập ở trường lớp cao hay thấp mà là ở tâm bồ đề kiên
cố và trí tuệ khai mở được chừng nào.
Tôn
giáo trong thế kỷ 21 thiên về ứng dụng. Khái niệm Phật giáo ứng dụng
(applied Buddhism) đang từng bước phát huy để đem đạo Phật đi vào cuộc
đời. Trong khoa học tự nhiên, tâm lý và tri thức bứt phá dám nghĩ, dám
nói, dám làm như Galileo ngày xưa dám đoan quyết “quả đất xoay chung
quanh mặt trời” vì đã dày công nghiên cứu tường tận và khách quan là
biểu tượng tích cực nhất của tinh thần học thuật. Dẫu cho áp lực thần
quyền bắt ông nói ngược lại nhưng chân lý khách quan cuối cùng vẫn
thắng. Trong khoa học xã hội, chân lý khách quan không rạch ròi hiển lộ
như thế nên muốn cầu tiến bộ thì cần phải trang bị một nhãn quan phức
hợp đến từ mọi phía. Cần trang bị một nhãn quan thông thoáng để xem
những cặp phạm trù thuận nghịch tương tác và tương tranh như đúng/sai,
sướng/ khổ, u/minh, thiện/ác… phù hợp với giá trị tương đối và biến
chuyển vô thường đầy duyên lành và nghiệp chướng tự tại của chúng.
Trường hợp Ts. TTH là một ví dụ điển hình về tinh thần học thuật khai
phá – có khi là bứt phá – trong quá trình tìm tòi và học hỏi. Những phản
ứng nóng bỏng về luận văn tốt nghiệp liên quan đến đạo Hòa Hảo là một
thử nghiệm của tinh thần ứng dụng. Chính cộng đồng liên minh tôn giáo là
hội đồng xét duyệt giá trị đích thực của một công trình học thuật. Cánh
cửa đối thoại mở rộng giữa ban Trị sự Trung ương Giáo
hội Phật giáo Hòa Hảo
và Hội đồng Điều hành Học viện Phật giáo Việt Nam liên quan đến trường
hợp Tăng sinh Thích Thiện Huệ nhằm hóa giải và khép lại hồ sơ của vụ
việc là một ưu điểm đáng ghi nhận của tinh thần “Phật giáo ứng dụng”
trên căn bản từ bi và trí tuệ.
Năm
mới, ước mong rằng, các học viện Phật giáo nói chung là những trung tâm
đào tạo Tăng tài và chỉ “đạt yêu cầu” khi học thuật không xa rời chánh
niệm và chánh pháp.
Làng Liễu Cốc Hạ, ngày Tết Dương Lịch 2013
Trần Kiêm Đoàn
TÚY HẠNH TÂN NIÊN
Trần Kiêm Đoàn
Thiên hạ Giao Thừa đón Tết Tây
Tha hương lặng lẽ một mình đây
Trời Nam sum họp lưng hồ cạn
Đất Mỹ mình ta nửa chén đầy
Ta lại tìm ta đâu kẻ biết
Bạn về với bạn có ai hay
Tiễn đưa năm cũ Mừng Năm Mới
Chưa nhắp đầy vơi sao đã say?!
****
HỌA :
1 . TRỐN XUÂN
1 . TRỐN XUÂN
Cao Yên Tuấn
Cám ơn bạn đã chúc Xuân Tây
Mà tớ cơ hồ đứt ruột đây
Ngày tết xuân ai mong chậm dứt
Năm tàn thọ tớ sợ mau đầy
Quê hương tình cũ dường không nhớ
Đất lạ người dưng đâu có hay ?
Bởi thế đầu năm ta trốn biệt
Trùm mền ôm rượu ngủ mê say !
2 . THÀNH SẦU VIỄN XỨ
Hà Phương Hoài
"Meo Mỹ" ta dùng chúc Tết Tây
Nàng Xuân chết cóng ở đâu đây
Tớ nay nợ cũ còn chưa dứt
Đằng ấy tình xưa vẫn giữ đầy
Chén đắng ly hương luôn gợi nhớ
Thành sầu viễn xứ đến nào hay ?
Nửa đêm thức giấc giao thừa nhỉ
Tìm chén quỳnh tương ta chuốc say !
3 . GIAO THỪA ĐẤT KHÁCH
BVThăng
Tết Mỹ tết Tàu với tết Tây
Dường như còn thiếu chút gì đây
Tình đầu thiệt khó mà quên được
Nghĩa cũ xem ra vẫn cứ đầy
Cố quận tấm lòng luôn tưởng nhớ
Bạn xưa tấc dạ mãi còn hay
Giao thừa đất khách không nghe phaó
Ngàn chén Bồ Đào cũng khó say!
SLC, 1/1/2007
4 . ĐƯỜNG LÊN CUNG QUẢNG
( Họa "Trốn Xuân" cuả TTKiệt )
BVThăng
Không rảnh tìm Ông chúc Tết Tây
Vì còn đang bận kiếm đào đây
Xuân dù chẳng đợi Xuân đang tới
Tuổi dẫu không mong Tuổi vẫn đầy
Tình cũ lẽ naò không chút nhớ
Người dưng đâu phaỉ nói rằng hay
Dù cho có trốn trên cung Quảng
Cũng bị Hằng Nga rượu chuốc say!
SLC, 1/1/2007
5 . CHÚC XUÂN
(tặng nhà thơ TTK Cao Yên Tuấn, Houston)
VHLA
Hôm nay ngày tết chúc Xuân Tây
Lặng đếm bao năm mãi lưu đầy
Nước mắt buồn rơi, ôi, nước mắt
Thôi thì nâng ly chúc ngày nay
Chén anh chén chú hồn túy lúy
Rượu rót lời ra thế mới hay
Nhất nhật còn vui đời may mắn
Bách niên tửu lượng vẫn còn say
(Los Angeles January 1st, 2007)
6. TẾT TÂY
(tặng anh TKĐ)
Đình Nguyên
Giữa phố Sài gòn đón Tết Tây
Rộn ràng náo nức ở quanh đây
Bên kia đất mẹ tình chưa cạn
Phía nọ quê cha nghĩa vẫn đầy
Ngàn dặm xa vời ta vẫn gặp
Tấc gang kề cận chẳng ai hay !
Đầy vơi sự thế trùng duyên khởi
Tháng tận năm tàn ta bỗng say !
7. XUÂN ĐẾN XUÂN ĐI
Cao Yên Tuấn
Hết Tết tây rồi đến Tết ta
Thời gian quanh quẩn thế thôi mà
Tết vui mấy bữa nên không chán
Xuân hận bao năm vẫn chửa qua
Người lạ chẳng quen gần kế cận
Kẻ quen không lạ biệt mù xa
Quỳ dâng tiên tổ lời mong ước
Sức trẻ vươn lên thế tuổi già
Thời gian quanh quẩn thế thôi mà
Tết vui mấy bữa nên không chán
Xuân hận bao năm vẫn chửa qua
Người lạ chẳng quen gần kế cận
Kẻ quen không lạ biệt mù xa
Quỳ dâng tiên tổ lời mong ước
Sức trẻ vươn lên thế tuổi già
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét