Chủ Nhật, 16 tháng 12, 2012

Triệu Phong - Trường xưa và kỷ niệm- nhiều bài viêt

Quý thày cô về thăm  Cửa Việt 1963:
Với  bài viết của các CHS :
 14. Văn Thiên Tùng - Mãi còn tên gọi trường ơi!
13. Trần Ngọc Châu- Đong đầy ký ức
12-Lê Văn Huế -Hoài Niệm về một ngôi trường
11 - Nguyễn Mùi- Lòng chẳng khuây nguôi- Vẫn đợi em về 
10-Mâm Thị Đài : Có một mái trường như thế
9- Lê V Trâm: KUTX và niềm tin trong ngày hợp mặt đầu tiên
8- Hoàng Phóng K 68-72 : Nhớ về trường cũ lớp xưa
7- - Lê Đông  Đà Nẵng  K 6266: Những lần hội ngộ trong đời
6- - Nguyễn Văn Tâm  Tr. Thuận K 6670 :Ngày Hội trường vui và nhớ
5- Lê Bá Tâm: Hai con trâu bạng chắc
4-Lê Đàn: Tiếng gọi đò, chợ Hôm- Đâu Kênh 
3-Võ Thị Tương: Hoài niệm tuổi thơ 
2-  Hồ Thị Tình: Duyên  
1- Lê Thị Thanh Hằng: Ngày về 
0-Các văn bản họp mặt trường 05.12.2011

 

MÃI CÒN TÊN GỌI TRƯỜNG ƠI!

CHS.Văn Thiên Tùng -Lớp 6/2- K 67-71

Hiện ở: Long Hưng-Hải Phú-Hải Lăng- Quảng Trị

ĐT. 0533 861 404- DD 0984 747 511

Cuộc chiến ác liệt  mùa hè 72  đã  xóa sạch dấu vết ngôi trường. Mặc dù nhiều lần trường vẫn di tản theo bước chân học trò đến những vùng tạm cư rồi mất hẳn tên gọi theo dòng lịch sử, song tên  trường Trung học Triệu Phong vẫn hoài lưu dấu biết bao kỷ niệm thân thương trong tiềm thức của thầy và trò  chúng tôi…



* Từ những ý nguyện:

Qua nhiều lần gặp gỡ và tâm tình, thầy Nguyễn Văn Quang cùng một số CHS  thuộc thế hệ huynh trưởng đã thống nhất phải thành lập một Ban liên lạc gọi là nhịp cầu kết nối trường ta  “Trung học Triệu Phong 1960-1975”.Ngày từ những lúc ban đầu, hình như ai cũng đồng tâm nhất ý, ước nguyện kết nối thầy cô - bạn bè để cùng nhau ôn lại những  kỷ niệm, những hình ảnh của trường xưa mà thời gian dài chúng ta theo dòng thời cuộc đã tạm lãng quên. Nay là lúc bản đồng ca trường mãi còn đây…phải được xướng lên. Ngược dòng thời gian với bao thăng trầm lịch sử, dù cho chiến cuộc đã xóa sạch ngôi trường nhưng các thế hệ học trò vẫn còn hiện hữu, ai cũng canh cánh trong lòng và ngầm bảo: “Tại sao qua mấy chục năm rồi, giờ đây cứ mỗi lần gặp nhau hay nhắc về thầy cô - bạn bè là hình ảnh tuổi thơ lại hiện lên, ở tuổi này, chúng ta ngoài những sinh hoạt gia đình, quê hương, nay còn thêm hình ảnh về trường xưa bạn cũ. Những kỷ niệm  tuổi thơ tuy đã đi xa nhưng mãi còn in dấu trong mỗi một chúng ta.

Sau nhiều lần thăm dò ý kiến và nhiều buổi họp mặt bàn luận,kết cục thống nhất một ước nguyện cố gắng trong năm 2010 tổ chức một lần họp mặt đầu tiên khi trường ta vào tuổi 50; việc tiến hành sắp xếp thời gian tổ chức một buổi họp mặt CHS trường tại Quảng trị là chính đáng. Ngay từ bây giờ mọi người có thể tin báo chuyền nhau  biết để về họp mặt, chủ yếu là ACE.CHS hiện đang sinh sống tại quê nhà  và  một số tỉnh  lân cận, đồng thời BLL lâm thời cần tìm địa chỉ quý thầy cô hiện đang ở tại Huế,  Đà Nẵng để lên danh sách mời và vận động tài chính ủng hộ...

Tất cả các thành viên đều tán thành ý kiến đó và quyết định tổ chức họp mặt lần đầu tại Quảng trị trong năm này. Số lượng lần này dự kiến trong vòng 100 -150 người.Song song với việc tổ chức họp mặt còn có nhiều ý kiến   là nên có một tập san. Chỉ có sách mới lưu giữ dài lâu những gì thuộc về kỷ vật, ký ức thuộc về trường, lớp thầy cô và bạn bè của ngày xưa và gởi lại mai sau. Đề tài này được đưa ra bàn  luận nhiều nhất nhưng rồi cũng quyết  tâm thực hiện. Nội dung đề tài đã hình thành, ý nguyện đang  được chắp cánh, những cuộc điện thoại báo tin, những Email thăm hỏi, bổ sung ý kiến rằng: phải thế này, phải thế kia mới hài lòng, cứ thế như vết dầu loang, không những trong nước mà cả thầy cô và CHS trường ở ngoài nước.

Quý thầy cô không ngớt lời động viên, Các CHS thành đạt thì hết lòng ủng hộ, các bạn bè thì cổ vũ tối đa… BLL nhận lâm thời phấn chấn bắt tay vào công việc  đồng lúc cả 2 nội dung, chắc bấy lâu chỉ có THTP là trường đầu tiên thực hiện ý tưởng này… Nhân một chuyến về  quê ngoại lo việc hiếu nhạc gia, thầy Bùi Ngọc Bửu và thầy Nguyễn Văn Quang gặp nhau có tính bàn  về ý tưởng họp trường và làm báo thầy ủng hộ ý kiến này ngay và xin hỗ trợ 200 đô la, xem đây là việc phải làm; rồi cứ thế thầy Tôn Thất Phú, thầy Đoàn Đức; quý cô Như Hoàn, cô NgọcTỉnh, cô Gái… đến các anh chị CHS Ngô Hướng, Kim Quy, Thể Tần, Trọng Phước, Mỹ Lệ, Phạm Tiến, , , Lê Thị Huệ, Hồ Thị Tình.... Các tư liệu, hình ảnh, trường lớp, tuổi học trò gồm các học bạ, bằng khen, thẻ học sinh và những tập san nhỏ lẻ kèm theo các bài viết kể về kỷ niệm trường, lớp cứ  liên tục gởi đến Ban liên lạc. Như vậy nguồn lực để tổ chức họp mặt lần này và chi phí in ấn xem như tạm ổn. Đấy là nhờ sự cổ vũ đầu tiên từ quý thầy cô đến các CHS thành đạt nhiệt tình ra tay và đồng sức ủng hộ.  Chỉ mấy tháng số lượng bài đủ để biên tập thành 1 cuốn sách dày 360 trang. Ban biên soạn được bổ sung để cùng với Ban liên lạc chuẩn bị nội dung tên  cho tập san, xem dò, đánh máy để nộp nhà xuất bản duyệt cấp phép và đem in để chuẩn bị phát hành.

Điều đáng ngạc nhiên là những tấm hình, những giấy tờ, bức thư có từ những năm 60 nay vẫn được quý thầy cô, các ACE cất giữ cẩn thận nên đến nay vẫn còn rỏ nét, nội dung rỏ ràng, những trang thư, những thành tích biểu còn nguyên tên tuổi, chữ ký thầy cô và điểm học tập của nhiều bạn. Xem đây là những văn kiện vô giá và một chùm tư liệu quý trong lòng bạn đọc gợi dòng liên tưởng về một ngôi trường…Để rồi trong buổi họp mặt có gần 400 người và phát hành 500 cuốn Ký ức trường xưa đúng trong ngày hội đầu tiên .

* Một ước nguyện đã thành:  

Text Box: Quý Thầy cô về dự họp mặt 05/12/2012Đối với những ai đã từng sống ở Quảng Trị, khi nhắc đến tiết Đại Hàn là liên tưởng đến những ngày rét buốt  cóng xương, mưa phùn bấc thổi, không khí lạnh theo gió mùa đông Bắc cấp 6, 7 thổi về, giá rét và dai dẳng tạo độ ẩm đến 90% trở lên. Đường sá bùn sục lầy lội, những cành cây trơ trụi lá vì không chịu nỗi hanh Bấc, giá lạnh…Thế mà từ sáng sớm trong mưa phùn bấc thổi, con đường Phan Bội Châu* hướng rẽ lên Khu sinh thái Tích Tường, tờ mờ  sáng đã vang rộn tiếng hỏi nhau í-ới, đường chật người và xe… Tại đây trước cổng vào từng nhóm hình như ai cũng đang dõi mắt trông ngóng, hóng đợi một ai đó và nghe lòng xao xuyến lạ thường. Vào mùa đông, 7 giờ30 trời mới sáng, theo như chương trình của Ban tổ chức là 8 giờ30 bắt đầu khai hội. Không gian tại đây thông thoáng và rộng rãi, cây xanh ấm áp;  trước lối vào cũng như bãi đậu xe chật kín.

Đoàn Huế gồm các thầy Nguyễn Văn Hóa, Trần Sĩ Tiêu, cô Trịnh Thị Loan, thầy Hồ Đáp, thầy Lê Văn Rơi… cùng nhau đi chung một xe; quý thầy cô vừa xuống xe, quý “ông bà” học sinh vồn vã vây quanh thưa chào niềm nỡ và bắt tay rối rít… Những cái bắt tay nồng ấm của tình thầy trò lúc này mới dám thể hiện bằng những cái bắt tay nghĩa tình, chứ ngày xưa hầu hết học sinh khi đến gần Thầy mặt cúng tái xanh miệng lưỡi líu đi, vòng tay cúi  chào cho đúng lễ. Tính ra thế hệ cuối cùng rời trường cùng đã gần tròn 35 năm rồi; các anh chị lớp đầu tiên xấp xỉ45 năm, bây giờ mới được hâm nóng lại, những cái nắm tay ngắn ngủi, những cái nhìn ngỡ ngàng, vì học trò đông quá. Lúc này thầy trò bên nhau chẳng còn phân biệt được ai là thầy và ai là trò nữa …Chỉ khác chỗ là khi học trò bắt tay thầy là chìa cả 2 tay mà thôi.

Ngoài hành lang lễ tân, thầy Nguyễn Thiện Lữ vồn vã bước vào, liên tục vẫy tay chào chung mọi người, Thầy vừa nói vừa cười hồ hỡi, vừa giơ tay chỉ tên từng  người.

- Đây là …, đây là…

- Học trò đáp lại:

- Dạ em là Lê Hóa…, dạ… em là Lê Văn Ích, Đỗ Văn Phán, Lê Mậu Ẩn, Nguyễn Thị Kim Hòa …

 Các học sinh khác cũng ào ra vây quanh Thầy, những cái bắt tay rối rít luôn kèm theo tiếng “Em kính chào thầy”.  Năm nay thầy Lữ tuy đã bát tuần, với chừng ấy tuổi mà dáng vóc thầy vẫn còn mạnh khỏe, chân bước còn linh hoạt. Vượt quảng đường dài từ Thành phố Đà Nẵng ra đây ngày trước để sáng nay lại đến sớm, thật là điều không thể ngờ. Bằng nụ cười thân thiện và khả kính,  hình như lúc này thầy đang lục tung để trí để quá khú trở về với những hình ảnh đáng yêu cảu học trò rồi chỉ tên từng người, điểm từng cá tính cá biệt cũng như  trò cưng của tui;  

Bất chợt:

Anh Lê Hóa buộc phải tự bộc bạch:

 Ngày xưa em giỏi toán được cũng nhờ ơn thầy, thầy dạy toán rất kỹ và dễ hiểu. Khi nào thầy cũng nhắc đi nhắc lại câu: “ Học toán là học đến tận nơi/ hỏi đến tận gốc và hiểu thật thông suốt- hành thật chu đáo” …”.

Những câu chuyện ngoài lề của phút giây đầu tiên sau mấy chục năm gặp lại ví như chuỗi dài liên kết của tình thầy trò nghe hoài  không dứt, kể hoài không hết, vì mỗi trò vài chuyện liên kết lại thành chùm liên tưởng cứ đan xen để không gian xưa hiện ra, ký ức xưa trở về... Nhóm  này, tốp nọ, bàn kia vẫn lao xao như thời  còn tuổi học trò, tìm bằng được thầy lớp mình để thầy chụp hình lưu niệm; chỗ kia quý thầy cũng ngồi lại bên nhau ôn lại chuyện đời đồng nghiệp, chuyện thế thái nhân tình. Bao câu chuyện lần lượt theo về. Trong dãy bàn kia thầy Trần Sĩ Tiêu, thầy Nguyễn Văn Hóa, cô Trịnh Thị Loan, nhóm khác cũng xúm xít vây quanh chào hỏi. Hôm nay chỉ có duy nhất cô Trịnh Thị Loan còn lại là  thầy Văn Phong, Trần Văn Kỳ, Hoàng Văn Hòa, Nguyễn Văn Quang đều là đồng nghiệp mấy chục năm trước và có một thời đảm nhận chức vụ quản lý, thời mà thầy và trò chỉ cách nhau chừng 5 đến 10 tuổi nhưng học trò hầu hết đều kính trọng thầy như cha mẹ; Ngồi bên nhau nay tuổi gần đất xa trời nhưng mà khoảng không gian văn phòng  nhỏ bé  của trường sau mỗi buổi dạy là vào văn phòng bên ấm chè xanh đặc quéo mà Bác Thơm thường nấu,  pha sẵn để ở trên bàn khi cầm đùi đi gõ trống để quý thầy thưởng thức, sau đó mới đến  lúc đàm đạo với nhau về chuyện trường, chuyện học trò, chuyện đất nước, xã hội và tình hình chiến sự …

Giờ khai hội bắt đầu. Ban tổ chức kính mời mọi người vào hội trường. Với khoảng hội trường rộng rãi nhưng đã chật chỗ, phải nhắc thêm ghế phụ bổ sung, tuy chật nhưng ấm áp vô cùng, cái lạnh không len vào nổi…


Text Box: Lãnh đạo UBND tặng hoa và chúc mừngQua lời giới thiệu của anh Lê Mậu Ẩn, thay mặt BTC đã lần lượt giới thiệu quý vị quan khách, quý thầy cô nguyên là giáo chức đã có một thời giảng dạy tại trường, vàgần 400 ACE.CHS. Qua lời đọc chào mừng của thầy Nguyễn Văn Quang, cảm động thay vị đại diện lãnh đạo chính quyền huyện Triệu Phong lên trao bó hoa và quà tặng của UBND huyện đến với thầy trò trường Trung học Triệu Phong và có lời phát biểu chúc mừng. Học trò Trịnh Thị Lựu, là cô giáo đương thời trong bộ áo dài truyền thống xin thay mặt các thế hệ học sinh có vài dòng  kính tri ân về công lao dạy dỗ của quý thầy cô đã hết lòng truyền thụ những kiến thức, những đức tính văn thể mỹ để hôm nay chúng em thành người, thành đạt và thành tài…Những lời này của chúng em xem như những bó hoa tươi thắm từ  học trò các thế hệ khắp nơi  đồng kính dâng tặng và cùng tâm niệm đáp tạ công ơn thầy cô kèm theo bảng vàng 4 chữ  “Tôn sư trọng đạo”  này là điều học trò luôn ghi nhớ. Chúng em xin kính mong quý thầy cô đón nhận để chúng em vui lòng.
Đáp lại những lời tri ân chân thành đó, thầy Văn Phong  đại diện quý thầy cô bằng lời diễn từ ngắn gọn : “Không thể ngờ được, mấy chục năm rồi mà các em vẫn còn trong tâm tưởng bóng dáng, tên tuổi  thầy cô…, tôi rất lấy làm xúc động. Các anh chị đến tuổi này còn tưởng nhớ đến ơn thầy cô xem như các anh chị đã báo hiếu công đức cha mẹ, nhớ đến bậc sinh thành; công lao dạy dỗ cũng sánh gần tình dưỡng dục. Cổ nhân từng dạy: “Công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy”; hoặc là “ Mồng một tết cha, mồng hai tết mẹ, mồng ba tết thầy”; 3 ngày tết bắt đầu một năm mới cũng được xếp lịch tuần tự đó để thể hiện lòng tôn kính. Lời tri ân của các anh chị là đạo hạnh ngàn đời ghi nhớ. Hôm nay, các anh chị đến tuổi ông, tuổi bà mà các anh chị vẫn còn giữ lấy…, nghĩa tình ấy thật đáng trân quý đáng để các thế hệ con cháu noi theo”.

Hình ảnh quý Thầy cô bên nhau và những bó hoa tươi thắm mà đại diện CHS nhẹ nhàng trao tặng trên tay cùng tấm bảng vàng “ Tôn sư trọng trạo” là thể hiện  tất cả tấm lòng ao ước từ lâu “được một lần hội ngộ để tri ân”.  Tiếng vỗ tay râm ran- lớn dần …, lớn dần… thay lời chúc tụng của học trò. Từ nay thầy trò trường ta đã có một Ban liên lạc đại diện cho 15 thế học sinh của trường từ những lúc tạm bợ  tại nhà thờ họ Đỗ làng Bích Khê, đình làng Hậu Kiên; lúc này chỉ duy nhất thầy Lê Công Trình vừa là người đảm nhận công việc quản lý vừa là người thầy giảng dạy tất cả các môn, và lâu nhất là tại xóm Bèng làng Nại Cửu. Nơi đây cổng trường dựng lên, tên trường được đặt nằm uy nghi trên cánh đồng bát ngát  bên trục đường tỉnh lộ 4. Nhưng rồi chẳng được bao lâu, Quảng Trị chiến tranh lại xảy ra ác liệt, dân chúng phải di tản tránh xa vùng giao chiến, mang theo tên trường vào trại tạm cư Hòa Khánh- Đà Nẵng; được hơn 2 năm trường cũng về lại quê hương với  điểm học: Một đặt tại thôn Ngô Xá - Triệu Trung, điểm 2 học tại Mai Lĩnh thuộc vùng cát Long Hưng- xã Hải Thượng, đều là những nơi trường mang tên gọi. Giờ đây tuy trường  không còn nữa nhưng trong thế hệ chúng ta trường vẫn là dấu ấn chẳng hề phai.

Ảnh bên: Vẫn còn vang tiếng hát

Những câu chuyện vẫn lao xao tiếng nói cười từ bàn này nhóm nọ, phần cơ bản của buổi họp mặt đã xong, những lời ca tiếng hát liên tục, liên tục vang lên như gợi lại tuổi thơ những ngày vui tiệc tất niên hoặc những đêm văn nghệ chào mừng vui xuân đón tết, cuối khóa trại  hè… Các lớp ào lên sân khấu kéo nhau chụp hình lưu niệm. Thầy trò bên nhau rộn ràng, mời gọi, kéo tay tìm nhau và kéo nhau vào đội hình  khóa lớp với thầy cô lớp mình.

Thời gian qua thật nhanh, vậy mà 12 giờ trưa, bữa tiệc nhẹ bắt đầu-một bữa cơm đầm ấm của một đại gia đình 35 năm giờ mới có dịp. Tiếng cười nói râm ran như nói lên nỗi mừng vui trở lại với năm tháng học trò thơ dai vô tư, các tiết mục văn nghệ vẫn tiếp tục đan xen không dứt…

Cuộc vui nào cũng đến lúc kết thúc, qua một giờ chiều nhưng không khí vẫn còn sôi động, hầu như ai cũng muốn níu kéo thời gian lại thêm chút nữa, cái rét cuối đông chợt biến tan và những cái bắt tay, lời chào tạm biệt và hẹn nhau tái ngộ lần đến…  như thầm nhắc với nhau  rằng: “ Từ nay chúng ta mãi mãi là thầy trò trường trung học Triệu Phong Quảng Trị xưa cũ, dầu vật đổi sao dời nhưng tên trường vẫn là nét son in dấu trong tâm tưởng của mỗi một người, một ý niệm thầy trò và ngôi trường đã khởi sinh…”.

Giờ phút chia tay đã đến, những cái vẫy tay nồng ấm, những chiếc máy ghi hình liên tục nổ tách tách. Xin cất giùm tôi những phút giây nầy cho thầy xưa bạn cũ với dòng ký ức ngọt ngào, với tình yêu đôi tám thơ ngây và khờ dại; với trang thư ủ mãi trong sách mãi chẳng dám trao hay bao cái liếc nhìn e ấp khi ai đó vừa vào bước vào cửa lớp, hoặc những khi theo ra khỏi cổng trường để rồi mang nổi nhớ bâng quơ về một bóng hình, về cái không gian hằng khi thường gặp trên cùng lối ta đi, ta về; Hình dáng thon thả với 2 tà áo trắng lượn bay, mái tóc buông thả; cái khuôn mặt khả ái với nụ cười e thẹn mỗi khi chợt đối mặt hay những lúc đạp theo về tận cửa nhà; để rồi từng theo về chập chờn trong giấc ngủ, nổi nhớ day dứt theo về trong suốt ngày hè; … Tất cả  vẫn còn sống mãi với thời gian.

Ký ức trường xưa ơi! Hãy là tập sách  lưu giữ gói giùm ta kỷ vật để tồn tại với thời gian và  để đời về hình ảnh không gian nơi trường xưa hiện hữu; Xin cám ơn quý vị tiền bối đã nổ lực xây dựng ngôi trường quận trong điều kiện khó khăn của quê nhà khi mà cuộc chiến chồng ngoai xâm vừa mới kết thúc;  đồng thời ghi tạc công lao các thầy cô đã vượt mấy chục cây số từu Huế, Đà Nẵng … về đây ăn cơm tháng, ngủ nhà trọ để đến trường dạy chữ, truyền  thụ kiến thức cho học trò quê…Xin cảm ơn chút tình năm cũ vì tương lai của thế hệ con cháu một vùng quê mà quý vị đã tận tâm, tận lực phục vụ cho việc trồng người để giờ đây nơi quê hương nghèo khó một thuở chiến tranh  đã có được nhiều nhà quản lý giỏi, nhiều nhà khoa học như Bác sĩ, kỹ sư, nhà giáo tiếng tăm và lắm doanh nhân thành đạt, cũng không ít người nông dân giỏi, những bậc cha mẹ chuẩn mực trong một mái ấm gia đình;  mỗi khi nhắc lại tuổi thanh xuân của mình lớn lên từ các ngã làng quê với cảnh chân lấm tay bùn, quanh năm vất vả bởi ruộng vườn nhưng cha mẹ vẫn chịu khó chăm chút sức lực để con cái được học hành tấn tới. Tất cả có nơi từ cổng trường, có từ cửa lớp và từ thầy cô - đồng môn để nay có ngàn quả ngọt hiện hữu phục vụ cho đời.

 Từ  khi có BLL đến nay cũng gần 2 năm, Ký ức trường xưa và buổi hội ngộ lần đầu như là hồi trống gióng lên từ kết nối đến kết nối; từ gặp gỡ đến gặp gỡ. Với  từng ấy tuổi đời, ngoài chức phận là ông là bà, ngoài những công việc cơ quan, xí nghiệp, nông gia,…ngoài trách nhiệm và bổn phận của một thành viên với cộng đồng làng xã, họ tộc nay lại còn thêm một sinh hoạt bên lề cuộc sống nhưng không kém phần quan trọng đó là trường-lớp và bạn bè; một sân chơi nghĩa tình đậm nét nhân văn trong cộng đồng xã hội, cái tình mà ví tựa “Cơm cha, áo mẹ, chữ thầy” trở thành mô thức, là đạo lý truyền đời  hầu như ai nào thể lờ đi.

Ảnh bên: quý thầy Võ Bùi, Đỗ Văn Phú, Nguyễn Văn Hảo, Hoàng Mãi gặp mặt tại Saigon 2/2012      

Cũng từ những ý niệm này. Hiện nay  nhóm CHS  tại Saigon gồm các ACE Ngô Hướng, Lê Bá Tâm, Võ Kham,…hay cùng nhau đến vấn an thầy hiệu trưởng Phan Thanh Thiên và cô Phạm Thị Diệu Thanh; tại Đồng Nai nay mới biết còn có cô Nguyễn Thị Phước; tại Bà Rịa Vũng Tàu có thầy Hồ Trị đã từ lâu nhiều học trò sống cùng huyện, tỉnh nhưng có biết thầy đâu! Nay nhờ ký ức trường xưa mới biết hiện tình sự việc, hẹn nhau tìm đến hoặc điện hởi thăm thầy…; Cũng như tại Đà Nẵng  lại có thầy Nguyễn Thiện Lữ,…ở Huế có quý thầy Lê Ngọc Dinh, Trần Sĩ Tiêu, Nguyễn Văn Hóa, Hồ Đáp, Lê Văn Rơi và cô Trịnh Thị Loan, Nguyễn Văn Lành, Quảng Trị hiện  còn  4 thầy Hiệu trưởng qua các thời kỳ đó là thầy Đỗ Thanh Quang, Văn Phong, Hoàng Đằng,Nguyễn Văn Quang;  quý thầy Dương Phúc Lô, Hoàng Văn Hòa, Trần Văn Kỳ, Nguyễn Đình Hạnh… Ngoài ra, còn có  quý thầy cô đang sống nước ngoài  như cô Phạm Thị Như Hoàn, Phan Thị Ngọc Tỉnh, Bùi Thị Gái, quý thầy Tôn Thất Phú, Trương Quý Nghi, Bùi Ngọc Bửu…

Ai dẫu một hay nhiều lần trở về chốn cũ, ngoài việc thắp những nén hương dâng bái tổ tiên ông bà, lại còn dành một khoảng lặng để gặp lại đồng nghiệp, bạn bè, thân hữu dành một chút quỹ thời gian ngồi lại với nhau khơi trong gạn đục, khuấy động tuổi xuân và quay về tuổi thơ đầy những cảm xúc, bồi hồi như câu chuyện vào tháng 5/2010 chị Lê Thị Thanh Hà trong bữa tiệc sau mấy chục năm trở về làng quê xứ sở; nơi vùng Sãi đầy ắp kỷ niệm, một cái tên mà khi nhắc đến cũng phải nhớ đến tên vị Chúa thứ hai trong các chúa đã đặt tên cho vùng đất này; một bữa tiệc gặp mặt họ hàng thân tộc, bạn bè thân hữu trường xưa tại nhà thờ Lê tộc; trong lời cảm tạ đã không cầm được nước mắt, trong tiếng nấc nghẹn ngào nước mắt cứ tuôn trào…Những câu chuyện  bên đời, những  nổi niềm khó tả, nhưng ân tình của một thuở ai cũng vì hoàn cảnh buộc phải chia xa để mưu cầu cuộc sống.

Xin nương làn gió  đưa mây về nguồn cội và … trút đầy kỷ niệm một thời dấu yêu! Bao câu chuyện xửa chuyện xưa, chuyện thời dạy học, chuyện học trò …chợt đến thoáng chốc bên bàn tiệc nhẹ, lúc bên ly cà phê đắng nhưng thoáng đượm hương xưa. Những chuyến trở về thăm quê hương gần đây của Cô Phan Thị Ngọc Tĩnh, thầy Tôn Thất Phú thầy Trương Quý Nghi… các bạn như Nguyễn Mùi, Dương Thị Bích Đào, Bích Liên, Kim Quy, Thể Tần, AC Tình và Toan, Anh Thuận, chị Điểu, chị Giao, Thanh Hà,  Nguyễn Trình, Lê Trọng Lâm,  Nguyễn Văn Tương và Lê Thị Thanh Tâm, Diệp Phụng Kiệt, Dương Xanh…đều để lại những tình cảm đẹp đẽ trong tình cảm là chung một không gian trường cũ và Quảng Trị quê hương.

Ảnh bên: Cô và thầy Dương Phúc Lô, Trịnh Thị Lựu, thầy Hoàng Mãi và Nguyễn Văn Quang, CHS.Lê Văn Thảo

Những  buổi gặp mặt ngắn ngủi, trang nghĩa tình  đều dặn chắp cánh sẻ san, nhiều buổi thăm viếng được BLL, nhóm khối lớp tổ chức thăm viếng, điện, gửi mail, chia buồn như những lúc:  Thăm thầy hiệu Trưởng Đỗ Thanh Quang già yếu nằm liệt giường, lúc thầy tạ thế tại Đông Hà, thầy Dương Phúc Lô bệnh bại liệt phải ngồi xe lăn, thầy Nguyễn Đình Hạnh bị K vòm họng giai đoạn đầu, CHS.Võ Thìn qua đời, Nguyễn Hòa bị tai biến nhẹ bán thân vận động khó khăn, Võ Thủ bị K phổi giai đoạn đầu, Hoàng Tiễn tai biến đột quỵ ngồi nằm tại chỗ không tự đi lại được … với nhiều khoản tiền giúp bạn, nhiều món quà biếu tặng đều được BLL, hoặc bạn bè trao tận tay; đấy là một niềm an ủi, sẻ chia thắm tình đượm nghĩa…
 (Dự tiệc cưới cặp CHS Lanh -Hoa Lớp 6/2- K 67-71). Trái sang:

Lê Văn Tánh- Lê Văn Lanh, thầy Nguyễn Văn Quang, Văn Thiên Tùng
Rồi các tiệc mừng con gái lấy chồng, con trai lấy vợ thầy trò lại có dịp bên nhau dài dài... Với ý nghĩa và việc làm không toan tính thiệt hơn đó; chẳng suy đi tính lại, hay trích lời cộng lãi mà chỉ bằng tấm lòng nghĩa tình một thuở! Chúng tôi những cô cậu học trò  trường xưa trung học Triệu Phong tâm niệm: “ Mãi còn tên gọi trường ơi!”./.      VTT     
* Con đường mới thành lập thuộc Phường 1-của Thị xã Quảng Trị ( Ngã tư giao nhau đường Quốc lộ 1A và Hai Bà Trưng, cửa ngõ phí Nam vào TXQT, xưa có tên gọi ngã tư Cầu Lòn long Hưng.

ĐONG ĐẦY KÝ ỨC

Trần Ngọc Châu
CHS trường Trung học Triệu Phong
Khoá 1864 – 1968
Địa chỉ: Kiệt 20 Tôn Thất Thuyết- TP Đông Hà- QT.
ĐT: 053.6511.335 – DĐ: 0167.504.6600

Bích La thôn - miền đất quê ngoại - nơi mẹ sinh ra và đã một thời nắng sớm mưa chiều tảo tần nuôi các con khôn lớn. Miền đất của những con người sống hiền hoà giản dị và tốt bụng, quanh năm bên ruộng đồng trìu mến với làng xóm, quê hương.
Ai cũng có một thời thơ ấu với những kỷ niệm khôn nguôi khi đến trường. Học lực của tôi không khá lắm, chỉ trung bình so với bạn bè cùng lớp nhưng may mắn được có tên vào lớp Đệ thất của trường, thật là oai và sướng vô cùng (quê ngoại mà!)
Từ thị xã Quảng Trị đạp xe về trường cũng khá xa; vèng xuống chợ Sãi thì có Võ Kế, Ngọc Dũng, Thuỵ Lan, Thị Thừa, Minh Tường; quẹo qua Nại Cửu có Võ Kham, Võ Ổi; thẳng qua An Tiêm có Quang Sinh, Thị Sáu, …
Hồi nớ răng thích tắm sông ghê gớm, hễ cứ tan trường là rủ nhau đi tắm. Nhớ một lần học xong, đi tắm bến Miệu chợ Sãi. Cũng may Trời Phật thương, suýt nữa là bị Ma rà kéo xuống nước… Hú hồn! Thôi rứa không dám tắm nữa. Rứa mà cũng chưa trừa, tan học xong cũng rủ nhau về xóm nhà Quang Sinh (An Tiêm). Bến sông gần nhà Sinh dòng chảy dịu dàng, nước trong và bến cạn.
Sinh là thằng bạn cùng lớp, thiệt thà, ít nói hơn cả con gái. Xin thưa với quý thầy cô và các bạn, nói thiệt là nếu thi con đông thì xin đề nghị vợ chồng Quang Sinh đăng ký ngay: 12 đứa con còn nguyên vẹn! Nếu bạn nào không tin, xin mời về Triệu Thành mà hỏi.
Thêm một kỷ niệm đong đầy ký ức nữa là được dự họp mặt toàn trường tại Khu sinh thái Tích Tường lần thứ nhất do quý thầy cô và Ban liên lạc CHS tổ chức. Quý hoá vô cùng khi được gặp lại quý thầy cô thân yêu ngày nào cùng các bạn học lớp trên, lớp dưới ngày xưa ấy. Vinh hạnh là được hát bài Vẫn Đợi Em Về, thơ của thầy Quang, do Lê Đàn ghi giai điệu:
Giếng nước quê mình vẫn mát, vẫn trong
Hoa trái quê mình vẫn thơm, vẫn ngọt
Chi chóc quanh vườn cất cao tiếng hót
Mãi gọi em về, em có nghe không?
Thưa quý thầy cô kính mến, lần hội ngộ mang nhiều ấn tượng sâu sắc với chúng em. Em xin được bày tỏ niềm kính mến và trân trọng đến thầy cô, những người đã cho chúng em tìm lại những gì ngỡ đã mất đi, nhưng không, nay chúng em đã được đoàn tụ và càng xích lại gần nhau hơn.
Các bạn ơi, nếu dớ những kỷ niệm đong đầy ký ức của miềng thì cứ dở trang Ký Ức Trường Xưa của Trung Học Triệu Phong ra mà đọc- hết dớ!
Đông Hà, 14.8.2011
(15.7 Âm lịch – Mùa Vu lan)
TNC

HOÀI NIỆM VỀ MỘT NGÔI TRƯỜNG

CHS Lê Văn Huế (Nguyên Lê)
THTP, K-64-68
Quê gốc: Đâu Kênh-Triệu Long- Triệu Phong-Quảng Trị
                              Hiện ở: 424/10 Nguyễn Văn Luông,P12,Q 6 TP.HCM
DD. 0902 469 736
 

Vừa rồi mình có làm bữa tiệc kỷ niệm tròn một Hoa Giáp, mời mấy anh chị, bạn bè CHS Nguyễn Hoàng. Mình không phải là CHS NH nhưng vì - sợ nên phải chìu- vợ, một CHS.NH. Nghĩ cũng lạ, trước đây, lúc mới vô ở Sài Gòn, nhiều khi muốn nghe cái giọng trọ trẹ và nặng trình trịch của người Quảng Trị phải tốn tiền nhậu (bởi 4 thành viên kia trong nhà mình,  vợ mình có chất giọng lai Bắc, con gái lớn lai Nghệ và 2 chất  giọng  của người Nam), gọi là phí “tiếng quê hương”. Í-ới vài tay Quảng Trị gốc đến quán nhậu là tha hồ tán phét, nói tục bằng giọng quê miềng. Nhưng bây giờ, từ khi nhờ vợ quen mấy tay bên NH thì không những đỡ tốn tiền nhậu mà còn được mời ăn uống liền tù tì và nghe “tiếng quê hương” mệt nghỉ. Và bây giờ lại được mời viết bài từ một CHS.NH vừa là CHS Triệu Phong. Tay nầy học sau mình 2 lớp, người Hải Lăng, không hiểu sao lại mò về học ở Triệu Phong,  sau đó lên NH. Mình quen tay nầy dịp đám tang mạ mình ở quê, đại diện cho CHS.NH đến viếng mẹ chồng của một CHS NH. Nhờ  tay nầy mình biết chút ít tin tức của mấy thầy mấy cô, tin tức trường cũ qua blog “Hương Thời Gian”. Mình cũng có hứa  với tay này sẽ viết chút ít về trường Triệu Phong nhưng cứ lơ đãng mãi tận giờ. Đến nay thì không thể lơ thêm được  nữa rồi. Mình vốn lười và dốt văn nhưng tay nầy vận động với “cấp trên” mình dữ quá, nên đành liều.
Gần nửa thế kỷ rồi còn gì, lục lọi trong ký ức về những  ngày làm học trò trường quận nghe sao mà thương nhớ, xót xa, bùi ngùi! Nhưng dù sao trong cuộc đời học sinh, 3 năm học ở Triệu Phong để lại cho mình nhiều ấn tượng nhất. Có lẽ vì đó là ngôi trường mình được học lâu nhất!  Hồi nhỏ (và đến lớn cũng vậy), mình ham chơi hơn ham học nên cứ bị thầy cô cho cấm túc hoài. Học đệ thất (lớp 6 bây giờ)  mà trong các giờ  mình chỉ thích độc nhất giờ…ra chơi. Làm khổ cho mạ mình, cứ mỗi lần mình ở trường về là bà phải may lại quần và giặt lại áo, hơ lửa cho khô để ngày mai mình có áo quần đi học. Học sinh quê mình phần đông là con nhà nghèo, mình cũng vậy, chỉ có độc nhất bộ đồng phục áo trắng quần xanh, không nhớ mình chơi đùa ra sao mà quần lúc nào cũng đứt chỉ từ mắt cá chân lên tới bẹn, giờ vào học là vội vàng bẻ những cọng thép ở dây thắng xe đạp của mấy đứa  may tạm để vào lớp. Xe đạp của mấy đứa,  mình thì làm gì có xe đạp!  (Năm lên lớp 7, không hiểu nhờ đâu mình có được chiếc xe đạp nhưng dẫn bộ nhiều hơn đạp vì tuột xích không có tiền sửa, bởi vậy có lúc tức mình muốn học nghề sửa xe đạp, sau nầy có một thời gian mình làm nghề sửa xe đạp thật!). Từ nhà đến trường khoảng 5km, nhưng những bước chân nhỏ dại và thiếu đói cũng khá vất vả. Bạn đồng hành đi bộ khá  đông, học cùng lớp lại ở gần nhà nhau và cũng là nhà nghèo nên rủ nhau đi học cũng vui. Nhất là những ngày mưa lụt mấy tay có xe đạp, đường lầy lội không đạp được cũng nhập vào nhóm đi bộ. Ngày nào có giờ học cả ngày là phải mang cơm bữa trưa theo, mạ lại phải dậy sớm để nấu và đùm cơm. Cơm gói lá chuối, được ép chặt và mỏng như một quyển sách, để chung với sách vở, che giấu kẻo sợ họ cười(!), đến giờ nghỉ trưa lại rủ nhau  đi bộ cả cây số để tìm chỗ ăn. Thức ăn của đứa nào cũng chỉ có muối um trắng nên chẳng bao giờ sợ thiu. Cũng có lúc được ăn ké vài con cá bống thệ của Cao Chiến, ngon ơi là ngon. Nó ở bên kia sông, nhà làm lưới nên thường có cá ăn. Ngày nào đi học cũng có anh nó chèo ghe chở qua bên nầy sông để nhập bọn đi bộ. Những lúc nước sông Thạch Hãn dâng cao và chảy xiết cũng không chịu bỏ học, anh em nó bơi giỏi như tấy thì sợ gì.
Bạn học cùng lớp hồi đó mình không nhớ hết được, nhất là mấy tay ở mấy làng phía dưới, mình chẳng nhớ nổi một tay nào. Ngoài mấy tay ở cùng xóm, có bà con xa gần, không thể quên, mình chỉ còn nhớ được mấy tay. Như tay Võ Đức Bá, tay nầy tháng nào cũng đứng nhất lớp, ngồi cạnh mình. Nổi tiếng toàn trường nhờ hát bài  “Những đồi hoa sim” của nhạc sĩ Dzũng Chinh. Nghe đâu sau nầy làm nghề thầy giáo như truyền thống của làng Nại Cửu, hiện đang nằm bệnh khá lâu rồi thì phải. Cũng ở đâu (hay gần?) làng Nại Cửu nầy có  Lê Thị Diệu Hòa, một trong 4 nữ sinh của lớp. Mình gặp lại Diệu Hòa sau năm 1975 ở Hàm Tân. Mình bỏ xứ đi từ lúc học lớp đệ ngũ (lớp tám) nhưng khi gặp lại bạn học cũ vẫn nhận ra nhau và cảm thấy thân thiết nhau kỳ lạ. Một thứ tình cảm hết sức thanh cao mà mình chỉ có thể cảm nhận chứ không thể phân tích, thương cảm một người bạn học lá ngọc cành vàng một thời. Mình chỉ biết chồng nó (gặp nhau cũng cứ gọi mi tau như hồi còn chung lớp dù đứa nào cũng đã có gia đình) là sĩ quan pilot; đi học tập cải tạo, một mình nó gánh than đi bộ mười mấy cây số từ 3,4 giờ sáng về Lagi bán để nuôi con. Cỡ 9, 10 giờ sáng lại đi bộ về ghé nhà mình uống nước, nhắc lại chuyện ngày xưa ở Triệu Phong. Xong mình lại chở nó và gióng gánh lên dốc về nhà nó ở trên đồi. Hồi đó mình làm nghề lái xe…ôm, nên có kẻ ngạc nhiên là O bán than ni sang ghê, đi bán than về mà còn đi xe thồ. Mình với nó chỉ biết cười. Bản tính mình, mình biết, là dễ thân thiện nhưng lại rất thờ ơ. Nhiều lần chở nó về gần nhà nó mà chẳng biết nhà nó ra sao. Bẳng đi khá lâu, lúc về quê mới hay tin nó đã qua đời. Cứ nghĩ và thầm trách  nó đã chuyển chỗ ở mà không thèm báo tin cho bạn, ai dè… DH ơi! Tau đang viết những lời nầy như thắp cho mi một nén hương lòng. Cho tau nợ một nén nhang lên bàn thờ mi nghe, không biết bàn thờ mi đang ở mô. Hy vọng lần về quê  nầy tau sẽ hỏi bạn bè cho ra lẽ. Trong lớp cũng có thằng bạn đã chết (trận) là Đoàn Tiến Dũng. Nó vào học đệ thất khi đã lớn tuổi, hơn mình độ 5, 6 tuổi. Học lớp 11 trường Nguyễn Hoàng thì đã có vợ con, vợ nó là cháu họ mình. Đậu Tú tài 1 xong là nó bị động viên đi lính, ra trường Thủ Đức về Đà Nẵng gặp mình. Nó bảo:
- Tau chỉ muốn chết,
Vợ con nó ở lại quê sau mùa hè 72, và nó chết thật. Chết mất xác ở lần xung trận đầu tiên!
Mấy lúc sau nầy mình thường về thăm quê, nhất là lúc đưa mẹ mình về sống theo ý nguyện của bà. Sau lúc bà mất mình cũng thường về lo việc hiếu. Mình thích đọc báo giấy nên hay chạy xe lên Thành Cổ để mua, phải vào bưu điện của thị xã mới có báo. Mà có lúc mua được, có lúc không. Lại phải quay vòng cầu Ga để ra Đông Hà mua. Sở dĩ mình phải đi nhiêu khê vậy vì tâm thức mình vẫn có một cái gì đó gắn bó với những kỷ niệm của con đường ngày xưa đi học. Ngôi trường Triệu Phong xưa đã mất dấu. Chỉ còn lại trong ký ức của thầy cô, học trò cũ như mình. Một ngôi trường nằm lạc lỏng giữa cánh đồng. Phía bên trái trường là địa phận của làng Nại Cửu; cách cỡ 200m bên phải trường là chi khu quận với những lính tráng, những súng ống, những công sự dày đặc. 
Chếch phía trước chi khu có khoảng đất trống, vài ba hôm lại trở thành nơi tập kết những khẩu đại bác 105 hoặc 155 ly tùy tình hình chiến trận dưới Cửa Việt. Thường khi thầy trò trong trường quen với tiếng “ca-nông” 105 ly nổ, nên ít giật mình, nhưng hôm nào có tiếng 155 là giật bắn cả người, tiếng hát có thể át tiếng bom chứ tiếng giảng bài của thầy cô thì trở nên tội nghiệp trước đại bác 155 ly! Không kể những ngày buộc phải nghỉ học, bãi khóa (được nghỉ học thì thích ơi là thích chứ còn nhỏ biết quái gì chính chị chính em) để tranh đấu với chế độ cũ, bọn mình còn buộc phải nghỉ học vì chiến sự xảy ra sát nách trường. Nghỉ học nhưng bọn mình không về nhà, quên hết lời dặn dò của thầy cô; cứ thế, lúp xúp theo sau mấy lính địa phương quân để coi đánh nhau. Đó là trận chiến Hà Mi. Bọn mình đi theo được một đoạn tới Bích Khê thì bị lính đuổi lui. Rẽ trái về đến làng lại leo lên hàng tre chót vót để xem máy bay thả bom (thật ngây thơ đến tội nghiệp!). Hình như kỷ niệm thời học sinh của bọn mình gắn liền với kỷ niệm của chiến tranh loạn lạc!
Mỗi lần đi ngang nơi ngày xưa ngôi trường cũ tọa lạc, mình lại nhớ con đường đất đỏ đi vào cổng trường, hai bên là ruộng. Những ngày trời mưa rét, đường vào trường hết sức lầy lội. Xe bốn bánh của thầy Thiên - hiệu trưởng - lại mắc kẹt giữa đám lầy, phải huy động mấy anh lớp trên đội mưa ra đẩy vào sân trường. Mình vẫn còn hình dung ra được dáng dấp nhanh nhẹn, dứt khoát của thầy hiệu trưởng. Về làm hiệu trưởng ở một trường quận ngày đó thật gian nan khổ ải, nhưng ở nơi thầy vẫn toát ra được một cái vẻ gì đó rất là tâm huyết. Thầy giỏi tất cả các môn học. Giáo sư môn học nào vì lý do gì đó không đi dạy, thường là lý do đập Rì-Rì nước sông tràn đập mấy cô không băng qua được (cũng ở tại cái đập Rì- Rì nầy bọn mình có một kỷ niệm khó quên, bữa đó buổi trưa cả bọn rủ nhau lên tỉnh chơi, đi chưa tới tỉnh, mới tới đập Rì- Rì thì đã hết tiền, cả bọn nướng sạch vào sòng bầu cua. Riêng mình, thì đó là tiền để mua cuốn sách giáo khoa Pháp văn Elementaire, về bị mạ cho một trận nhớ đời, hồi đó mình thường bị đuổi học vì thiếu sách và thiếu dép có quai sau, một đôi dép cao su* hồi đó với gia cảnh nhà mình là cả một gia tài!) là thầy đứng lớp dạy thế ngay. Môn Pháp văn lớp mình do thầy phụ trách, cả lớp gần 50 mạng thì chỉ có tay Bá là thường được điểm cao, còn gần 49 em còn lại thì thường là: “ 1 điểm, về chỗ”. Trái với thầy hiệu trưởng, cả trường đều khép nép khi đứng trước thầy, bọn học sinh trường mình thường hỏi nhỏ nhau: Hôm nay Ông Trời có mắc (bận) họp không ?, thì vợ thầy - cô Thanh rất dễ tính. Cô Thanh rất đẹp, một vẻ đẹp hiền dịu, cô dạy môn Lý Hóa lớp mình, bọn mình sợ nhất là cô nghỉ dạy để sinh em bé, hầu như lúc nào cũng thấy cô mang áo dành cho các phụ nữ sắp làm sản phụ, nếu cô nghỉ dạy thì thầy hiệu trưởng lại dạy thế, không sợ sao được. Trong các cô giáo, có lẽ điệu đàng nhất là cô Như Hoàn. Học trò nhà quê như bọn mình hồi đó, cô giáo trên tỉnh về dạy mà  mặc mỗi ngày một chiếc aó dài khác nhau, nói năng thì nhẹ như chim hót, đi đứng thì khoan thai, bọn mình như nhìn thấy một cô công chúa trong truyện cổ tích đang bước nhẹ vào đời thực. Cô Như Hoàn dạy Quốc Văn. Trời chỉ mới se se  lạnh là cô đã diện chiếc áo len, quàng chiếc khăn len. Chiếc áo len đan theo kiểu chưng diện chứ không phải để giữ ấm vì những sợi len móc vào nhau tạo nên những ô vuông trống như những ô vuông trên trang giấy. Bọn mình vẫn thường kháo nhau: Hôm nay cô H. mặc áo rổ “sưa” bây ơi! Hồi đó và cho đến mãi sau nầy, bọn mình đều kính mến thầy cô, nhưng cái tính đùa nghịch của tuổi học trò thì thời nào cũng vậy. Giờ Quốc văn có lẽ là giờ học khó khăn nhất đối với mình sau môn Pháp văn. Những từ Hán việt như “nội dung”, “hình thức” mình chẳng hiểu mô tê nghĩa là gì, nên cứ theo nhau chép, nội dung thì là nói lên được điều nầy, điều nọ; hình thức thì là lời văn bóng bẩy, bay bướm v..v..văn của ông Trần Tiêu cũng giống y chang văn ông Nhất Linh. Chương trình học Quốc văn hồi đó phần nhiều thiên về Tự Lực Văn Đoàn, bởi vậy cô H. và lớp mình mới có một trận cười muốn bể cả bụng.
Số là hôm đó cô hỏi về tiểu sử các tác giả. Cô hỏi:
- Thế Lữ tên thật là gì? Ai biết giơ tay lên. Có người giơ tay:
- Thưa cô Thế Lữ tên thật là Thứ Lễ.
Cô khen giỏi, 10 điểm.
Ai biết Khái Hưng tên thật là gì? Lê Bông, anh họ mình, giơ tay và trả lời:
- Thưa cô Khái Hưng tên thật là Khứng Hai, vậy là cả lớp vỡ òa ra cười! 
Mình  lại nhớ giờ nhạc, 3 năm học không biết bao nhiêu là thầy dạy nhạc. Các thầy khác hễ đến giờ nhạc, vừa vào lớp sau khi cho học sinh ngồi xuống là y như rằng:
- “Võ Đức Bá và Những Đồi Hoa Sim”, đến nỗi cho đến bây giờ có lẽ học sinh lớp mình học hồi đó ai cũng thuộc bài hát nầy. Theo mình nghĩ, hình như Bá nhà ta chỉ hát hay được bài đó! Không vậy thì sao đến lúc văn nghệ toàn trường cũng đem bài đó ra hát? Duy nhất có thầy Tôn Thất Phú về dạy nhạc là không “tím cả chiều hoang biền biệt…”.
Thầy mở ra một chương mới về thưởng thức âm nhạc cho bọn quê mùa chúng mình. Những năm của thập niên 60, với bọn mình mà được nghe bài “Không Tên số 8” thì chẳng khác chi được đi vô Huế, dù chỉ là từ một giai điệu não nề nầy chuyển qua một giai điệu buồn đau khác. Chỉ khác chăng ở những lời nhạc nghe có vẻ lạ lẫm hơn, sang cả hơn.
Lúc gặp chủ blog “Hương Thời Gian” ở Quảng Trị, mình đặc biệt hỏi thăm cô Bùi Thị Gái dạy toán. Được biết cô đang ở bên kia bờ Thái Bình Dương. Mình luôn cầu mong cô được  sức khỏe để có ngày mình tìm đến vấn an cô. Không biết cô còn nhớ đến đứa học trò cưng của cô không nhỉ?! Mười hai năm học tiểu và  trung học đối với mình, hoàn cảnh đẩy đưa, mình trải qua biết bao là trường lớp, bao nhiêu là thầy cô, nhưng  cô dạy toán mình hồi Triệu Phong thì lòng mình vẫn cứ canh cánh. Đến giờ toán của cô Gái là mình trở nên “thông minh đột xuất”. Nhưng vẫn có lần cả cô lẫn mình vẫn bị hố, bởi vậy mình mới hiểu là cô cưng mình nhất lớp. Mình là một trong vài đứa học trò nhỏ tuổi nhất lớp, nhưng lại siêng  giơ tay phát biểu  và chứng minh định lý nhất lớp. Cô vừa vẽ hình và viết bên trái giả thiết, bên phải kết luận xong là mình có thể phát biểu được định lý, mình không học thuộc nhưng nhờ làm bài tập nhiều nên khá độc nhất môn hình học phẳng. Giờ học thường thì là vậy, nhưng không hiểu sao đến lúc thi “Đệ nhất Lục cá nguyệt” mình lại ấm ớ. Cô đặt ra điều lệ cho môn thi toán là: Phát biểu và chứng minh định lý trên bảng, 10 điểm. Bài tập trên giấy, 10 điểm. Hôm thi đó, mình không phát biểu được định lý nên được điểm 0. Cô biết mình bị tâm lý sao đó nên sau đó cho cả lớp thi lại, cuối năm mình vẫn được làm “sơ-mi” môn toán dù không có số điểm 20 tròn trịa. Đó là năm học Đệ lục, lên Đệ ngũ mình vẫn còn ngắc ngứ về những từ Hán -Việt nơi môn toán, nếu không có người anh (anh Đoàn Du Quốc, học Nguyễn Hoàng) hướng dẫn thì đành chịu chết. Chữ “tích” còn lờ mờ cách hiểu, vì hồi học tiểu học có học về đơn vị đo lường bằng lít, chứ chữ quỹ thì không hiểu nổi. Chữ “quỹ tích”, anh Q. đùa mình, quỹ là con quỷ, tích là chứa, quỹ tích là nơi chứa một hay những con quỷ. Đùa xong là anh giải thích rạch ròi cho mình dù lúc đó anh đang bận học thi tú tài. Từ đó mình ngộ ra thế nào là quỹ tích. 
Mình ước gì, hồi đó mình đừng viễn vông nơi chốn phồn hoa Đà Nẵng thì sẽ còn được ngồi chung với bạn bè, học  được với thầy cô thêm vài năm nữa.
Hình như con người ta càng va vấp, càng bầm dập với cuộc sống, lại càng nhớ về những ngày tươi đẹp. Mãi sau nầy mình mới biết vì sao “đời nghèo mà vui”; dù đó chỉ là câu cửa miệng của những người luôn thích làm giàu.
Ảnh trên Cô Phạm Thị Diệu Thanh và cô Bùi thị Gái và các nữ sinh

Mình trộm nghĩ, một đời người luôn là một hành trình nợ nần. Nợ tiền bạc, nợ áo cơm còn có thể gánh vác nổi, nợ tang bồng có lúc trả lúc vay, chứ món nợ ân tình đến lúc nhắm mắt xuôi tay nào ai trả nổi. Chốn học đường, mình nợ thầy cô món nợ dìu dắt dạy dỗ buổi trưởng thành. Mình nợ  bạn bè chung trường, chung lớp; món nợ bằng hữu chi giao…
Mình khép lại trang viết nầy ở đây (chứ cứ miên man  những kỷ niệm xưa với trường cũ, với bạn bè thì biết bao giờ mới hết), coi như khép lại một món nợ đã trót hứa viết về những kỷ niệm. Ngôi trường xưa chỉ còn lại chút hồn trong lá cỏ mùa thu. Nhưng mình tin, một ngày còn có dịp được về bên nhau trong buổi họp mặt thầy trò thì ngôi trường vẫn còn sừng sững trong tâm trí của thầy trò mình.
Sài gòn, những ngày cuối tháng tư 2012 -NL   


LÒNG CHẲNG KHUÂY NGUÔI-
                VẪN ĐỢI EM VỀ
(Mấy dòng giao cảm cùng tác giả Nguyễn Văn Quang)


CHS: NGUYỄN MÙI SN: 1956
Lớp : 6/2  K 67-71, Trung học Triệu Phong
Quê gốc: Triệu Hoà, Triệu Phong, QT.
Hiện ở:  Phú Tân, Cà Mau.
ĐT:   07803 885 965 - DD: 0978 743 942

Phải nói rằng đề tài vĩnh hằng trong thơ ca đông - tây, kim - cổ được nhiều nhà thơ thể hiện với những cung bậc khác nhau đó là đề tài về tình yêu. Vì vậy, ai cũng phải công nhận chân lý: Chỉ có tình yêu thì mọi chuyện trên trần gian mới được kéo dài. Hồn thơ hình như tiềm ẩn trong mọi tâm hồn, chỉ khác chăng là mức độ và sự lay tỉnh. Trước hết là tâm trạng của mỗi con người trên mọi nẻo đường đời. Hình như trong cuộc sống đời thường trên quê hương nắng hạn cháy lưng, mưa dầm thối đất, tâm trạng con người thường nảy sinh cảm xúc lạ. Chính vì thế mà tôi xin được phép chia sẻ với tác giả (thầy Nguyễn Văn Quang) bi kịch ước mơ - hiện thực như “Chú Hoàng Cầm tìm lá Diêu bông” qua bài thơ Vẫn Đợi Em Về.
Thật khó mà cắt nghĩa cho rạch ròi từng câu từng chữ của bài thơ. Nhưng khi đọc nó, ta thấy hiện lên trước mắt mình cảnh giếng nước mát trong, hoa thơm quả ngọt, sóng biển nhấp nhô, chim chóc cất cao tiếng hót,… rất chi là Quảng Trị, trong cái nhớ nhung níu kéo bằng tất cả tấm lòng. Mặc dù em đã dứt tình ra đi nhưng tác giả vẫn chung thuỷ trọn đời, đôi mắt xa xăm dõi tìm em tận đầu non cuối bể. Tác giả sẵn sàng làm chú Hoàng Cầm thời nay đi tìm cho được lá Diêu bông. Nhưng lá Diêu bông phải chăng là bi kịch ngàn đời của con người – là mâu thuẩn giữa ước mơ và hiện thực! Chủ ý của bài thơ làm rung động lòng người bởi tình yêu nam nữ lồng trong tình quê hương, tình bạn, tình người. Hãy lắng nghe cùng tôi: Anh cố níu em chặt vào quê hương, nhưng: em quyết dứt tình theo miền đất hứa!
Một nốt trầm xao xuyến khi anh không còn cách nào giữ em ở lại.
Vì em quyết dứt tình ra đi nên dẫu có ngày mơ về chốn cũ thì cũng đành ngậm ngùi nhìn sóng biển nhấp nhô!  Cả năm khổ của bài thơ là tiếng thở dài nuối tiếc. Tứ thơ cứ như lời nỉ non của tác giả với người yêu, nhắn nhủ rằng ở quê hương, những kỷ niệm vẫn êm đềm, đầy sức sống. Giếng nước vẫn mát vẫn trong, hoa trái vẫn thơm vẫn ngọt, chim chóc quanh vườn cất cao tiếng hót, như nhắc nhở em về một thời hoa bướm với “Giọt nắng bên thềm” của nhạc sĩ Thanh Tùng. Tiếng chim hót quanh vườn hay chính tiếng lòng của tác giả đang cất cao, vang xa để gọi người tình trở về?! Nay em đi rồi, anh thấy hụt hẫng mà vẫn mãi gọi em về, em có nghe không? Rồi câu hỏi này được tác giả nhắc lại hai lần trong câu đầu của khổ 4: Em có nghe không, em có nghe không? làm nổi rõ tâm trạng vừa khẩn khoản cầu xin vừa đầy vẻ trách móc, giận hờn, vừa đau xót buồn trông người tình ở chốn xa xăm! Dẫu em có đi đầu non cuối bể thì anh vẫn dõi tìm em vì tình anh chung thuỷ trọn đời. Anh thường thao thức những đêm dài không ngủ, sự nhung nhớ khiến lòng anh tê tái: Thao thức canh dài nghe hồn tái tê!
Hình ảnh cơ học: nắng đốt bên ni, mưa dầm bên nớ là sự đối lập của hiện tượng đất trời, làm tăng thêm nỗi đau, nỗi nhớ về em. Dòng suy nghĩ liên tục bởi em quyết dứt tình theo miền đất hứa nên tác giả man mác buồn như một đoạn phim quay cận cảnh. Ngày ngày, giếng nước, hoa trái, chim chóc vẫn còn đó mà sao em cứ đi theo miền đất hứa, không chịu quay về? Biết đâu, rồi đây miền đất ấy sẽ cằn khô bởi không có anh! Cả không gian, thời gian vẫn thế, như có gì ngưng đọng cùng nỗi niềm của tác giả. Nhưng tấm lòng tác giả không bao giờ khuây nguôi, và vẫn đợi em về, hy vọng sẽ nối lại tình xưa trong tình yêu quê hương!
Đọc những vần thơ của tác giả Nguyễn Văn Quang, tôi thấy có sự cộng hưởng cùng nhạc của Trịnh Công Sơn ở ý tưởng diễn đạt trong bài “Hạ trắng”: Áo xưa dù nhàu / cũng xin bạc đầu / gọi mãi tên nhau”, hay ở ý tưởng của Trường Sa, cũng nức nở “Khi còn gọi tên nhau”. Tôi nghĩ tác giả nén nỗi đau để viết bài thơ, hay bài thơ chính là nỗi đau cần được bộc lộ, giải bày để vơi nhẹ áp lực của con tim! Bài thơ đăng trong Hương Quê Nhà Xuân Canh Dần 2010 càng cho ta thấy tình yêu lứa đôi, tình yêu quê hương đất nước mãi canh cánh trong lòng tác giả đến nhường nào. Muốn có bài thơ hay không phải lúc nào cũng chấp bút viết ra được. Bài thơ Vẫn Đợi Em Về đã nói hộ tình cảm chất chứa trong tâm hồn tác giả qua bao đêm trường thao thức. Tôi xin mượn lời thơ của nhà thơ Byron để kết thúc bài viết này: “Xin chia tay! và nếu là mãi mãi, thì muôn đời, mãi mãi, xin chia tay”.
( Fare thee well! and if for ever, 
 Still for ever, fare thee well.”…)
                               NM
  Nguyễn Mùi và các bạn lớp 6-9/2  K 67-71(Bên bờ sông Thạch Hãn)
Trái sang: Nguyễn Giang Đông, Lê Ngọc Quế,  Nguyễn Mùi, Trần Văn Hiền
Văn Thiên Tùng,  ( Ảnh VTT-4/2011)

 Lớp 6/2-K 67-71 tại nhà Thủy&Hoát
Quốc-Diện-Hoát &Thủy-Hộ-Tùng-Quế-Ứng
 
VIẾT CHO TUỔI MƯỜI BA
CHS. PHAN THỊ QUỲ
K 1973-1975
*Năm 1973,
                                  
Em tan trường về,
Đường mưa nho nhỏ…
Ôm nghiêng tập vở,
Tóc dài tà áo vờn bay…..
           Tà áo dài của tôi thưở mười ba ngày ấy như mãi vờn bay, vờn bay trong vùng ký ức chập chờn hiển hiện, của bao năm tháng qua đi đầy biến động. Tuổi mười ba vai nhỏ tóc dài, lòng thầm ước một mai thành thiếu nữ, thành con mèo nhỏ ngái ngủ trên tay ai một chiều nào nũng nịu với đôi mắt cá ươn se sẻ cựa mình, để giận hờn trách móc sao ai đó không là nước biển.
          Tuổi mười ba tôi thầm thì câu hát, dè dặt mộng mơ thành tiên nữ, hồn trải dài theo lời nhạc Phạm Duy và cô ca sĩ Thái Hiền, là ngại ngần, e ấp bên sắc vàng hoa cúc cùng màu lá sân trường, là vành nón nghiêng nghiêng để chân đưa guốc mộng bồi hồi và chợt thấy trần gian sao quá chật.
Tuổi mười ba tôi lo lắng vở bài, đứng ngồi không yên với từng con số của bài hình, bài đại, ước mong sao một ngày, cô thầy tuyên bố thôi không phải học môn Toán, môn Hóa, để những học trò “cở” như tôi không còn phải băn khoăn, trăn trở làm sao để cân bằng hai vế, làm sao để chứng minh một điều có vẻ như ai cũng biết mà tôi cứ ngơ ngác mông lung kiếm tìm. Mãi về sau khi đã xa rồi, xa lắm tuổi mười ba tôi mới giật mình, ừ nhỉ, phải chăng đó là những bài học đầu tiên cho tôi thấu hiểu về định lý cân bằng trong lớp học ngày xưa và cuộc sống hôm nay.
Tuổi mười ba tôi hoảng loạn rời bỏ quê hương để vào một vùng tạm cư mới. Nhiều thầy cô và bạn bè cũng mới. Tâm trạng đầy lo âu về chiến sự và nhiều đổi thay cần thiết để thích nghi. Bao mái tôn và những khu nhà san sát với bao người tất bật chuyện áo cơm, binh biến. Thôi không còn phượng hồng và lá me bay trên đường tôi đến lớp, thôi không còn chuyền nhau tập sách tuổi hoa niên, để mãi mê mộng tưởng về những chân trời mới lạ trên từng dòng chữ như chú dế mèn trong chuỗi ngày phiêu lưu đầy lý thú.
Tuổi mười ba vui buồn với từng con điểm từ thầy cô, mừng vui mãi với một lời khen chăm ngoan học giỏi và ngập tràn nước mắt tủi hận vì một nổi oan ức bị đổ lỗi. Tuổi mười ba ngập ngừng hạnh phúc của một thưở hồng hoang chợt ẩn chợt hiện, như có như không, như mây trời mùa hạ, như nắng mới ngày thu, như một lần gặp gỡ, như muôn nổi chia xa…
Thế mà đã qua,
       Thế mà đã xa,
              Như tự bao giờ ,
                   Như thuở nào lâu lắm.
Ừ nhỉ, bốn mươi năm-quá nửa cuộc đời. Bâng khuâng nghèn nghẹn, ngậm ngùi nhớ nhung. Thôi không còn chinh chiến, thôi hết rồi âu lo. Thế mà vẫn thăng trầm dâu bể, nhiều nổi suy tư, bao điều lắng đọng, một phút tìm về, để nhớ để thương….
Ly cà phê ngọt đắng bờ môi, một chiều nào bạn bè ngồi lại, gọi tên thầy cô, gọi tên kỷ niệm, để nói hôm nay, để kể mai sau…
Mùa đông 2011,
                                                                                        
                                                                      Những ngày đầu thu 2005,
*VIẾT CHO EM:                                                                              
     Em, mới hôm nào ngại ngần chân bước, sách vở tinh tươm trong làn hơi thu dịu nhẹ, chút ngỡ ngàng vương vương tà áo, sân trường ngập nắng và màu áo trắng tinh khôi.
     Rồi dần qua, em vui cùng bè bạn, ấm áp tình thầy cô, nao nức vở bài, dường về hoa cỏ, một ngày đầu thu rợp trời bong bóng, em mơ ước gì năm cuối nơi đây?
    Ta, hạnh phúc trên con đường mình đã chọn, ngắm nhìn em lớn lên từng ngày, ta vui một niềm vui rộn rã, ta buồn, buồn mỗi lần em không làm được bài thi.
    Em, rồi em lại từ tạ ra đi, ta ngậm ngùi làm người đưa tiễn, em nao nức một mùa tựu trường mới, đâu hay rằng ta mãi dõi theo…
    Ai bảo ta đa mang lấy nghiệp, mỗi niềm vui, mỗi nỗi buồn đã gắn bó nơi đây, ta mong đợi những mùa vàng kết trái, hạt mùa sau ta ươm tự bao ngày.
    Ta, xúc cảm tràn trào mà ngôn từ hữu hạn, viết cho em mộc mạc bỗng thành văn, ta chờ đợi những ngày về gặp lại, em bên ta thủ thỉ chuyện tâm tình.
    Em, một phần đời gắn ta gắn bó, em đi xa, em ở gần, ta luôn nhớ, những khuôn mặt, những dáng hình, có nhạt nhòa, có hiển hiện, một nét cười trên phố nhỏ chiều nay, làm ấm mãi một ngày thu se lạnh …
    Ta, kẻ đi qua thời gian, miệt mài vun xới. Những gì còn lại, những gì mất đi, hữu hạn, khôn cùng… và ta còn em, mỗi sáng mai hồng… mỗi tối lập đông, cây bàng lá đỏ, sắc phượng tươi hồng.
            Em hỡi, cuộc hành trình còn mãi, ta vẫn cùng em, bờ bến và con thuyền, dấn thân và tìm kiến, em đi đâu về đâu, chút tình ta tha thiết, em có mang theo????

                                                                                                         
                                                                 Ơi những ngày buồn, 20-10-2010
*VIẾT CHO EM,
                                                                         
          Em, có phải năm năm tương phùng, năm năm hạnh ngộ?
          Ta lại viết cho em, ngày tháng trôi qua, nhạt nhoà sắc nắng, mắt dấu chân chim, buồn lên màu tóc. Ta cứ ngỡ bước thời gian âm thầm vang vọng, bỗng một chiều nào xao động ...cô .... ...ơi!
          Em đã về, líu ríu tiếng cười vui, chuyện kể ngày qua, chuyện ước mai sau, cuộc đời muôn nổi: “Cô còn nhớ..., cô biết không?...”. Ta ngắm nhìn em, một chút trưởng thành, một chút già dặn. Những nơi nào em qua, những nơi nào ta chưa đến? Ta mong em còn mãi những ngày xanh.
          Rồi em đi, tần ngần chân bước, tay siết... buông lơi, một khoảng trời buồn, mình ta lui tới. Những cung đường thân quen, những nụ cười chào đón, bao tà áo thơ ngây, bao ánh mắt mở rộng, đâu đó trên sân trường vẫn thấp thoáng bóng hình em.
          Rồi em gọi, từ một phương xa, rằng em thật bận, rằng em thật vui, bao điều tươi mới. Ta nghe lòng ấm áp một chiều đông. Lại một quãng đường quen, lại sân trường lớp học, bao lần phượng ra hoa, mấy lần ve im tiếng, ta vẫn đi về mê mãi một niềm tin!
          Ngày em đi, tóc ta hãy còn xanh, tay ta còn mềm mại. Những chủ nhật tung tăng, những ngày dài ôn tập, ta cùng em miệt mài, bao mùa thi vẫy gọi!!!
         Ngày em về… không còn nữa màu xanh, tay đã thôi mềm mại, mà thẳm sâu ký ức, một màu xanh biêng biếc, mà man mác trong lòng, bao ngày thơ diễm tuyệt...
         Em trở về lối xưa, mắt ta chờ trước ngõ, đường hong nắng sông trưa, tay ta mừng rộn rã...
         Và em lại đi xa, và ta còn ở lại, rồi ta đợi tương phùng, rồi ta chờ hạnh ngộ!
          Rồi quãng đời ta qua, rồi tháng ngày em tới, biết bao giờ em hỡi, chút tình ta phôi pha???
                                                                                          
Viết cho tôi,
Ngày tháng hạ mênh mông buồn,
Lòng vắng vẻ như sân trường…….

Ôi, giọng hát buồn mênh mông xa vắng đưa tôi về một vùng ký ức thênh thang lồng lộng. Tuổi mười ba với vai nhỏ tóc dài, với áo tà nguyệt bạch. Tuổi mười lăm với nắng hồng trên môi và mưa buồn trong mắt. Ngày hai buổi đi về, một nụ hồng e ấp nở trong tim, dễ ngại ngần cuống quýt, một sớm mai thức dậy chợt thấy mình mười sáu.
Tuổi 16, một thời thiếu nữ tôi đi qua, khát khao ước vọng và ngâp tràn lo âu. Đất nước mãi chiến tranh, tôi mơ một ngày lặng yên tiếng súng, để cha mẹ tôi không còn thấp thỏm đêm đêm, để bao người quanh tôi không còn đau thương bi hận, để bạn bè cùng tôi chỉ lo chuyện vở bài, cùng hát vang những bài tình ca, ríu rít chuyền nhau những vần thơ viết vội, những dòng lưu bút đầy luyến nhớ vấn vương, ngày giã từ sân trường của tuổi đời tôi mười tám.
Tuổi 18, tôi thấy mình nhỏ bé chơi vơi nơi giảng đường đại học. Mọi thứ thật ngỡ ngàng xa lạ với một cô bé nhà quê tỉnh lẻ, là tôi. Có những bàn tay nâng đỡ dịu dàng, những nụ cười thân ái, khích lệ và còn có những ánh mắt làm tôi chùng xuống, ngại ngần xa cách. Cuộc sống thật khó khăn và đôi khi lòng người bổng trở nên chật hẹp. Tôi mơ một ngày đất nước đi lên và khung trời rộng mở, cho tôi được vào đời, thanh thản tuổi hai mươi.
Tuổi 20, tôi đã là cô giáo, lại sân trường lớp học như quãng đời tôi qua, lại vở bài lo lắng như ngày xưa tôi đã trải. Tôi lại thấy tôi như những ngày xưa thơ dại, vẫn mê mãi đến trường quên cả bước thời gian trôi. Và rồi… có ai đó bỗng nhắc tôi dừng lại, níu giữ cuộc đời, níu giữ tuổi xuân phai.
Tuổi 30, không còn là thiếu nữ, bộn bề công việc, bộn bề tâm tư. Các con thơ như mầm non hé nụ. Tôi đi giữa cuộc đời, mỏi gánh nặng hai vai. Có những lúc mệt nhoài dừng chân lại, ước như mình còn có ngắm mây bay???.
Tuổi 40, lòng đã thôi ước vọng, tôi quay về tìm lại chút hương xưa, hương thôi thắm, màu thời gian đã nhạt, gót nhỏ âm thầm vang động cõi thinh không. Mỗi mùa phượng nở, mỗi mùa thi, tôi cất bước giữa sân trường gió lộng. Nhìn các em thơ, nhớ mình thủơ mười sáu, hoa cỏ lối về bay bổng những hàng me.
Tưổi 50, thôi còn gì để nói, để còn ai lắng mãi khúc tiêu thiền, để một mai cát bụi lấp trời yêu, xin thôi hết một cõi đời vọng động. Xin thôi hết ngàn ngày xưa thơ mộng, xin hãy qua, mùa lá trút nghiêng ngàn, bước rưng rưng mòn nhịp gót thời gian, lòng cuống quýt buổi xuân tàn, đông mỏi.
Còn bao lâu tôi thầm thì tự hỏi. Tuổi năm mươi héo hắt buổi xế chiều. Tuổi đơn côi gặm nhấm nổi niềm yêu, dòng viết vội bỗng thơm mùi dĩ vãng.
Tôi về đâu một chiều vàng bãng lãng, chợt quắt quay ngày tháng cũ tìm về, chút yêu thương hờn giận nẻo đường quê, bỗng len lỏi trong ồn ào phố thị.
Tuổi 50 thời gian trôi nhè nhẹ, chợt qua mau trên tóc trắng phai màu, bước chênh vênh nghiêng hết một đời đau, lòng quạnh vắng, chắt chiu từng kỷ niệm…
Ai còn đó, ai xa xôi biền biệt, mái trường xưa vẫn mãi đến bây giờ,
Tà áo mộng vờn bay trong gió rét, viết cho tôi... mộc mạc bỗng thành thơ…

                                                                   Những ngày cuối thu 2011,

Mưa gieo ngàn hạt mưa mưa rụng,
Lá đổ muôn chiều lá lá rơi,
Ngày đi chầm chậm đêm dần xuống,
Hương nồng ấp ủ mãi khôn nguôi…

Hãy bên nhau trên dường trần quá mỏi
Hãy cùng nhau cho gạch đá cũng đơm bông,
Hãy trôi xa bao muộn phiền khổ ải,
Hãy yêu người bù đắp cho trăm năm…

PTQ.
Trước:Phan Thị Quỳ- Võ Thị Hương- Mai Thị Đầm- Lê Thị Mộng Tiên
Sau:  Lê Đình Dũng x,x Lâm Chí Dũng- Đỗ Văn Phán

CHS: MAI THỊ ĐẦM - SN: 1958
Quê : Thôn Đệ Ngũ-TX Quảng Trị
Học Trường Triệu Phong: 1973-1974
Hiện ở: 50B- Nguyễn Du- Phường 5- Đông Hà
 DĐ: 0983272045
Có một mái trường như thế !
(Mâm thị Đài)
Quý cô: Phạm Thị Như hoàn và Nguyễn Thị Quy trước sân trường xưa( 60-72)

 Một năm học tại Hòa khánh -Đà Nẵng
Trường tổ chức phát thưởng lễ bế giảng năm học 72-73
Tôi đến với trường Trung học Triệu Phong thật tình cờ như một duyên phận. Chỉ một năm theo học thôi nhưng cái chữ, cái nghĩa thầy trò ở nơi ấy thật vô cùng quý báu và lớn lao mà tôi đã khắc ghi đến tận bây giờ.
Niên khóa 1973-1974 tôi được xếp vào học trường Triệu Phong (từ trường Hiền Lương chuyển qua) tại trại tạm cư Hòa Khánh-Đà Nẵng, đó là lớp 9/4 do thầy Nguyễn văn Hóa dạy văn làm Chủ nhiệm. Ban Giám hiệu do thầy Nguyễn Văn Quang làm Hiệu trưởng. Các thầy cùng dạy khóa ấy có thầy Thông, thầy Hoàng Đằng dạy Pháp văn, thầy Nguyễn Đình Hạnh dạy Anh văn (hiện nay thầy Hạnh đang bệnh nặng điều trị tại bệnh viện Sài Gòn, sau mỗi đợt chữa trị thầy lại quay về Đông Hà. Chúng tôi đến thăm, thầy vẫn lạc quan vui cười đến kính trọng). Và cái tên Triệu Phong thân thương cũng bắt đầu gắn bó theo tôi từ đó với những khuôn mặt bạn bè cùng lớp ngây ngô trìu mến như Bạch Hoa, Trần thị Lài, Mai thị Bình, Phan thị Quỳ, Trần Thấu, Võ Minh, Quốc Hồ Hiệp Nghĩa, Bùi thị Lạc, Nguyễn thị Duyên, Nguyễn Quyền, Thu Hà, Thu Hương, Loan… (không biết bây giờ một số bạn chưa liên lạc được đang ở đâu?)
Các lớp học được nhà trường sắp xếp theo thứ tự từ dưới lên và được phân chia từng ô dù không khang trang, đẹp đẽ cho lắm nhưng lại chan chứa tình người của quê hương Quảng Trị. Từ lớp nầy sang lớp khác chỉ được cách ngăn bởi một tấm ván ép tiền chế thật bình thường, giản dị (nói là trường cho oai nhưng thật ra đó chính là kho gạo an toàn tạm mượn để cho học sinh học).
Những ngày đầu mới sắp xếp vào lớp học bạn bè còn mới nhìn nhau thật ngỡ ngàng, xa lạ, nhưng rồi trải qua thời gian ngồi học bên nhau dần dần cũng quen đi và trở nên thân thuộc. Tôi nhớ mãi có những hôm ra chơi giữa giờ học, cánh con trai lớp bên (lớp 10) tinh nghịch tung phi tiêu một loạt gói giấy ném qua bên nầy, bọn con gái lớp tôi lao nhao tranh nhau mở ra đọc. ối chào, toàn những câu thơ tán tỉnh ngộ nghĩnh thật là dễ thương (hồi đó tôi nhớ con gái thường xưng “ chú” với hội con trai lớp trên, bởi thế mới có bài hát “Đừng gọi anh bằng chú”), thế là cả nhóm hội ý bày binh bố trận cử tôi làm thơ đáp lại rồi làm trò xếp máy bay giấy ném trả lại thật hùng hồn, nào là: 
“Chú” hởi từ đây chớ đọi mong 
Vì tôi là gái đã có chồng (bồ) 
Luyến lưu chi nữa hoa đã hái 
Về đi xây mộng với phòng không!?” 
Hoặc: 
Học đi nghe “chú” của tôi 
Mai ra chiến trận, lôi thôi đứt đầu 
Tôi về trách phận bể dâu 
Phải chi bỏ “chú” từ đầu còn hơn! 
                                                                                                                                                                                         Cứ như thế thỉnh thoảng trò chơi của tuổi học trò lại bày ra để trêu ghẹo lẫn nhau rất chi là nhí nhỏm. Đã có lần tôi và một số bạn đến lớp học (do chủ quan tóc dài thầy không phát hiện được), không chịu cài bảng tên vào áo dài bị thầy Đằng phạt bắt ra đứng giữa cột cờ sân trường suốt một buổi học, nắng ơi là nắng, thế nhưng chúng tôi vẫn hồn nhiên vui cười nhí nhảnh như bầy chim sơn ca bắt gặp ánh mặt trời. Vẫn ngày ngày đến lớp chăm chỉ tiếp nhận kiến thức mà các thầy cô yêu quí đã truyền đạt cho chúng tôi.
Kết thúc năm học, chúng tôi chia tay nhau mỗi người mỗi ngã (người dân Quảng trị được lệnh hồi cư về khu Thị tứ Hải Lăng để tái lập cuộc sống). Đa số các bạn theo gia đình đi kinh tế mới ở các tỉnh phía Nam như: Bình Tuy, Long Khánh, La-gi, Vũng Tàu v.v…Có bạn đi xa hơn như nước Mỹ, Úc…Còn tôi theo gia đình quay về lại quê hương yêu dấu, tiếp tục nợ sách đèn trên bãi cát Hải Lăng còn mang đầy mùi bom đạn do chiến tranh để lại.
Dù sau đó trở lại học Nguyễn Hoàng nhưng trong tôi cái tên “Triệu Phong” vẫn mãi hoài là người tình trăm năm…
  Đông Hà, Ngày lập đông 2011-  MTĐ

KÝ ỨC TRƯỜNG XƯA
VÀ NIỀM TIN TRONG NGÀY HỌP MẶT ĐẦU TIÊN
 CHS.Lê Văn Trâm
  Sau 50 năm xa cách,  nay các ACE.CHS trường lần lượt  về  nơi đây tìm lại Thầy cô, đồng môn và bạn hữu lần thứ nhất tại Khu sinh Thái Tích Tường 05.12.2011...
Mỗi lần nghĩ đến trường xưa là mỗi lần tôi bồi hồi nhớ lại một phần đời tươi đẹp đã sớm đi qua. Biết rằng đó là qui luật tự nhiên không ai có thể lôi kéo được thời gian dừng lại, nhưng nỗi ngậm ngùi về tuổi thơ, về mái truờng đã  quá vãng thỉnh thoảng vẫn hiện về ray rứt trong lòng. Chúng tôi có cái không may là đã sinh ra vào thời ly loạn, chiến tranh, chết chóc, phân ly nhưng chúng tôi lại có đựoc cái may mắn là đã sống và  chứng kiến được một giai đoạn lịch sử đầy thăng trầm của quê huơng đất nuớc. Và chính điều đó đã giúp chúng tôi trưởng thành và nhận chân ra được ý nghĩa của cuộc sống trước những chia ly phân tán đầy khổ đau và nước mắt nơi mảnh đất từng bị dày xéo bởi chiến tranh này. Chúng tôi đã nhận chịu những thiệt thòi khi tuổi hoa niên  phải trải qua những biến cố thăng trầm của lịch sử nhưng  cũng đã sống và chứng kiến sự vực dậy của những giá trị tinh thần một thời từng bị chà đạp rẻ rúng bởi đố kỵ và giáo điều .
 Hòa trong niềm vui ngày hội
Hình  trên: Hoàng Tiễn cùng ACECHS TP ở Khe Sanh-Hướng Hóa vừa xuống xe vẫy chào mọi người
  ghi hình lưu niệm trước cổng vào địa điểm họp mặt
Phan Niệm,Lê Đình Dũng,Nguyễn V Huynh, Nguyễn Ánh,x,Đỗ Văn Đinh
Ngày ấy chúng tôi như những mầm non trong trẻo và hồn nhiên, ngày ngày cắp sách đến truờng với nhiều hoài bão ước vọng về một tương lai tươi đẹp không tiếng súng, không đạn bom, không hận thù, mọi nguời thương yêu nhau cùng xây đắp cho ngày mai. Lớp chúng tôi vui lắm, có nhiều nữ sinh xinh  đẹp làm tôi rung động, đêm đêm thường hay mơ mộng “chuyện lứa đôi”. Ngày ấy Bích Vân, Bích Thuỷ, Thu Huơng, Hạnh, Phựơng, Thiệp ... và nhiều nữ sinh  khác nữa  đến trường với những tà áo trắng tinh khôi khép nép dưới  vành nón bài thơ mà bây giờ khó tìm lại được. Hình ảnh ấy thỉnh thoảng lại hiện về mỗi lần đi ngang qua làng Nại Cửu nơi trường xưa của chúng tôi được hình thành  và đã thực hiện trọng trách thiêng liêng của mình gần 12 năm; sau đó trường đã bị chiến tranh tàn phá, vùi lấp  làm cho dang dỡ. 
Năm ấy chúng tôi như đàn chim non vỡ tổ rời quê huơng, rời mái trường Trung Học Triệu Phong  thân thương  để tìm một nơi chốn bình an truớc bom đạn chiến tranh. Mặc dù thiếu thầy Đặng Lữ, cô Trịnh thị Loan,thầy Nguyễn Thiện Lữ và một số thầy cô khác nhưng thầy trò chúng tôi may mắn  gặp lại  nhau  trong một mái trường tạm bợ ở Hoà Khánh  Quảng Nam. Ngày ấy chúng tôi đến truờng tạm bằng những chiếc ghế cầm tay, thầy trò chia bùi sẻ ngọt cùng nhau  giảng dạy và học tập trong  một điều kiện hết sức khó khăn, thiếu thôn mọi bề .  
Sum họp hơn 1 năm chúng tôi lại phải ngậm ngùi chia tay nhau, những giọt nước mắt chia ly thêm một lần nữa lại rơi xuống  xứ nguời. Thầy Duy, thầy Đằng, thầy Trị, thầy Đức  vào nam, thầy Quang, thầy Kham, thầy Hoá … về lại Quảng Trị. Bạn bè tôi cũng vậy: Đứa về lại quê huơn, đứa theo cha mẹ vào Bình Thuận, Bình Tuy, Cam Ranh và những vùng đất mới các tỉnh phía nam lập nghiệp. Năm 1975 mặc dù chiến tranh kết thúc nhưng chúng tôi cũng đã tản mác mỗi người  mỗi phương. Đứa theo gia đình đi kinh tế mới, đứa vào lập nghiệp ở cá tỉnh vùng tây nguyên.Thầy cô chúng tôi  cũng vậy, có người còn tiếp tục đi dạy học nhưng cũng có thầy cô đành phải rời bục giảng trở về với cuộc sống đời thuờng vì những lý do khác nhau. Chia ly và phân tán gần như đã chiếm cả gần hết  phần đời tươi đẹp nhất của chúng tôi .
        Nỗi nhớ thầy cô, bè bạn và mái trường thời niên thiếu lâu dần cũng lặn vào ký ức và đôi khi lại bùng lên sau những lần gặp lại thầy cũ, bạn xưa trên đường đời. Và những lần như thế khao khát được gặp lại nhau, được qui tụ trong một mái ấm tinh thần để  cùng nhau kể chuyện trường xưa bạn cũ, ôn lại một thời áo trắng quần xanh nhiều mong uớc.
       Thầy trò bên nhau khi tọc đã bạc màu... 
Hơn 39 năm sau ngày xao xác như đàn chim non bị phá tổ rời mái truờng xưa, một buổi tối tháng 4 năm 2010 tôi nhận được điện thoại của thầy Nguyễn văn Quang từ thị xã Quảng Trị gọi  cho tôi. Mặc dù Đông Hà - Thị xã Quảng Trị chỉ cách nhau hơn 10 cây số nhưng thầy trò chúng tôi  rất ít khi  gặp nhau. Đó cũng là khiếm khuyết của tôi, một học trò vô tâm. Công việc, tính tự ty và sự lười nhác đôi khi làm con người tự  vong thân trên chính cuộc sống  của mình. Tôi thường nghĩ người thầy như nguời chèo đò đưa khách sang sông. Nguời sang sông thì  không quên người  chèo đò, nhưng liệu người chèo đò nhớ được hết khách mà mình đã đưa sang sông không, nên tôi đã  sinh ra tự ty mặc cảm. Trò không tìm đến  thầy nhưng thầy lại gọi đến trò, cầm điện thoại trên tay nghe thầy nói chuyện  tôi không khỏi thẹn với lương tâm mình. Thầy nói  thật dịu dàng không chút trách hờn “ 38 năm rồi em, chúng ta sẽ gặp lại nhau và thầy tin rằng các thế hệ thầy cô, cựu học sinh Trường Trung Học Triệu Phong sẽ đoàn tụ bên nhau. Muốn làm được điều ấy thầy rất cần sự góp sức của các em.”  Mừng quá, tôi hứa với thầy là dù khó khăn đến mấy cũng phải thực hiện mong uớc ấy. Vài ngày sau Ban liên lạc và Ban biên soạn ấn phẩm “Ký ức trường xưa” được thành lập ngay tại nhà thầy. Trong căn nhà đơn sơ ở một con  hẻm nhỏ xứ Gốc Bầu ngày xưa tôi đã gặp lại thầy Mãi, thầy Kỳ, anh Võ Thìn và một số cựu học sinh của trường. Tại cuộc họp đầu tiên này thầy Quang và thầy Mãi đã thông  báo cho chúng tôi kế hoạch họp mặt và ra mắt ấn phẩm đầu tiên của trường Trung Học Triệu Phong. Mặc dù ai cũng háo hức và nhiệt tình nhưng thú thực lúc ấy tôi không tin dự định ấy sớm trở thành hiện thực. Để thực hiện được dự định ấy, ngoài sự nhiệt tình, vấn đề tài chính  là điều làm chúng tôi băn khoăn nhất. Quyên góp ở đâu, ai sẽ tài trợ, vấn đề ấy đã được thầy trò chúng tôi đặt ra trong buổi họp đầu tiên này. Mặc dù tuổi đã cao, sức khỏe không còn như xưa nhưng thầy Quang rất năng nổ và tự tin. Thầy thông báo cho chúng tôi biết là thầy đã liên lạc được với một số thầy cô và cựu học sinh của trường rồi. Tất cả đều huởng ứng và sẵn sàng hỗ trợ từ vật chất đến tinh thần cho buổi họp mặt và ra mắt ấn phẩm “Ký ức Trường xưa’. Từ Sài Gòn thầy Đức gửi ra 1 triệu đồng, từ Hoa Kỳ thầy Bửu gửi về 200 đô... và con số đáng mừng ấy lại tiếp tục nhân lên từ những tấm lòng hoài vọng, không quên được mái truờng xưa dù có người ở xa chúng tôi đến cả nửa vòng trái đất. Thầy thông báo đã gần đủ để ra ấn phẩm, lúc ấy tôi mới biết thầy đã âm thầm vận động quyên góp  trong mấy năm qua bằng tất cả tâm huyết, kỳ vọng của  mình. Ban biên soạn ấn phẩm được thành lập gồm: Thầy Nguyễn Văn Quang truởng ban,thầy Nguyễn Văn Hoá, thầy Hoàng Mãi, anh Văn Thiên Tùng, anh Võ Thìn, Lê Ngọc Quế,… và tôi ( Anh Võ Thìn mất sau đó không lâu sau một cơn đau tim đột ngột ).  
     Bài vở liên tục gửi về. Người viết tay, người đánh máy, người chuyển qua hộp thư của anh Văn Thiên Tùng, bài nào cũng hay, cũng cảm động. Hình như trong mỗi con chữ gửi về đều mang một nỗi niềm giống nhau - cũng xa xót, đồng vọng về một miền ký ức xa xôi không thể nào quên được.
Để có một ấn phẩm đẹp, sạch sẽ không phạm luật Ban biên soạn đã làm việc rất cẩn thận, mà vai trò chính chủ yếu vẫn  là  Thầy Quang, thầy Mãi, anh Văn Thiên Tùng và các anh trong ban biên soạn (riêng tôi thì chỉ loay quay chạy vào chạy ra cho có mặt). Hai tháng sau, ấn phẩm “Ký ức Truờng xưa” ra đời với sự giúp sức nhiệt tình  của thầy Nguyên Văn Hoá. Mặc dù lúc ấy thầy Hoá đã về nghỉ hưu không còn giữ chức chủ tịch Hội Đồng Quản trị Liên Hiệp Xí Nghiệp In ở Huế nữa, nhưng thầy đã giúp Ban biên soạn ấn phẩm hết sức tận tình, đầy trách nhiệm từ khâu biên tập đến in ấn với giá “hữu nghị”. (Ngày còn sinh viên ở Huế  tôi thường đến thăm  thầy  và mỗi khi nhắc đến trường Trung Học Triệu Phong,  thầy rất vui).
     Thầy Quang mừng  lắm, thầy Mãi cũng thế! Chúng tôi ai cũng rạng rỡ  khi cầm ấn phẩm Ký ức Trường xưa trên tay. Đây thực sự là một sản phẩm văn hoá được hình thành bằng tinh thần hoài niệm tin yêu quá khứ và đầy ắp tính nhân văn.
Ấn phẩm ra đời chúng tôi hân hoan chia nhau mang đi tặng. Nói là tặng cho oai chứ thực ra là chúng tôi mang đi vận động quyên góp với mục tiêu là cố gắng lấy lại vốn đầu tư để lo cho ngày họp mặt đầu tiên sau gần 38 năm cách trở. Tôi nhớ cách đây 5 năm, thương bạn nghèo bòn mót ra tập thơ, tôi đã nhận lời mang đi chào mời bán giùm. Với quan hệ của mình những nơi tôi đến phát hành đều được đón tiếp nồng hậu, ai cũng hào phóng mua thơ nhưng hình như trong ánh mắt của họ ẩn giấu một điều gì đó mà tôi không  dám nhìn  và đêm về tôi đã dễ dàng nhận  ra: “Chẳng qua nể quá mà mua chứ thời buổi này thời gian đâu mà  thơ với thẩn”. Thế nhưng khi cầm  Ký ức Trường xưa  trên tay  mặc cảm tự ti của nguời đi phát hành biến mất, thay vào đó là niềm tự hào khi  được mang sản phẩm  tinh thần này đến với bạn bè cho dù những nơi đến tôi sẵn sàng “than nghèo kể khổ”,  gợi ý xin  lại tiền in ấn. Người tôi đến gõ cửa đầu tiên là anh Đoàn Luyến, một trong những cựu học sinh Trường Trung Học Triệu Phong đang sinh sống ở  thành phố Đông Hà. Thời buổi này, doanh nghiệp có máu mặt thường hay bị quấy rầy, nhưng khi cầm ấn phẩm Ký ức Truờng xưa trên tay, anh cuời tươi lắm, mắt  rưng rưng (cười thật lòng chứ không phải cười xã giao, nhiều năm làm báo tôi đủ kinh nghiệm để nhận biết điều đó). Không chỉ lấy một lúc  bốn ấn phẩm một cho mình và 3 gửi tặng bạn bè ở Sài Gòn với giá gấp ba bốn lần giá in ấn mà anh còn mời tôi đi nhậu. Như là sứ giả của niềm vui nên  khi  đến gõ cửa nhà các cựu học sinh của truờng ở Đông Hà tôi đều được đón tiếp rất thân tình và hầu hết đều rất nhiệt thành ủng hộ Ký ức Trường xưa. Nói như ngôn ngữ bây giờ khi cầm Ký ức Trường xưa trên tay, ai cũng phấn khởi hồ hỡi mong sớm có ngày họp mặt.
In ấn phát hành thành công, chúng tôi quay sang chuẩn bị cho buổi họp mặt đầu tiên sau hàng chục năm chia ly phân tán mỗi người mỗi phương.
Buổi họp mặt đầu tiên thật là cảm động. Hàng chục năm trời tôi mới gặp lại một số  thầy cô giáo cũ và một số bạn bè năm xưa. Mặc dù tuổi cao sức yếu nhưng thầy Nguyễn Thiện Lữ từ Đà Nẵng, cô Trịnh Thị Loan, thầy Nguyễn Văn Hoá, thầy Trần Sĩ Tiêu từ Huế cũng đã về Quảng Trị để tham dự buổi họp mặt đầu tiên này. Dẫu có cả nụ cuời và nuớc mắt  nhưng chúng tôi đã quây quần bên nhau trong niềm vui của lần đoàn tụ đầy ý nghĩa  này . Trong niềm vui ấy tôi chợt nghĩ về  thầy cô, bạn bè-những người đã về chốn vĩnh hằng như thầy Trịnh Ngọc Phòng, thầy Nguyễn Thái Kham, thầy Hồ văn Kham, thầy Nguyễn Quang Kế, thầy Hồ Bính, bác Hồ Văn Thơm phu trường, anh Võ Thìn…không  còn có cơ hội tìm về trong ngày họp mặt ấm áp tình nghĩa thầy trò này.
 Lớp Lê Trâm Họp mặt đầu xuân Tân Mão
 Và cũng chính trong niềm vui lẫn nỗi buồn của ngày  tao ngộ đầy ý nghĩa này tôi thầm nghĩ: Ngày ấy người thầy không phải là nguời bán chữ mà là nguời dạy chữ (nói theo cách nghĩ của thầy Hồ Trị) nên chúng tôi đã yêu thương, quí trọng thầy cô và quyến luyến với mái truờng xưa  đã quá vãng  đến như thế.
  Những đóa hoa tri ân vẫn thắm đậm trên tay Thầy cô
Thời gian rồi sẽ đi qua, tất cả rồi cũng sẽ biến mất nhưng những giá trị tinh thần mà chúng tôi cảm nhận được về tình nghĩa thầy trò, bè bạn và mái trường thời niên thiếu  trong  lần họp mặt đầu tiên này sẽ mãi mãi trường tồn. Sẽ có những ấn phẩm Ký ức truờng xưa tiếp tục ra đời và sẽ có những lần họp mặt đầy ý nghĩa này tiếp tục diễn ra khi hình ảnh mái trường xưa, thầy cô và bạn bè thời niên thiếu vẫn luôn sâu nặng trong lòng các thế hệ cựu học sinh trường Trung HọcTriệu Phong-Quảng Trị năm xưa. Tôi tin như thế!

Đông Hà, tháng 3 năm 2012
Lê  văn Trâm
                                                                                   NHỚ VỀ TRƯỜNG CŨ LỚP XƯA
HOÀNG  PHÓNG
Trước:Lê Ngọc quế-Hoàng Văn Thông-Lê Mậu Ẩn-Lê Văn Trâm
Sau: Lê Đình Dũng- thầy Nguyễn Văn Quang- Võ Thìn (BLLTHTP)

Dân tộc Việt trải qua bao cuộc chiến tranh, bao cuộc ly tán… Mùa hè đỏ lửa 1972 ở Thành Cổ Quảng Trị đã minh chứng một cuộc ly tán như thế. Chiến tranh hủy diệt sự sống, hủy diệt những ước mơ, hủy diệt những ngôi trường…Chiến tranh có thể xóa nhòa tất cả, thời gian có thể khiến con người lãng quên mọi sự kiện. Song gần 40 năm đi qua trong tâm trí học trò lớp 6/2 - 9/2 năm học 1968-1972 Trường Trung học Triệu Phong - Quảng Trị hình ảnh trường xưa, lớp cũ, hình ảnh bạn bè, thầy cô còn mãi lắng đọng, không thể phai mờ.
Phải chăng chiến tranh hủy diệt ngôi trường, hủy diệt những ước mơ để những đứa trẻ nghèo ham học của đất Triệu Phong đau đáu nhớ về trường xưa, lớp cũ đến thế? Chiến tranh đã cướp đi sự sống của Võ Kiếm, Nguyễn Công Bình…Chiến tranh ly tán, bạn bè mỗi đứa một nơi, mỗi người một ngã. Sau chiến tranh, phần đông bạn bè trở về quê hương sinh sống. Nhiều người phải xa quê lập nghiệp như Lai, Nghĩa,  Lộc, Đức, Minh Hương, Kim Quy, Tuyến... Phải  chăng sự ly tán càng làm cho chúng ta nhớ về nhau nhiều hơn, khao khát tìm về bên nhau trong sự ấm áp tình bạn bè như thế.
Quê mẹ Triệu Phong, Quảng Trị còn nghèo, cuộc sống người Triệu Phong, Quảng Trị còn vất vả, nhưng tình bạn, tình thầy trò lớp 6/2-9/2 năm học 1968-1972 đã vượt lên tất cả để tồn tại và phát triển. Hàng năm, mỗi khi hè về, gác lại công việc thường ngày, gác lại những bộn bề, lo toan, bạn bè dành thời gian ngắn ngủi tìm về bên nhau ríu rít như thuở học trò. Nhớ lần gặp mặt đầu tiên, năm 1996, tại nhà bạn Võ Có, bạn bè có mặt trên hai mươi người, bằng nửa sĩ số của lớp cũ. Vốn là lớp trưởng, tôi tiếp tục được bạn bè tín nhiệm, cử làm Trưởng ban liên lạc. Do tôi còn bận công tác, nên lớp đặt thêm ban thường trực đại diện 3 khu vực Triệu Phong, thị xã Quảng Trị và Ðông Hà cho tiện việc thông tin liên lạc, kết nối bạn bè. Ðể có những cuộc hội ngộ đông đủ hơn, Võ Có, Nguyễn Ba (Bảo), Võ Tôn Tế, Nguyễn Hữu Lịch…lại đôn đáo để thông tin đến với tất cả mọi người, đến các thầy giáo cũ. Những cuộc hội ngộ ẩm thực đạm bạc, càng khiến chúng ta thương nhau nhiều hơn, xích lại gần nhau hơn, nghĩ đến nhau và có trách nhiệm với nhau hơn. Từ năm 1996 -1999, mỗi năm lớp họp mặt 2 lần vào dịp sau Tết nguyên đán và dịp hè. Từ năm 2000 đến nay xuất phát từ yêu cầu thực tế, chương trình họp mặt được thống nhất 1 năm/1 lần. Năm 2001, Ban liên lạc đã kết nối được với hầu hết thành viên của lớp ở trong Nam, ngoài Bắc và bạn Lê Thị Kim Quy ở nước ngoài. Chia xẻ khó khăn ở quê hương, các bạn ở xa,  đặc biệt là bạn Kim Quy đã dành một phần kinh phí hỗ trợ, giúp đỡ bạn bè có gia cảnh khó khăn. Không phải ở đâu và không phải ai cũng có tấm lòng với bạn bè như thế. Mùa hè năm 2003 ghi nhận cuộc họp mặt đầu tiên của lớp với đông đủ bạn bè và thầy cô từ nhiều nơi về. Cuộc hội ngộ lớp 6/2- 9/2 năm học 1968-1972 Trường Trung học Triệu Phong  Quảng Trị sau hơn 30 năm xa cách vô cùng cảm động và ý nghĩa.
Mỗi lần gặp mặt, bạn bè lại nhắc những kỷ niệm bi hài tuổi học trò để cười, để nhớ. Ðó là chuyện Hữu Lịch thành viên của lớp tính tình vui nhộn, hay hát và hát hay có lần bị thầy Lê Mậu Duy (thầy dạy môn Toán rất hay) phạt vì khi giải toán trên bảng xong búng viên phấn rơi trước mặt thầy. Thầy bắt lớp trưởng Tôi đi tìm một cái roi để  nghiêm trị cậu học trò. Sợ bạn  bị thầy đánh đau, tôi tìm một nhánh non trong bụi tre gần lớp học đưa vào cho thầy. Thầy đánh Lịch chưa được 3 roi thì roi gãy. Thầy bắt tôi đi tìm chiếc roi khác để phạt cả hai trò. Tôi bị thầy phạt về tội bênh bạn. Ðó là chuyện Lê Mậu Cử một lần không thuộc bài, sợ thầy phạt  nên liều thưa, với lý do không học bài vì nhà có tang anh trai tử trận, trong lớp ai cũng biết Cử là con cả trong gia đình, nhưng tất cả lặng im. Ðặc điểm nổi bật nhất của lớp 6/2- 9/2 năm học 1968-1972 là lớp ít nữ. Các bạn nữ của lớp rất kháu khỉnh, xinh đẹp, chăm học và nấu ăn rất ngon. Mỗi dịp trường tổ chức cắm trại là dịp các bạn ra tay trổ tài, khiến không những các bạn nam trong lớp mà còn có cả lớp khác phải trầm trồ, ngưỡng mộ. Cũng chính vì vậy, các bạn nữ là đối tượng bị trêu chọc nhiều nhất và đã từng phải khóc trước những trò nghịch ngợm như quỷ sứ của Việt Hùng, Hùng, Hữu Lịch, Lê La…Mùa hè 1972, làng quê ven Thành Cổ hứng chịu mưa bom bão đạn, nhà cửa, trường học bị san phẳng, bà con di tản mọi  nơi…Tôi, Hữu Lịch, Nguyễn Ba, Lương Chiến và nhiều bạn bè của lớp khi di tản đến địa phương mới phải thay tên, đổi tuổi làm lại giấy tùy thân, khó khăn nhất là xoay chạy chứng chỉ học trình (Chứng chỉ tốt nghiệp lớp 9) để tránh bị đôn quân, bắt lính. Nguyễn Công Bình, chưa kịp thay đổi giấy tờ đã bị đưa đi đầu quân. Năm 1973, Nguyễn Công Bình mất ở Ðà Nẵng, ngay từ lúc nầy, bạn bè chúng ta khắp mọi nơi từ Hòa Khánh, Hòa Long, Mỹ Thị…đều đến tập trung khá đông đủ để chia xẻ với gia đình bạn, vừa tiễn biệt bạn về nơi an nghĩ cuối cùng….Những kỷ niệm  học trò thời chiến tranh, nghèo khó đã trở thành ký ức khó quên trong tôi và trong bạn bè. Kỷ niệm và tình bạn học trò đó đã và sẽ theo chúng ta đi suốt cuộc đời. Những ngày giá rét cuối năm 2005, bạn bè ở Quảng trị quây quần bên Nguyễn Hương trong thời gian ngắn ngủi cuối đời vì bệnh hiểm nghèo. Mọi người  cùng nhau hát “Một đời người, một rừng cây” cho Nguyễn Hương nghe, bài hát Hương từng hát trong những lần hội ngộ bạn bè. Mỗi lần gặp mặt, bạn bè kể cho nhau nghe và chia xẻ niềm vui về sự đổi thay, lớn lên trong cuộc sống mỗi người. Học trò lớp 6/2- 9/2, năm học 1968-1972 cách đây 40 năm, nay đã bước sang tuổi “tri thiên mệnh” và đang đi tiếp để hoàn thành bổn phận con người. Trong tôi, trong mỗi người, tình cảm bạn bè, thầy cô trường xưa, lớp cũ là một phần hành trang chúng ta mang theo trong cuộc đời.
Năm 2010, cùng với việc chuẩn bị cuộc họp mặt Cựu học sinh Trường Trung học Triệu Phong, Ban thường trực liên lạc của lớp chuẩn bị kế hoạch chu đáo cho cuộc họp mặt, khâu nối tất cả bạn bè để tổ chức một cuộc hành trình từ nam ra Quảng Trị. Cuộc họp mặt lần thứ 15 của lớp với thời gian 2 ngày, bạn bè về đông đủ gồm Kim Quy, các bạn như Lai ở Cà Mâu nơi tận cùng của Tổ Quốc, Tuyến ở Cần Thơ, Nghĩa ở Ðồng Nai, Lộc ở Phan Thiết và Thạnh Ðức ở Bình Thuận ra…. Hành trình ngày thứ nhất về Trằm Trà Lộc và khu du lịch sinh thái Tích Tường. Ngày thứ 2, tất cả bạn bè cùng với các thầy: Thầy Quang, Thầy Mãi, Thầy Hòa, Thầy Kỳ hành trình từ Quảng Trị, vào Huế kết nối thêm thầy Hóa, Cô Loan, bạn Minh, bạn Lê Quỳnh ở Huế cùng đến Thiền viện Trúc Lâm- một địa chỉ tâm linh ai cũng mong một lần đến. Buổi trưa  trở lại Huế trong không khí thân mật, với một không gian trầm lắng và êm dịu của xứ Huế thân thương, bữa ăn trưa đầm  ấm, tâm sự thân mật của Thầy trò sau 40 năm xa cách. Ăn trưa xong thì chia tay Cô Loan, bạn Minh, Quỳnh ở Huế. Cuộc hành trình tiếp tục trở lại Quảng Trị, sau tắm biển là bữa cơm tối và đêm giao lưu tại biển Cửa Việt, sau gần 40 năm xa cách, diễn ra trong một không gian ấm cúng đầy tình thân. Tóc trắng của thầy cô hòa vào đám học trò tóc đã điểm bạc đi nhiều bởi thời gian. Mười lăm năm qua, lớp đã tổ chức 15 năm liên tục, gặp mặt bạn bè, thầy cô, điều mà không phải lớp nào cũng làm được. Để làm được điều đó phải nói đến tình cảm, trách nhiệm của mỗi người hội tụ nên sự đoàn kết của tập thể lớp 6/2- 9/2 năm học 1968-1972. Khi kể về lớp, bạn bè chúng ta tự hào về truyền thống đoàn kết của một tập thể, về tình bạn sâu lắng, về tình thầy trò nặng nghĩa ân tình. Tình cảm đó làm cho cuộc sống của mỗi người càng thêm ý nghĩa, tiếp sức cho chúng ta đi tới. Nhớ kỷ niệm lớp cũ, trường xưa, nhớ về bạn bè lớp 6/2- 9/2, năm học 1968-1972 của Trường Trung học Triệu Phong - Quảng Trị, tôi chợt nhớ lời một bài hát về quê hương mình:
  Nếu một mai phải xa Quảng Trị
  Nhớ quá đi thôi em bé Triệu Phong
  Trên lưng trâu tay cầm sách học
  Lời mẹ răn: mài sắt nên kim
  Gửi ước mơ theo những cánh diều…
Ước gì, có một cánh diều kỳ diệu để đưa ta về lại tuổi thơ, về một thời áo trắng học trò, về  lại mái trường xưa mà giờ đây chỉ còn là ký ức!
Hoàng Phóng
Xuân Tân Mão -2011
 NHỮNG LẦN HỘI NGỘ TRONG ĐỜI

CHS: Lê Đông
Trung học Triệu Phong 1962– 1966
47/6 Đinh Tiên Hoàng – TP. Đà Nẵng
ĐT: 0983.003.313
          Trong cuộc sống đời thường của mỗi một con người, ngoài hạnh phúc đầy đủ về vật chất, có một lĩnh vực không thể thiếu được đó là đời sống tinh thần. Đời sống tinh thần muôn màu, muôn sắc, nhiều góc cạnh mà tạo nên và trải qua nhiều giai đoạn. Người hạnh phúc vì mối tình học trò nguyên vẹn đến đầu bạc răng long, người hạnh phúc vì con cháu đông đúc, phương trưởng, người hạnh phúc vì việc làm từ thiện, quan tâm đến người nghèo, người hạnh phúc vì con đường hoạn lộ thăng tiến,… Ngoài những điều kể trên, còn có một thứ hạnh phúc mà không phải ai cũng có được, đó là tuổi đời ngày càng chất chồng thường hoài niệm về một thời đã qua, nhất là thời cắp sách đến trường cùng thầy, cô và bạn bè thân thương, nay ngồi ôn lại kỉ niệm xưa, người nhớ, kẻ quên, kỷ niệm đầy ắp tràn về,…
          Ấy là muốn nói đến những lần hội ngộ thầy cũ, bạn xưa bao năm cách xa lưu lạc bốn phương trời, khi chia tay nhau tóc còn xanh, ngày nay gặp lại nhau tóc đã ngã màu cùng thời gian, mọi thứ xung quanh ta hầu như đều đã thay đổi. Trường xưa không còn nữa; thầy, bạn, nay người còn kẻ mất, người trực lưu lạc phương xa, người ở quê nhà vui thú điền viên. Nhưng có một thứ không hề thay đổi: đó là “đạo ngãi thầy trò, tình bạn thủy chung”.
          Cũng như bao người khác khi về lại chốn xưa, cảnh cũ còn đâu? Người xưa còn đó, con đường đất đỏ ngày xưa cũng đổi thay, những con đường phủ bóng tre làng ngày xưa không còn lưu dấu, bến An Mô vang vọng tiếng gọi đò của kẻ hàn sinh cũng đã đi vào miền ký ức. Bạn bè năm, bảy đứa í-ới gọi nhau, đầu đã bạc, răng đã long, mỗi người một số phận, mỗi hoàn cảnh khác nhau nhưng khi hội tụ thì mừng vui khôn tả, ở đây không có địa vị chức tước, giàu sang, gạt qua những cám dỗ tầm thường chỉ còn lại tình bạn trong sáng mà thôi.
          Ngày 20.6.2010, chưa đến hẹn lại lên, chưa tròn 3 năm nhưng Ban liên lạc Cựu Giáo sư và học sinh Nguyễn Hoàng (cũ) ở Quảng Trị đã tổ chức ngày hội trường lần II, cũng tại khuôn viên trường cũ, cũng thầy xưa bạn cũ, thắm thiết đậm đà; cũng thầy trò các nơi tụ về: TP.HCM, Bà Rịa – Vũng Tàu, Đồng Nai, Đà Nẵng, Huế, Pleiku, Buôn Ma Thuột.
          Năm nay, lớp tôi (Thất 1-Tứ 1/THTP), ngoài những khuôn mặt cứ chưa đến 10 bạn, có Hoàng Thị Bích Oanh từ Sài Gòn về, thông qua Đoạn Định hội tụ tại một khoảng trời riêng để chụp ảnh kỷ niệm tưng bừng, khi vào tiệc cũng ngồi cùng bàn chuyện trò hàn huyên không dứt. Bích Oanh: không dễ gì 44 năm bây giờ mới gặp lại nhau, còn thiếu rất nhiều bạn nhưng thôi có được bạn nào hay bạn đó, chiều thứ ba (22.6.2010), mời các bạn mình tìm một góc riêng tâm sự chuyện đời nhé. Đông, chiều hôm nay về lại Đà Nẵng, thế ngày đó có thể ra lại được không? Ra, ra lại chứ dễ gì anh em mình gặp lại nhau, nhất định mình ra lại. Tôi mạnh dạn trả lời.
          Thế là sáng thứ ba, 10h00 lên xe đò về Quảng Trị như lời hẹn với các bạn, 14h00 có mặt tài ngã tư đầu đường Trần Hưng Đạo rồi định nhờ Lanh đón mình ở đó, 10 phút sau là có mặt tại nhà Lanh tắm rửa, nghỉ ngơi chốc lát, cùng hàn huyên tâm sự (vợ Lanh đi Sài Gòn thăm cháu nội), điện thoại cho Định, được biết các bạn đang chờ ở nhà Định, Lanh chở mình về là đi đến ngay điểm hẹn là khu sinh thái du lịch TRẰM – TRÀ LỘC. Về nhà Định gặp lại bạn Hoàng Thị Gái, nhớ ra liền vì bạn gái lớp mình không nhiều. 16h30 đến địa điểm, Bích Oanh điện cho các bạn báo là đến hơi trễ vì trên đường từ nghĩa trang Trường Sơn về bị lạc đường nên khoảng 17h00 là có mặt. Đúng 17h00 đoàn Sài gòn về đông đủ (có các đồng môn Nguyễn Hoàng cùng đi với Oanh khoảng 10 người, trong đó có vợ chồng anh Thái Hòa-Thủy An, Nguyên, Kim Oanh, Liên Hoa, vợ chồng Lân,…). Về chiều khí hậu quê mình có phần mát mẽ hơn, lại thêm cảnh hoang sơ, dân dã của khu sinh thái Trằm quá thơ mộng, cảnh hội tụ bạn đồng môn, đồng lớp quả thật tha thiết, chân tình. Sau lời mở đầu và giới thiệu của Oanh, hóa ra những đồng môn Nguyễn Hoàng kia cũng xấp xỉ tuổi đời như nhau, người học A, kẻ học B, C…. đặc biệt có anh Thái Hòa là lớp đàn anh và là tác giả bài thơ Lớp Xưa, có lời bình của cô Trùng Dương – Cao Xuân Yến. Thật ra ai đã từng đọc NH & CD kỉ niệm, Nguyễn Hoàng (Huế), Hương quê nhà, Tình quê (Đà Nẵng), Ký ức trường xưa (Trường TH Triệu Phong),… là cứ muốn đọc hoài, đọc mãi những bài viết của quý thầy, cô, quý đồng môn Nguyễn Hoàng, Triệu Phong, những người đồng hương Quảng Trị ở khắp mọi miền đất nước, ở những phương trời xa tít, có những bài thơ quá hay, những bài viết đậm đà tình quê hương, nghĩa tình sâu nặng của người Quảng Trị, về trường xưa, lớp cũ, có những lời văn mượt mà bóng bẩy của những cây bút tên tuổi, cũng có những lời văn mộc mạc, chân chất nhưng tha thiết tiếng chim gọi đàn. Bài thơ Lớp xưa của anh Thái Hòa (có thêm lời bình của cô Trùng Dương – Cao Xuân Yến) đã gây ấn tượng nhiều không những với tôi mà rất nhiều người, phải nói nếu không phải là người nhiều năm sống ở quê nhà, trải qua những tháng ngày nhọc nhằn ở những mái trường, nếu không phải là người có nhiều tình cảm sâu nặng với thầy cô, mái trường xưa thì sẽ không có bài thơ đậm chất tình đến như thế. Bao nhiêu năm cách xa, ai cũng phải một thời lận đận nợ áo cơm, nhưng anh vẫn nhớ tên của bạn mình, tính tình vui vẻ hồn nhiên của bạn mình. Nếu không phải là người có tình thì không viết được như thế. Trước đó Bích Oanh có bật mí: trong số bạn đó có người nghe tên Lê Đông là nhớ liền. Vì sao? Vì trước đây khi đọc bài thơ trên, trong một bài viết gửi cho NH & CDKN tập 2 mình có lời trân trọng cảm ơn anh Thái Hòa, là bài thơ chung của những lớp xưa. Thì ra đó là bạn Thủy An (đồng môn khác lớp, cũng biết qua Hương quê nhà).
          Cuộc họp mặt càng về khuya càng đậm đà, tiếng cười nói, mi tau,… lại hân hạnh được nghe chính tác giả bài thơ ngâm bài thơ của mình cho các đồng môn thưởng thức. Lần đầu tiên gặp anh Thái Hòa, lại càng ngạc nhiên hơn khi nghe giọng ngâm của anh, ở tuổi thất thập nhưng sao giọng ngâm thơ của anh vẫn trầm lắng cung bậc là thế, hóa ra anh là dân văn chương (ban C) và một thời đã từng đi dạy học. Rồi cũng phải chia tay nhau thôi, bạn Phan Đình Trọng (Cửa Việt) là bạn có việc cần thiết không lên cùng bè bạn được, thông qua Đoạn Định mời lớp mình chiều mai thứ tư (23/6) về tại Cầu Cửa Việt họp mặt, Trọng sẽ đón lớp ở đó, giao cho Định làm hướng dẫn viên, đúng 15h00 có mặt đông đủ tại nhà Định, Đông có nhiệm vụ đón Bích Oanh từ khách sạn Thành Đô, đường về Cửa Việt càng đông vui hơn khi có thêm Đoạn Giang, Đỗ Mượn. Chiều Cửa Việt mát mẽ, thơ mộng khi cả bọn ngồi dưới chân cầu vừa mới hoàn thành, lại vui hơn gặp lại Phan Đình Trọng, hơn 44 năm bạn vẫn giữ được tính hồ hỡi, tuy có phong trần cùng thời gian, nhớ ngày xưa thời còn đi học mà bạn đã cặp kè với S. (ở gần cầu ga Quảng Trị), người cầm vở che nắng, người chiếc nón bài thơ sao mà tình tứ thế nhỉ. Một bật mí nữa của Bích Oanh là ngày xưa trong đám nữ xuân xanh ấy có Loan để ý đến T. (USA). Rồi trong đám nữ ấy Oanh là nhác học nhưng vẫn lên lớp đều đều, còn các bạn khác nghe chừng chăm chỉ nhưng phải thi lại, người môn này, kẻ môn khác,…
          Chia tay nhau trong bịn rịn, sau khi từ chối khéo lời mời của Trọng mời tất cả các bạn về nghỉ ngơi, đoạn cuối chỉ còn lại 3 người: tôi, Bích Oanh và Thại. Trả Bích Oanh về chỗ cũ sau lời chúc của Thại: Ngủ ngon nghe! Cả 3 đứa cùng cười, sau đó tôi và Thại về Ái Tử (quê tôi) và Thại tiếp tục ra Hà Xá. Chiều nay trước khi chia tay, các bạn ủy quyền cho Võ Tất Kháng điện thoại cho Thủy An với lời mời là tất cả quý đồng môn sáng mai 7h00 dùng cà phê ở bên bờ sông Thạch Hãn... Dù ngày hôm đó có việc nhà rất cần thiết ở quê, nhưng đúng 7h00 mình cũng tranh thủ có mặt để đón các bạn (chỉ sau bạn Định), tiếc rằng chỉ có Đông, Định và Đoàn Viết Lanh, đồng môn NH đầy đủ cả, có thêm anh chị Phái-Mai  anh Lê Văn Phúc (USA), anh Võ Văn Cẩm, anh Nguyễn Văn Quang, Thái Đào, anh chị Đỗ Tư Nhơn… Ôi quá đông vui, mình xin phép chia tay sớm vì như đã nói có bận việc, dù rất tiếc nuối vì không có được nhiều thời gian để thưởng thức ly cà phê mang hương vị đầm ấm quê nhà cạnh con sông huyền thoại với làn gió ban mai mát rượi. Lớp mình hai hôm rồi chỉ có mấy bạn sau: Đoạn Định, Đoàn Viết Lanh, Lê Văn Soạn, Đoạn Giang, Đỗ Mượn, Võ Tất Kháng, Hoàng Thị Gái, Hồng Ái Huế (Tứ 2), Phan Thái, Phan Đình Trọng, Hoàng Thị Bích Oanh, Lê Đông. Các bạn ơi, các bạn ở đâu hết rồi.
          Cũng gần đây thôi (02.02.2012), thầy Nguyễn Thiên Lữ (Đà Nẵng) báo cho tôi và Trần Đình Khảm, thầy Tôn Thất Phú (USA) về thăm và hiện đang ở nhà thầy, tôi và Khảm tức tốc đến nhà thầy và gặp được thầy Phú, 1965 thầy đã vào quân ngũ, sau năm 1975 thầy định cư ở nước ngoài. Nay thầy trò gặp nhau, trò luôn nhớ thầy, vẫn nét hiền từ chơn chất từ tốn như thưở còn đi dạy học, ôn lại quãng thời gian đã qua, buồn vui lẩn lộn, ở độ tuổi 74 trông thầy vẫn còn khỏe mạnh, nhanh nhẹn, chỉ có điều tóc thầy đã bạc, mà tóc trò cũng bạc (không chừng tóc của trò còn bạc hơn cả tóc của thầy), thầy già mà trò cũng già, 47 năm rồi còn gì… chỉ có đạo ngãi thầy trò là nguyên vẹn không phai nhạt theo thời gian mà chỉ có đậm đà hơn lên mà thôi, 2 người thầy, 2 người học trò bên ly trà xuân đầm ấm.
          Cũng phải thôi, ngày xưa thầy cô ở tuổi trên 20, trò ở tuổi trên 10. Thầy trò cách nhau trên dưới 10 tuổi. Thời buổi khó khăn, chiến tranh ly loạn, thầy trò cách xa nhau theo hoàn cảnh, lại thêm điều kiện xuất thân cũng rất khác nhau nên sự cảm thông đôi khi cũng có phần giới hạn. Như cô Phạm Thị Như Hoàn cũng đã có lần bộc bạch cùng học trò thân yêu của mình, giá như ngày ấy cô quan tâm hơn nữa đến các em thì ngày nay cô không hối hận và có lời xin lỗi.
          Ngày xưa ấy, thầy cô là những người mới rời ghế nhà trường bước chân vào nghề dạy học, nhìn những học trò nam nữ, giàu nghèo lẫn lộn, từ quê lên tỉnh, tính tình hiền từ, ngỗ nghịch, học hành chăm chỉ khác nhau… chỉ với tâm nguyện truyền thụ kiến thức, đạo lý làm người cũng đã quý hóa lắm rồi. Đời người, nhìn ở một góc cạnh, một sự việc, ở tuổi trưởng thành nhiều khi cũng có khác với người cao tuổi, đó là chuyện bình thường.
          15g00 chiều nay, thầy lại về Huế mất rồi. Chia tay thầy Tôn Thất Phú trong bịn rịn, ước gì thầy còn nhiều thời gian hơn để thầy trò còn hàn huyên bao nhiêu chuyện kể về trường...
          Thưa Quý thầy, cô cùng các bạn là những người từng làm việc, từng dạy học, từng được học hành ở ngôi trường trung học Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, dù ở bất cứ nơi đâu, dù ở trong hoàn cảnh nào của cuộc sống cũng luôn nhớ về trường xưa, lớp cũ nhé. Hãy thắp lửa “Triệu Phong” như đã từng thắp “lửa Nguyễn Hoàng” bằng những lần hội ngộ đầy ắp nghĩa tình.
          Xin cảm ơn, cảm ơn rất nhiều những ý tưởng bắc những nhịp cầu nối lại bờ vui.
LĐ -  Đà Nẵng, xuân Nhâm Thìn 2012

NGÀY HỘI TRƯỜNG VUI VÀ NHỚ
Nguyễn Văn Tâm

       Ngày hẹn gặp nhau sau năm mươi năm thành lập trường cũng đã đến tại một khu sinh thái chứ không phải trên đất cũ của trường Trung Học Triệu Phong. Từng cái bắt tay, từng nụ cười, lời trò chuyện tâm tình làm ấm lại cái cô đơn lạnh lẽo sau bao nhiêu năm xa cách.
       Chúng tôi hẹn nhau đến tại nhà Ngân, ở đường Ngô Thì Nhậm thị xã Quảng Trị rồi cùng đi. Vị Trí của mỗi lớp đã được quy định nhưng phải cần một thời gian khá lâu mới tạm thời ổn định. Lớp 9­2(Anh văn) Khóa 1966- 1970,gồm Ngân, Tảo, Hà, Lịch, Khuynh, Lơi, Chính, Vinh, Ngọc Hà, Trí, Lan và tôi. Cạnh đó là lớp 91 cùng khóa. Mỗi khóa chọn một vùng, ở đó mỗi lớp chọn cho mình một vị trí. Cứ thế từ khóa 1960 đến khóa 1975. Tâm sự với nhau một lúc mới thấy một bạn gái duyên dáng bước về phía lớp mình. Đó là Quy, một trong những hoa khôi được lớp bầu chọn. Cũng như những người bạn khác, năm tháng đã làm cho Quy già đi nhưng vẫn còn dáng dấp như xưa. Quy cho biết, Bạch Nhạn rất bận rộn và Thái Đính cũng vậy nên không về dự được. Ở xa, các bạn: Đang, Thạch, Tương, Tình, Điền, Xuân Thành, Đình Bửu,Khắc Trung…phôn về thăm hỏi, Riêng Thám ở Huế dự định ra nhưng có việc đột xuất nên nhờ người chuyển thư mừng đến với BLL trường. Thời gian và những truân chuyên cuộc đời đã cho mỗi người lớn khôn thêm nhưng cũng làm mòn đi trí nhớ. Tuy vậy chỉ cần một gợi nhớ nhỏ là cả một khoảng trời xưa hiện về khá rỏ. Đó là khi nhắc đến Lê Thị Thiện,Cô gái có mái tóc dài, một tay ôm cặp, một tay khoác nón thon thả rời sân trường sau giờ tan học. Em gái Lê Thị Út, dù có lớn mấy cũng là em bời vì cái tên Út, ít khi mặc được áo dài. Chỉ là áo đầm theo tên gọi thời bấy giờ. Rồi nhớ Hùng, thằng bạn có tài đi xe Honda, nhớ Thọ giỏi võ dưới con mắt của thời niên thiếu. Đến chào và thăm hỏi thầy, mời thầy chụp ảnh lưu niệm, rồi nghe thầy kể những kỷ niệm về tháng ngày giảng dạy và sinh hoạt cùng với học sinh trường Trung học Triệu Phong năm xưa.Thầy Phan Thanh Thiên, vừa giảng dạy vừa làm hiệu trưởng không về được. Thầy nay đã già, Ở Sài Gòn các anh chị vẫn thường đến thăm hoặc tặng hoa vào những dịp họp hội đồng hương, họp lớp. Cô Diệu Thanh,Thầy Lê Mậu Duy, quý cô Như Hoàn, Nguyễn Thị Hường, Nguyễn Thị Quy, Thầy Thiện Lữ (dạy nhạc), Thầy Lê Công Hổ không về dự. Không khí gặp nhau, mỗi lúc càng sống động khi dòng cảm xúc của thầy Văn Phong được bày tỏ, chúng ta không chỉ dừng lại ở ý tưởng ôn về những kỷ niệm xưa mà cần xây dựng một chương trình hoạt động cho thời gian tới. Thầy Nguyễn Văn Quang, mặc dù rất bận rộn nhưng cũng đến tâm sự với lớp chúng tôi một thời gian ngắn. Thầy dạy quốc văn năm chúng tôi học lớp đệ ngũ.Thầy cùng với thầy cô trong trường đã truyền lửa và nung nấu cho bao thế hệ học sinh trường trung học Triệu Phong lòng hăng say học tập và tu dưỡng đạo đức. Giọng đọc thơ của thầy Trần Sỹ Tiêu thật trầm với bài thơ do thầy sáng tác. Thầy dạy Quốc văn rất truyền cảm, điều đó ai cũng biết rồi nhưng thầy còn làm nhiều thơ nhất là thơ thất ngôn tứ tuyệt. Thầy bảo, thơ của thầy được ngâm với giọng nữ nghe mới hay. Được trò chuyện với thầy Thế Lữ dạy vạn vật, những bài giảng của thầy kèm theo những mẫu chuyện liên quan làm cho chúng tôi vẫn nhớ mãi cho đến ngày hôm nay. Thầy Đáp có dạy môn địa và dạy một số giờ Anh Văn cho lớp chúng tôi chỉ một thời gian ngắn nhưng học sinh còn nhớ nhiều lắm, thầy nay còn trẻ, mới nhìn qua, thấy thầy trầm lặng nhưng khi thấy nói chuyện thì rất tình cảm, hiện thầy đang sông ở Huế. Những lời ca, một số bài thơ từ tập san Ký ứcTtrường xưa được các anh chị cùng các bạn phổ nhạc và thể hiện thật thân mật, êm đềm….
        Buổi găp mặt thầy trò trường trung học Triệu Phong đã đến quá trưa. Tạm biệt và hẹn gặp lại nhau thật là bịn rịn. Ai cũng thầm nghĩ rằng cứ ba hay bốn năm tổ chức được một lần như thế thì có nhiều ý nghĩa biết mấy!
        Hai lớp thuộc khóa chúng tôi định đi chơi chung, nhưng thấy không tiện nên lớp chúng tôi trở lại nhà Ngân. Ngày hội trường cũng là lúc những khuôn mặt của lớp có nhiều hơn bao giờ hết. Ngồi lại ở không gian nhỏ nầy hàn huyên tâm sự mới hiểu rõ hơn hoàn cảnh, nổi lòng của nhau. Tóc đứa nào cũng điểm bạc do sóng gió cuộc đời, đến nay tuổi cũng đã gần sáu mươi rồi. Cái thời sung sức hoa niên đã bị tàn phá bởi chiến tranh. Hòa bình trở về, bên cạnh niềm vui sum họp, phải lo toan cuộc mưu sinh. Bạn bè còn lại của lớp, dù đang sống ở quê nhà hay phiêu bạt phương xa, cũng đều hết mình chăm lo cho cuộc sống gia đình cũng như cho hoạt động xã hội. Thương cảm và thắp nén nhang lòng đến những người bạn đã mất (Trần Đãi, Hoàng Văn Dụ, Võ Ái, Lê An, Đỗ Như Long, Bạn Miều, Nguyễn Thị Thành, Nguyễn Ngọc Hà ).Bạn Nguyễn Ngọc Hà mới mất vào cuối năm 2011 sau một thời gian lâm bệnh hiểm nghèo. Cầu nguyện cho người còn sống được dồi dào sức khỏe, chèo chống vượt qua bão giông cuộc đời và luôn nghĩ rằng, bên ta còn có những người bạn cùng lớp, cùng trường trung học Triệu Phong, để lòng ta thêm sức mạnh.
       Ngồi cạnh Ngân là vợ Ngân, người rất đảm đang và hết lòng chăm sóc cho gia đình. Ngân ôm vai vợ và giới thiệu vui: đây là người đã vớt mình ra khỏi vòng ăn chơi trác táng, rồi hỏi chuyện con, chuyện cháu. Lần lượt từng người. Có bạn đọc thơ, rồi hát những bài hát hồi còn đi học hoặc những bài hát sau này: “Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về, mùa bình thường mùa vui nay đã về, mùa xuân mong ước ấy đang đến đầu tiên…”. Kèm theo đó là những món ăn quê nhà do vợ Ngân, Lan, Trí, Quy nấu nướng. Điện nói chuyện với Đang,Thạch,Tương, Tình để chia sẽ những cảm xúc hôm nay đến các bạn ở xa. Chỉ vài bạn thôi,biết thế là còn thiếu nhiều nhưng do thời gian và điều kiện,hẹn gặp nhau lần sau các bạn nhé!
Nguyễn Văn Tâm, Lớp 9(AV )
Khóa 1966-1970.

HAI CON TRÂU BẠNG CHẮC

Lê Bá Tâm
Chú Xòa vừa chạy vừa la:
- Ông Cửu ơi, ông ở mô về mau, con trâu cui đang bạng chắc với con chảng, e chết mất ông ơi!
-Bà con làng xóm ơi! Ra can dùm tui hai con trâu bạng chắc.
Nước mắt, nước mũi chảy đầy cả mặt chú la làng, la xóm đến khản cả cổ. Trưa hôm nay chú phải dắt con cui lên Cồn Mồ để bừa công ruộng nhà ông Tú Bốn nhờ. Mỗi lần dắt trâu lội sông qua xóm Cát chú lo lắm, con cui của ông Cửu Dạn đánh có tiếng hung dữ, nhưng cũng chỉ đánh hơn mấy con đực xóm Cồn Hàn mà thôi, còn qua xóm Cát thì: “chó ỷ thế nhà, trâu ỷ thế đồng” biết ai hơn ai? Chú đi ở chự trâu cho nhà ông Cửu Dạn đã hơn hai năm, mỗi năm nhà ông Cửu trả cho mụ Chu hai lương lúa, ông mụ bệnh tật có làm chi ra lúa gạo, keo này nếu con cui có mệnh hệ gì thì chắc công chú đi ở năm ni mất toi, không khéo lại bị trừ cả năm tới, chứ không chơi mô.
Cái con Tý, con o bộ Đồng chự con trâu chảng nhà nó run lên bần bật, chạy theo trâu còn không muốn nổi, đừng nói chuyện la làng. Hai con trâu gặp nhau ở bến đò ngang, con chảng đang nằm mẹp dưới sông với cả bầy thê tử, con cui vô tình quá giang qua sông. Máu ghen nổi lên tới óc, con chảng vùn dậy rống lên một tiếng kinh thiên động địa, ý muốn nói rằng “răng mi dám liếc mắt đưa tình mấy em của tao” thế là sinh chuyện.
Con trâu cui của chú Xòa xưa nay có tiếng đánh “tông” chưa có đối thủ, xui xẻo cho cui bữa nay lại gặp con chảng đang nằm ngang bến đò sang sông, nhà ở ngay bến nước, được rèn luyện từ thuở sơ sinh, chú chảng thiện nghệ với tài đánh dưới nước cũng thuộc dạng “độc cô cầu bại”. Con cui bị con chảng đè mũi xuống nước, hai sừng con chảng lớn hình vòng cung máng vào hai bên tai con cui, cui lắc đầu cố đưa mũi lên để thở, nhưng bị con chảng khóa chặt, nó bí thở muốn chết ngạt, cui cố dùng hai chân sau xoay quanh để mở thế khóa, vùng mạnh thoát khỏi cặp sừng của con chảng, cui nhảy vọt lên đường cái, hít một hơi thật sâu, chạy ngược trở lại tông con chảng một cái long trời lở đất.
Con trâu trong võ họcHai con vừa bạng chắc, đuổi bắt từ xế trưa đến chạng vạng tối, con cui yếu thế dần, vừa đánh vừa chạy về xóm nhà, lâu lâu đợi vô thế là tông con chảng.
Chú Xòa cưng con cui, cho ăn sướng lắm, hễ có khu nào cấm cho trâu ăn, cỏ xanh tốt thừa dịp đồng vắng không có ai đi thăm ruộng chú lùa trâu cho ăn gọi là ăn “kẹ”, vô phúc bị chủ ruộng bắt gặp, thế nào cũng bị đòn roi nứt da chảy máu, chú Xòa gan góc, có sợ ai đâu, nếu đập chú, không khéo mai kia sào ruộng bị nhổ gốc, lúa chết, đói cả năm. Người nông dân sống tất cả: chi tiêu, giỗ chạp, ma chay cưới hỏi, lễ tết, áo quần, cho con đi học…Nhờ mấy sào ruộng, tình nghi chú Xòa nhổ nhưng không bắt được tay vay được kéng (cánh). Ông Cửu Dạn giàu có, uy tín nhất làng An Phú này. Còn ông Mụ Chu thì bệnh tật, ông mù mắt, mụ què chân, đụng vào mang họa, phải phục dịch nuôi cơm cả năm thì chết.
Vòng cổ con cui to lắm phải hai người ôm chưa hết (hai người giữ trâu cỡ 10 đến 12 tuổi) nhưng cả tháng nay cày bừa liên tục, nhà ông Cửu ruộng nhiều nhất làng, cui xuống sức, yếu thế nên vừa đánh vừa rút lui về xóm Cồn Hàn, con chảng rượt theo sát không tha. Mấy chú thanh niên trai tráng chặt cây chuối, ôm mấy bó rơm ném vào sừng hai con vật mà cũng không can ra được, chú Cược cầm cây đòn xốc, quơ đánh vào mông con chảng cũng chẳng ăn thua, máu hai bên tai, bên cổ sau mông đùi hai con trâu chảy thấm ướt cả con đê làng ngót nghét hơn cây số, không biết có thâm thù đại hận chi mà con cui, con chảng muốn ăn thua đủ.
Con cui thấy ông Cửu vừa chạy tới, la hét, nó có bị ảnh hưởng khi thấy chủ hay không, mà vừa thấy bóng ông nó liền xoay lưng bỏ chạy, con chảng được thế rượt theo hai sừng con chảng móc vào mông con cui rách một đường dài, sâu bằng con dao phay, đau quá con cui hốt hoảng vào nghẹc (ngạch) “chồ” lúa nhà chú Hiện, con chảng đuổi theo, hai con chạy vô nghẹc chồ mắc cứng không nhúc nhích, thụt lùi ra được nửa.
Nếu bình thường, một con trâu không thể đi vào lọt, nhưng hôm nay đánh thua, mờ mắt đau hoảng quá con cui vòng sừng nhỏ không nói làm chi, chứ sừng con chảng dang rộng vòng cung, ham đánh con cui, nên chừ một sừng bị dính vào mông con cui, một sừng móc vào mái nhà đựng chồ lúa, mỗi lần con chảng lắc đầu nhà chú Hiện run lên như muốn sập.
Chú Hiện vợ mất đã ba năm, có một đứa con gái bảy tuổi, trâu đánh chạy vào nhà trong lúc chú đi vắng, con chó con sợ quá sủa kêu inh ỏi. Người đi can, đi xem đứng chật cả cươi ( sân) phơi lúa.
Trời đà chạng vạng tối, o Bộ cũng vừa đi làm đồng nghe con chảng đánh nhau vừa chạy về tới, hớt hơ, hớt hãi thấy con chảng sừng bị mắc cứng lên mái nhà không nhúc nhích được, o la làng, la xóm: Thôi chết tui rồi bà con làng xóm ơi! Ai đó mần ơn cứu giùm tui bà con ơi.
Không ai cứu được, ngoài chú Hiện đi làm ngoài đồng chưa về, hai con trâu trước sau kẹt cứng bên nghẹc chồ lúa, chỉ có một cách duy nhất là đập phá bỏ tường nhà ngang, mới lôi hai con trâu ra được.
Bên nhà ông Cửu cho người đi tìm chú Hiện về, thấy nhà mình dân làng đứng chật ních, chú hốt hoảng chưa biết rõ chuyện chi xảy ra, nhà cửa mần răng?
Chú nghe ông Cửu nói: Chú Hiện ơi! Chú mần ơn cứu giúp chúng tôi với, để lâu con cui nhà tôi chắc chết mất.
- Cứu là răng? Tôi mần răng cứu anh được, trâu anh lăn vô nhà tui, làm muốn sập nhà như ri, anh bảo tui cứu là cái chi.
-Trâu tôi bị trâu o Bộ rượt đánh, bí quá mới chạy quẩn vô chồ lúa của chú, chú nghĩ có ai muốn như ri mô, chừ chú mần ơn cho tôi đập tường nhà ngang của chú mới lôi con cui ra được.
-Úi chà! Anh nói răng mà lạ rứa, nhà tôi ri mà anh đòi đập đi, tôi một mình, kích cóp, tần tiện năm ba năm, nhịn ăn, nhịn mặc mới xây được như ri, chừ anh bảo cho anh đập là đập làm răng?
- Nếu chú không cho đập tường thì hai con trâu ở trong nhà chú mãi, tôi bị xui xẻo chứ có ai muốn như ri mô mà chú trách la tôi, chú cho đập mai mốt tôi xây lại nhà cho chú, nói có bác Xạ (ông trưởng thôn) làm chứng.
- Ông kêu ông Xạ: Bác Xạ ơi! Bác mần chứng cho tôi và o Bộ, chú Hiện cho đập tường, mai mốt chúng tôi xây lại.
- Xây lại tường nhà tôi tốn kém chừng năm sáu lương lúa chứ không ít mô, mà o Bộ có chịu không đã? O bộ đồng ý xây lại tôi mới cho đập.
Chú vừa nói vừa đi đến chỗ O Bộ, to nhỏ thì thầm gì đó không ai nghe, sau đó quay lại bảo ông Cửu.
- Nể lời anh lắm, thôi anh kêu người tới đập đi, mai mốt đến xây lại cho tôi đó nghe.
Trời đã tối, từ khi hai con trâu mắc kẹt đến khi đập tường đưa ra đến hai giờ, con cui bị què chân phải trước, máu chảy ở cổ, vai, mông phía sau rách nhiều đường, mắt bên trái bị móc phải nhắm nghiền lại. Trước khi O Bộ cùng con Tý dắt con chảng ra về, ông Cửu và chú Hiện đều dặn ngày mốt gặp tôi để bàn chuyện đền bù cho xong. O Bộ thấy con chảng lành lặn, mừng quá gật đầu lia lịa:
- Dạ dạ, hai anh đừng lo, mai mốt gặp tôi sẽ bàn bạc phải trái không ai thiệt mô.
Tội nghiệp con cui ngày hôm sau không đứng dậy được, mắt trái bị hư, bỏ ăn mọi người khuyên ông Cửu:
- Thôi anh làm thịt bán đi lấy lại ít vốn, chứ để lâu nó còn giơ xương, giơ da thì bán chác cho ai được. Ông Cửu kêu người đến xẻ thịt con cui, chú Xòa khóc lóc, than trời than đất, công lao chú chăn dắt, thức khuya dậy sớm, nó với chú như hình với bóng vậy mà người ta nỡ cắt cổ nó, chú buồn bã chạy trốn về nhà. Bên nhà ông Cửu sai người mang cho ông mụ Chu một thau đầy thịt xáo, chú thương con cui không dám ăn một miếng dù rằng chú thèm lắm, nhưng chỉ chan một miếng nước vào chén cơm, chú vừa ăn vừa khóc.
Tháng sau ông Cửu qua làng bên mua một con trâu cái vừa xỏ mũi để chú Xòa chự.
Chú Hiện chờ gần cả tháng, chẳng thấy ông Cửu, O Bộ đến xây tường lại, chú đi qua nhà ông Cửu hỏi:
- Bác Cửu ơi! Bác hứa vài bữa kêu thợ tới xây tường cho tôi, răng lâu quá không thấy chi hết.
- Chú qua bên nhà O Bộ, nói với O nớ, trâu O bạng chết trâu tôi, chẳng thấy O qua đây nói chuyện thiệt hơn, phải trái với tôi, nói chi đến chuyện đền bù xây nhà cho chú.
- Bác nói rứa mà nghe được, trước khi đập tường nhà bác hứa, O Bộ hứa xây lại cho tôi, có bác Xạ làm chứng, chừ bác lại cãi cối ai mà nghe cho được, trâu bác chết mặc bác, có phải tại tôi mô, bác phải đền cho tôi, không tôi làm đơn kiện bác đó.
- Chú qua nhà O Bộ, bảo O xây lại cho, tôi cũng phải qua đó đòi lại con cui của tôi nữa, chú qua hỏi người ta trả lời răng về báo lại để tôi kiếm cách nếu không chú cứ thưa lên xã, lên quận, chổ mô tôi cũng đi hầu với chú.
Không hiểu chú Hiện qua đòi bên nhà O Bộ thế nào? Nhưng một tháng sau có giấy triệu tập của xã mời ba người: ông Cửu, O Bộ, chú Hiện. Lý do chú Hiện nhờ người viết đơn thưa đòi hai người xây lại tường nhà, đơn thưa có nội dung như sau:
“Hai con trâu của ông Cửu Dạn và O Bộ đồng bạng chắc, kéo vô chồ lúa nhà chú Hiện làm sập tường, hai người hứa sẽ xây lại (có bác Xạ trưởng thôn làm chứng) bằng miệng, đến nay đã gần hai tháng nhưng hai người đổ qua, đổ lại không ai chịu trách nhiệm đền bù.Tổ pháp lý của xã sau khi hỏi thẩm vấn ba người khuyên ông Cửu, O Bộ về xây tường nhà cho chú Hiện”.
Đợi cả tháng chẳng thấy ai đến xây tô chi, chú Hiện lại nhờ người làm đơn thưa lên quận. Người thư ký nhận đơn xem qua bảo chú Hiện về viết lại, đơn thưa kiện chưa rõ ràng:
1. Phải nói thời gian, địa điểm hai con trâu đánh nhau.
2. Tên tuổi, địa chỉ hai người chăn dắt trâu, và phải mang lên quận để lấy khẩu cung, tình huống ai lỗi, ai phải.
3. Tại sai hai chủ trâu lại để xảy ra tình trạng gây mất an ninh, trật tự, xâm phạm đến của cải, tài sản, tính mạng của người khác.
4. Phải khai tên tuổi địa chỉ, số thẻ căn cước, ngày sinh chứ không được viết: ông Cửu, O Bộ, bác Xạ, đọc không ai hiểu?
5. Đòi đền bù, phải nói rõ thiệt hại gì? Đền thế nào, giá trị không được tính bằng năm sáu lương lúa mà phải qui ra tiền.
6. Đóng lệ phí xử kiện mỗi người một ngàn đồng (năm ngàn một lương lúa).
Về làm đơn lại, chừng nào có giấy triệu tập lên đây ông phó quận xử cho.
Chú Hiện lận lưng quần chỉ còn mấy hào lẻ, trưa không dám ăn quán chỉ uống một ly nước chè xanh, đóng án phí kiểu ni, lên xuống mấy lần hết cả lương lúa, không khéo năm ni đói chết.
Ông phó quận là người dòng tộc Tôn thất, vua chúa nhà Nguyễn, nghe nói đã đỗ bằng đốc sự hành chánh chi đó trong Huế được bổ ra làm quận phó ở vùng quê này. Ông xem đơn thưa của chú Hiện xong, cho thư ký mời ông Cửu, O Bộ và chú Hiện vào thẩm vấn. Ông lại nghĩ ba người này đều là thành phần khá giả nông thôn, có trâu bò nuôi thế nào cũng có con cháu, đang học bên trường trung học Triệu Phong, mà mình đang dạy môn Công dân giáo dục, phải xử sao cho thấu tình đạt lý chứ nếu để mắc oan sai, mai mốt gặp học trò biết ăn nói, dạy dỗ làm sao.
- Theo lời khai của ông Cửu: “Trâu O Bộ bạng chết trâu ông, O Bộ phải đền luôn phần xây tường của ông Cửu.
- Lời khai của O Bộ: khi O xin chú Hiện cho đập tường, chú Hiện có nói nhỏ với O: Mai mốt O cho tôi hôn một cái, tôi mới cho O đập, tuy lời nói của chú không ai nghe, nhưng O Bộ vẫn nhớ rõ ràng. Túng quá O hứa đại: Ừ, anh cho tôi đập tường dắt trâu ra, tôi cho anh hôn.
Vài bữa sau chú Hiện qua nhà O Bộ, ban đầu nói chuyện đền bù, lại nói thêm là ông Cửu không chịu đền mà còn đòi qua bắt vạ O Bộ nữa. Chú Hiện nhắc chuyện O hứa tháng trước, O Bộ mời chú Hiện vô buồng, cho chú hôn một cái lên má, như thế là đã giữ đúng lời hứa, nhưng chú Hiện chưa chịu: chú đòi  chuyện khác nữa mới được. O Bộ không chịu, hôm trước anh đâu nói bắt tôi phải chịu chuyện ấy  đâu? Chú Hiện nói: Hôn như ri thì ăn thua chi, O cho tôi hôn khi mô có con thì thôi.
Trời đất, làng xóm ơi! Tui mất chồng đến nay đã gần ba năm, còn anh Hiện chết vợ cũng đã mãn tang rồi. Nếu anh thương tôi, cũng phải chờ thêm mấy tháng chừng nào hết khó thì anh nhờ người mai mối sang đây hỏi cưới, chứ anh đòi như ri, lỡ tui có mang thì ăn nói làm sao với bên nhà chồng, bà con làng xóm đây?
Chú Hiện khai một mực đòi hai người phải xây lại tường cho mình, khi ông phó hỏi:
- Anh có đòi người ta cho hôn không?
Chú Hiện lí nhí đáp: Dạ thưa có.
- Thế O Bộ đã cho anh hôn chưa?
- Dạ thưa có nhưng ít quá.
- May mà người ta cho anh hôn ít, nếu hôn nhiều như lời O Bộ tả, việc anh đòi cởi áo quần, làm cho có con, hôm nay tôi bắt nhốt anh tệ lắm cũng hai ba năm chứ chẳng phải chuyện nói chơi. Nếu anh còn đi thưa kiện đòi đền bù, tôi xử bắt hai người kia phải xây lại tường, nhưng anh phải đóng ba trăm đồng nộp phạt (giá trị bằng sáu lương lúa, bằng thu hoạch của chú Hiện cả năm) cho huyện về tội xâm phạm tiết hạnh đàn bà góa, ép buộc giao cấu trong tình huống bị đơn gặp khó khăn, tinh thần không được ổn định, nếu anh rút đơn bãi nại, chúng tôi để các anh chị ra về khỏi nộp phạt và gì, dĩ hòa vi quí là tốt nhất.
Chú Hiện nghe phán thất sắc, đổ mồ hôi hột, lẳng lặng đi ra: Dạ thưa ông phó, thôi tôi không dám đòi thưa kiện nữa mô, cho tôi rút đơn lui.
Trên đường về, bốn người đi bộ băng qua hai cánh đồng lúa, trời về chiều, O Bộ thấy chú Hiện chẳng nói, chẳng rằng. Từ cái hôm O để chú Hiện hôn lên má đến nay đêm nào O cũng nhớ, hôn ít nhớ lâu, sẵn có hai bác Cửu, bác Xạ O nói:
_ Chuyện em thưa hai bác như ri:
Nếu anh Hiện thực lòng thương, thì đợi đến tháng chạp này hết tang khó, anh Hiện nhờ hai bác đến hỏi cưới, trai chết vợ gái góa chồng, rổ rá vá lại là chuyện bình thường, huống chi anh Hiện đã có lòng thương em, nhân chuyện hai con trâu bạng chắc, theo nhau đi lên xã xuống quận, em cũng cám cảnh thân đơn gối chiếc, nghĩ thấy anh Hiện giở “mô cau ra ăn cơm với muối mè”, em chạnh lòng đứt ruột. Thôi để vài bữa em về ở chung rồi nấu cơm cho cha con anh ăn uống đàng hoàng. Còn bác Cửu đã mua trâu nhưng còn nhỏ, cày bừa chưa tốt mai mốt khi mô cày bừa chi, cả bác Xạ nữa, ra nhà em dắt con chảng, bắt nó cày thế, em không tính toán chi, gặp vận xui xẻo, chứ có ai muốn như ri.
Ông Xạ bảo:
_ Thím Bộ nói như rứa tôi nghe mát ruột lắm “nhất cử tam tứ tiện”, bà con ba bên bốn bề qua lại có nhau, chuyến này chỉ có bác Cửu đây là bị thiệt thọi một ít nhưng hao tài thì đỡ tật, tôi thấy chú Hiện đây bị sập tường nhưng lại được thím Bộ đây thương, trong cái rủi cũng có cái may. Khi mô chú có nhờ tôi và bác Cửu đây đi hỏi vợ, chúng tôi tình nguyện đứng ra giúp đỡ. Vụ thưa kiện ni thôi thì chấm dứt, dắt nhau đi lên xã xuống quận, bà con làng xóm đàm tiếu xấu hổ lắm các chú, các O nờ.
- Dạ được hai bác thương, em cấm cỏ ngậm vành đội ơn hai bác, trăm sự mai đây chúng em nhờ hai bác định đoạt cho, cha mạ cháu mất đi chỉ có cháu là con trai, mẹ con út vắn số mất sớm, nhà cháu chưa có con trai nối dõi tông đường, mang tội bất hiếu, bất mục với tổ tiên, cháu lo lắng cả mấy năm nay, để ý O Bộ đây mà chưa dám tỏ, trời xui đất khiến thế nào để hai con trâu bạng chắc, chạy trốn vào nghẹc chồ nhà cháu, âu là cái số do ông trời định đặt cho cháu đây.
Về tới nhà chú Hiện thắp hương lên bàn thờ, khấn vái mạ con út sống khôn thác thiêng, phù hộ độ trì cho chú bước thêm bước nữa, chuyến này chú lấy được o bộ, người vừa siêng năng, nết na lại thuộc thành phần khá giả, nếu hai nhà sáp lại không khéo chẳng thua kém nhà ông Cửu là bao.
Sáng hôm sau chú dậy sớm đi kêu thợ đến xây lại bức tường chuẩn bị tháng chạp này rước O Bộ về ở.
TP. HCM 2011- LBT
 
TIẾNG GỌI ĐÒ
  CHỢ HÔM - ĐÂU KÊNH
       Lê Đàn
TRÀ DƯ TỬU HẬU
    
Hơn tuần nay, thời tiết thất thường mưa nắng, khiến những người già như tôi, vừa huyết áp thấp, vừa rối loạn tiền đình, phải xâm xoàng mệt mỏi vì cơ thể chưa thích nghi kịp với thời tiết buổi giao mùa. Bởi vậy, tôi chưa thể hẹn gặp một ông bạn nhà thơ thầy giáo đã tận tình giúp cho tôi một việc để nói lời cảm ơn, cho nên trong lòng luôn áy náy.
     Nói theo cách của nhạc sĩ Y Vân: “Em ơi có bao nhiêu, sáu mươi năm cuộc đời” thì lứa U60 như tôi đã về tới bến. Sức cùng lực tận rồi. Tổng kết lại 10 năm cầm bút chẳng viết được gì giá trị cả, chỉ là những bài báo theo dạng mì ăn liền  như những mớ giấy lộn. Bây giờ già rồi, không còn đủ sức để viết nữa. Ngồi uống trà với vài ba ông bạn thơ già, lật tập thơ "Người câu bóng mình" của ông bạn nhà giáo nhà thơ mới tặng, đọc chậm rãi từng bài để thưởng thức và bình luận lung tung cho vui. Thơ của nhà giáo này không thể đọc một lần mà hiểu ngay được, cần một chút suy gẫm, tư duy. Thơ hay, chính là ở chỗ đó. Ông bạn tôi rất thích bài "Mai sau" (Trang 67), ông ta đã nhại lại mấy câu của bài này để nói lên cái khát vọng của một người cầm bút nên viết gì ???

                                                                    Mai sau nếu ta trẻ lại
                              Sẽ không như ta bây giờ
                              Bớt nhậu, thêm vài trang viết
                              Dâng đời một Best Seller  
          Triết gia René  Descartes nói rằng :" Tôi tư duy, vậy, tôi tồn tại". Người xưa cũng có dạy : "Nhân sinh tự cổ thuỳ vô tử/ Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh". Có lẽ, tư duy là để tồn tại sống lâu như mẹ già, nhưng khi trăm tuổi về chín suối phải để lại tấm lòng son với cuộc đời này, hoặc như ông bạn già của tôi nói nên «Dâng đời một best seller». Viết thì hàng triệu người viết, nhưng rất khó để đạt được một «bét xeo lơ»! Thôi cứ viết hết mình, cứ sống văn minh với một tấm lòng tốt cái đã, còn để đạt cái này nọ kia, không nên đặt mục tiêu cao lắm, chỉ thêm phiền não và khổ đau mà thôi.
          Để lại tấm lòng son chưa đủ hay sao mà một vị triết gia khác đã nhắc nhở thêm: "Khi tất cả biến mất, chỉ còn lại tiếng gọi đò". Tại sao chỉ còn lại tiếng gọi đò ??? Tấm lòng son và tiếng gọi đò có gì giống nhau?
Khi tôi còn rất trẻ, tôi và một người bạn giáo viên, sau khi ăn tối xong khoảng 7, 8 giờ là chúng tôi đi rong chơi đây đó, có những hôm chúng tôi đi qua đò ngang Triệu Độ, hoặc đi qua đò ngang Chợ Hôm Ái Tử sang Đâu Kênh. Thường khi chúng tôi đến bến vào những giờ mà đò ngang đã nghỉ lâu rồi. Hai chúng tôi phải vác hai chiếc xe đạp trên vai lội ra giữa dòng và thay nhau đưa hai tay lên miệng chụm lại làm loa gọi to hết cở: “BỚ ĐÒ !”. Có khi trời ngược gió, chúng tôi gọi khản cả cổ, không biết bao nhiêu tiếng bớ đò… cuối cùng ông lái đò cũng nghe được và chống chèo sang đón chúng tôi. Biết ông thích rượu, lần nào cũng tặng thưởng ông thêm một chai rượu gạo nguyên chất. Nhiều lần như thế, chúng tôi trở thành khách quen thuộc như là người nhà, hễ mỗi lần sang đón chúng tôi dù đêm hôm khuya khoắt ông cũng ngã mũ chào thầy giáo. Thử tưởng tượng vào một đêm ba mươi tối thui, giữa bến vắng đìu hiu, hai thằng tôi vốn sợ ma, tiếng gọi đò cọng hưởng âm thanh dội trở lại nghe sợ lắm! Lúc đó hai câu thơ của thi sĩ Quách Tấn ám ảnh trong đầu: “Đời tan loãng như mây chìm bóng mộng/ Tiếng gọi đò lạnh toát giữa hư không”; Chúng tôi sợ và lạnh toát da gà, cứ mong sao cho đò mau đến mà qua bờ bên kia :“Ông lái đò giờ đây già yếu lắm!”, nhưng dù có giờ Tý canh khuya, ông vẫn không phàn nàn, ông hiểu và cảm thương lữ khách chờ đò! Không ai muốn đi cái giờ ma đưa lối, quỷ dẫn đường; nhưng vì công việc quan trọng họ phải đi, vậy nên ông lái đò chưa bao giờ để khách lỡ chuyến.
          Đó là chuyện ông lái đò của tôi, còn ông lái đò của nhà thơ Rabindranath Tagore trong một buổi chiều nọ, đò thì chở nặng đầy khách, nhưng vẫn còn một vị khách trên bờ vẫy gọi, ông cảm thương ghé bến: “Hãy vào ghé tạm nơi đây, em lẻ loi mang vài bó lúa. Thuyền tôi chật nặng lắm rồi, sao nỡ để em đi không với gọi. Người non trẻ, thân em thướt tha gầy guộc, mắt tươi duyên hé nở nụ cười, và chiếc áo em mang sậm màu mây trời nặng nước. Khách sẽ về từng bến. Khách sẽ về từng nhà. Ngồi tạm mũi thuyền tôi giây lát rồi cứ việc lên bờ, không ai níu giữ em đâu. Em về đâu? Nơi nao? Cất những bông lúa óng vàng, tôi cũng chẳng cần gạn hỏi. Khi hết chuyến dừng chèo kéo buồm neo thuyền ngưng nghỉ, tôi mới ngồi một mình tự hỏi lúc chiều buông: Em về đâu? Nơi nao? Cất những bông lúa óng vàng?” (Lover’s Gift - R. Tagore. Đỗ Khánh Hoan dịch). Ông lái đò của Tagore thật dễ thương, nếu không dễ thương thì ai dại gì cho ông cái giải NOBEL văn chương vào năm 1913 với tập thơ Gitanjali (Lời dâng). Có người cho rằng tuy “Lời dâng” đạt giải Nobel 1913, nhưng không hay bằng “Lover’s Gift” (Tặng vật), ông viết năm 1917.
Nói đến giải Nobel văn chương, thì năm 1946 nhà văn thi sĩ người Đức tên Hermann Hesse với cuốn “Siddhartha” (Câu chuyện dòng sông), một tuyệt phẩm thâm sâu đã được giải Nobel. Đây là cuốn tiểu thuyết ông viết về cuộc đời của vị sa môn Siddhartha, phỏng theo cuộc đời của Đức Phật Thích Ca xứ Ấn Độ. Trọn tác phẩm của Hermann Hesse là lời thánh ca bay vút lên nỗi đau đớn vô cùng của kiếp sống và lòng hướng vọng nghìn đời của con người, dù bơ vơ bất lực mà vẫn luôn tha thiết đi tìm sự giải thoát ra ngoài mọi giới hạn tầm thường của đời sống tẻ nhạt.
Bản dịch của Phùng Khánh, tức Sư cô Thích Nữ Trí Hải, khi đem in năm 1965, nhà xuất bản Lá Bối đã xin đổi tựa sách là: “Câu chuyện dòng sông”, nghe cũng phù hợp với nội dung sách, nên vị Sư cô này đã đồng ý. Có lẽ ai đã đọc “Câu chuyện dòng sông” rồi thì cũng sẽ đông ý với cái tựa rất hay này, mặc dù cái tựa gốc “Siddhartha” là tên của nhân vật chính, vị sa môn trong câu chuyện. Đây là sự cho phép của một bản dịch.
Phù hợp làm sao?
Có một dòng sông rất thơ mộng trong câu chuyện giống như dòng sông A Nô Ma nổi tiếng ở xứ Phật Ấn Độ, Đức Phật đã ngồi tham thiền nhập định 49 ngày dưới cội cây Sala (Bồ đề) bên dòng sông A Nô Ma này và Ngài đã trở thành một Bậc Giác Ngộ. Dòng sông trong truyện của H. Hesse chỉ là dòng sông hư cấu trong một câu chuyện hư cấu có chủ ý. Nhân vật chính, vị sa môn Siddhartha, tu khổ hạnh lâu năm trong rừng sâu không thể giải thoát, sa môn xuống núi gọi một chiếc đò ngang qua sông để về xứ phồn hoa đô hội may ra tìm được con đường hạnh phúc vượt thoát phiền não khổ đau, nhưng sau những cuộc truy hoan kiếm tìm hạnh phúc đi tận hết hang cùng ngõ hẽm của đô thành cũng chưa Tri Kiến Niết Bàn. Vị sa môn tuyệt vọng quay lại ngồi trên bến đò năm xưa kỷ niệm lúc xuống núi trở về. Lúc đó, ông lái đò năm xưa đã quá vãng, người con trai đã thay cha chèo đò ngang trên khúc sông này. Và đây là phút giây kỳ diệu thiêng liêng nhất, tiếng gọi đò đã làm cho sa môn Siddhartha giác ngộ. Tiếng gọi đò đã làm nức lòng Ban giám khảo và họ đã bình chọn giải Nobel văn chương cho “Câu chuyện dòng sông”(Siddhartha)
Tiếng gọi đò - Con đò hay con thuyền Bát Nhã của Như Lai sẽ đưa ta cập bờ bến giác, Nhưng ta phải tự thắp đuốc lên mà đi theo đúng hướng ngón tay chỉ của Ngài, chắc chắn ta sẽ đến bến bờ an vui hạnh phúc. Tiếng gọi đò làm cho ông lái đò và khách đi đò là ta tỉnh thức. Tỉnh thức để lấy tấm lòng son mà đối xử tử tế với nhau.
Tiếng gọi đò và tấm lòng son được Đức Phật ghi lại trong Kinh điển của Ngài; Chúa Jêsus ghi lại trong Thánh kinh của Chúa; R.Tagore ghi lại trong “Gitanjali”, “Lover’s Gift”,…, H.Hesse ghi lại trong “Câu chuyện dòng sông”, thiền sư Thích Nhất Hạnh ghi lại trong “Đường xưa mây trắng”(một Best Seller cuối thế kỷ trước), Vincent Van Gogh, Pablo Ruiz Picasso ghi lại trong những bức tranh nổi tiếng của họ... Và rất nhiều tiếng gọi đò và tấm lòng son được ghi lại như thế.
Trong tháng này tôi được tặng ba tập sách mới in, trong đó hai tập thơ của hai nhà giáo và một tập sách gồm nhiều bài bút ký, phóng sự, ghi chép của một nhà báo. Nói chung họ là những người cầm bút, họ đã viết gì, cái mà họ muốn chuyển tải đến mọi người ít nhiều cũng không ngoài cái đạo lý Chân-Thiện-Mỹ của Thánh hiền. Câu thơ của cụ Nguyễn Đình Chiểu viết đã lâu rồi, nhưng đến hôm nay vẫn còn giá trị cho những người cầm bút:«Chở bao nhiêu Đạo thuyền không khẳm/ Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà». Có bóng dáng một con đò cho người cầm bút «Văn dĩ tải đạo», nhưng người cầm bút là nhà giáo như hai ông bạn nhà thơ của tôi lại có thêm một sứ mạng nặng nề hơn nữa của nhà mô phạm là «Người đưa đò tri thức». Cho nên khi thầy cô giáo làm thơ thì thơ của họ hay lắm, vì thơ của họ thấm đẫm chất «Thầy Cô», những người chèo chống con đò tri thức. Nhà giáo nhà thơ Nguyễn Văn Trình đã lấy được nước mắt của một độc giả già như tôi qua bài thơ: Bài giảng giờ chia tay: «…Đó là bài giảng cuối cùng cho các em,/ Mà sáng nay thầy giảng/ Và bắt đầu một cuộc chia tay/ Không phải lần đầu sao thầy rưng rức/ Cả lớp nôn nao…một thoáng ngậm ngùi…/ Rồi tiếng cười thay nước mắt »
Thật là thiêng! Vừa nhắc đến thầy cô giáo tức thì tôi có một cuộc điện thoại đặc biệt. Tôi nói đặc biệt với tôi vì người tôi nói chuyện đang đứng ở bên bến đò Đâu Kênh, chuẩn bị lên đò ngang qua bến Chợ Hôm. Cô ấy là cô giáo dạy tôi thuở ấu thơ.
“Cô đang chuẩn bị qua bến đò Chợ Hôm đây, làm sao em có thể đưa cô ra nhà em?”
“Dạ! Sẽ có một đứa cháu tên là Hoàng đến đón cô”
Hơn bốn mươi năm cô ra định cư ở nước ngoài, bây giờ về thăm quê cô lại đươc đi đò ngang thật là thú vị, bến đò quê ngoại nơi cô sinh ra, nơi chôn nhau cắt rốn, cô đứng trên đò có đủ mọi cảm xúc vui buồn, cô bỗng khóc sướt mướt như mưa, nước mắt cô rơi  hoà xuống dòng sông quê vị mặn nghĩa tình.
 Cả tỉnh này người ta làm cầu nhiều rồi, may sao còn lại cái bến đò Chợ Hôm – Đâu Kênh, để còn nghe tiếng gọi đò đêm ba mươi, đêm mùa thu lá rụng gió heo may và mưa rả rích buồn thúi ruột thúi gan, vẫn còn có khách đứng gọi mãi, gọi hoài …bớ đò !
Chợ Hôm nằm sát bến đò, ban đêm vắng vẻ, vậy mà đến sáng, chợ lại nhộn nhịp một phiên chợ quê mang tên “chiều hôm”, nhưng lại nhóm họp bán mua tấp nập vào buổi sáng sớm! Trong đình chợ có gánh bún của chị Hoa nổi tiếng ngon, rẻ, một tô chỉ có bảy ngàn, giá chỉ có nửa so với ngoài phố, chị Hoa nói, toàn là khách bà con nông dân làm ruộng, nếu bán đắt lấy tiền đâu họ ăn.
Sáng mai tôi sẽ mời cô giáo đi ăn bún chị Hoa ở chợ Hôm. Cô đã dành cho lũ học trò chúng tôi hết một ngày vui trọn vẹn, tối nay tôi sẽ đưa cô về quê ngoại cô ở Đâu kênh, nhưng không phải qua đò ngang, mà bằng Taxi đi vô Ái Tử qua cầu An Mô vòng qua. Ngồi trên taxi tôi lắng nghe xa xa như có tiếng ai gọi “Bớ đò!”.



                                                Lê Đàn
                                      60 Chu Mạnh Trinh
                                                TP Đông Hà -  Quảng Trị
                                                Di động : 01638 175 691

DUYÊN 
Hồ Thị Tình

Mình được sinh ra và lớn lệ với mảnh đất của nắng và gió, nơi đã cho mình những ngày tháng tuyệt vời của tuổi ấu thơ. Mình luôn nghĩ những gì đã xảy ra như mới ngày hôm qua. Hôm qua thật ngọt ngào, với những kỷ niệm khó quên. Có lẽ các bạn cũng giống như mình! Cuộc sống như dòng sông đang chảy, với bao khúc quanh co của nó, nhưng ít nhất mình cũng đã một lần đi qua dòng sông đó để bây giờ mình luôn có cảm giác như muốn một lần nữa đi qua, dẫu biết rằng thật sự là khó. Nhưng có một điều mình có thể làm được là nghĩ về nó như một kỷ niệm đẹp của cuộc đời.

Các bạn biết không? Tuổi thơ bao giờ cũng gắn liền với những kỷ niệm, tình yêu là một phần trong số đó. Sẽ có lúc bạn sẽ phải thừa nhận nó là một điều gì, với mình, nó là chữ “Duyên”.

Mình nhớ lúc còn đi học, tình yêu học trò đã đến, dù vô tình hay hững hờ mình đều không xác định được. Nhưng tình yêu đã đến và mang mình đi theo đúng nghĩa của nó, và mình đã sống với cái tình yêu đó mãi cho đến ngày hôm nay; trãi qua biết bao sóng gió của cuộc đời, mình vẫn thế. Mình đã đi khỏi nơi một thời gắn bó, bỏ lại một vài điều gì đó trong người và đất Quảng Trị. Nhưng chao ôi, cuộc sống luôn có những điều kỳ diệu và dễ thương. Một chữ “duyên” thật sự hiện hữu! Mình đã gặp lại Thầy Cô, bạn bè sau bao nhiêu năm xa cách. Sự gặp gỡ này như một món quà định mệnh, mình đã gián tiếp mang tình yêu một thời mà mình không làm được trên mảnh đất của mình. Và giờ đây, tình yêu đó đã đến cho thế hệ con cháu của chúng ta, một sự tái ngộ mà chưa bao giờ có lời hứa hẹn, như vậy có phải là “duyên” không?. Mình đã tin vào nó, vì nó đến từ những sự tình cờ, và bây giờ mình có thể ngồi lại với nhau mà ôn những kỷ niệm xưa; bên những niềm hạnh phúc mới, mình cảm nhận được niềm hạnh phúc đó:

Niềm hạnh phúc công lại và nhân đôi!

Mình cũng mong sao tình bạn của chúng ta là nhịp cầu nối để mang lại cho con cháu của chúng ta những gì tốt đẹp nhất, vì mình đã gởi tấm chân tình này vào người và đất Quảng Trị. Mình chỉ mong sao con cháu của chúng ta có những kỷ niệm đẹp, tình yêu đẹp, cuộc sống đẹp cho dù biết làm được điều đó không hề dễ dàng chút nào, Nhưng chúng ta sẽ truyền đạt cho thế hệ con cháu cách để để nắm lấy hạnh phúc, và cảm nhận hạnh phúc thực sự, được như thế thì một lần nữa chữ DUYÊN lại đến với mình! 
Chào thân ái!
 TP. HCM 10-2011-Hồ Thị Tình -ĐT.0914230593


HOÀI NIỆM TUỔI THƠ 
Võ Thị Tương

Khung trời Phú bổn có những buổi chiều rất đẹp. Trời như bây giừ thật nhẹ, thật buồn.Ta cảm thấy cô đơn và ưa tìm về dĩ vãng.
Thuở ấy, xa, xa lắm rồi, mười, mười lăm năm về trước, ta - một đứa bé may mắn sống trong một gia đình tuy không giàu có, nhưng cũng có một cuộc sống hiền hòa bắt ta nhớ mãi. Bảy tuổi ta bắt đầu đến trường, ngây thơ trong tập vở ôm chưa gọn, trong chiếc mũ đội lệch trên đầu đến trường với những sợ hãi lo âu: Lo trường xa đi lạc, lo những buổi trời mưa anh, chị chưa kịp đón về, và đã khóc ngon lành mỗi khi bị cô giáo phạt. Những chuỗi ngà xưa sao mà đáng ghét thế, bắt ta run lên vì lo sợ! Ta còn nhớ một buổi chiều trời chớm đông, gói bắp rang nóng hổi được mạ gói để dành trong túi áo. Tan trường về, trời bỗng đổ cơn mưa, mưa thật lớn, nước ngập cả lối đi, ta lo sợ điên cuồng. Bạn bè đều được người thân đón về; trường học chỉ còn lại mình ta và cô giáo. Ta bỗng òa lên khóc, khóc thật lớn. Cô giáo đến dỗ dành an ủi, nhưng mặc, ta vẫn chẳng nghe gì. ÂT định bưng chạy giữa cơn mưa. Cô giáo kéo ta lại và bảo rằng: “ Mưa lớn lắm, con chưa về được đâu. Con không nghe tiếng ầm ầm đó sao? Thôi, nín đi con,chút nữa sẽ có người đón con về” Ta bỗng tin ngay lời cô giáo, nép thật sát vào lòng cô, ta bỗng thấy cô giáo là một người thật to lớn, có thể che chở cho ta trong cuộc đời này. Ta thì thầm bên tai cô, tiếng nói pha lẫn niềm lo lắng: “Làm răng trời hết mưa, cô? Về chứ không trời tối mất thôi.”Ta thấy cô nhìn ta thương cảm: “Lát nữa có người đón con về không tối đâu, đừng sợ!” Ta hơi yên lòng đứng tránh những giọt mưa. Mưa vẫn lốp đốp rơi trên mái tôn, những giọt mưa hòa lẫn nước mắt ta, gói bắp rang cũng ướt mèm trong túi áo!
Người anh thứ hai của ta xuất hiện với chiếc áo mưa của lính vừa dài vừa rộng. Anh đến nói gì đó với cô giáo rồi bắt ta chui vào chiếc ào mưa. Trên đường về ấm áp trên lưng anh, ta ngủ thật ngon lành…Cũng những ngày bé dại, có những buổi chiều mấy chị em ta rủ nhau đi đón Mẹ. Bao giờ cũng vậy, những buổi chiều sắp đi vào đêm mẹ ta mới ở chợ về với những chùm dâu mọng nước. Đó là lý do mà mấy chị em ta nhiệt tình đi đón Mẹ hàng ngày. Hôm nào cũng vậy, dù mưa hay nắng, mẹ ta cũng không quên món quà đặc biệt cho đàn con. Như đã thành thói quen, cứ chiều đến, chị em ta tranh nhau đi đón Mẹ về! Quãng đường thật dài, nhưng cũng được cố định cho Mẹ, cho chùm dâu mọng nước. Trời vào tối mà chưa thấy Mẹ,lòng ta lại nôn nao lo lắng. Ta không thiết gì chùm dâu mọng nước nữa mà nỗi lo sợ bỗng dâng ngập tâm hồn bé thơ! Thấy tà áo ai xa cũng ngỡ thầm áo a Mẹ…
Và rồi những ngày cuối đông Mẹ lại cho chị em ta những đôi guốc đẹp, những tà áo mới để chuẩn bị đón xuân. Chiều 30 Tết, ta đã chạy lăng xăng trong xóm để khoe áp mới, rồi phê bình, rồi khen chê, dễ khi về nhà lại bắt Mẹ thứ này, kiện Mẹ thứ khác.
Tuổi nhỏ sao lại ngu ngơ khờ khạo, xấu hổ đến thế! Rồi chị em ta cũng theo thời gian mà lớn lên, lớn lên không nghe nuối tiếc, ngỡ ngàng. Hết bậc Tiều học lại đến bậc Trung học, thời gian vẫn lặng lẽ êm đềm. Bước chân vào ngưỡng cửa Trung học, ta vẫn còn khờ dại lắm. Trời mùa đông chiếc áo trắng lại được vẽ thêm hoa đất đỏ. Cũng những mùa xuân đi khoe áo mới, mùa hạ đi hái hoa  tắm nắng… Ta có biết đâu rằng sắp rời xa tuổi dại. Bốn năm Trung học trôi qua trong những ngây thơ vụn vặt. Mùa hạ cuối cùng ở trường cũ ta mới nghe nỗi buồn len lén đến.Ta thấy có một chút gì nuối tiếc, dù rất mơ hồ. Ta chưa hiểu nỗi buồn từ đâu chợt đến. Ta chỉ thấy sắp sữa rời xa một thứ gì đó thật thân quen, gần gũi. Trường Trung học Triệu Phong từ đó vắng bước chân ta. Niên khóa mới ta lên trường tỉnh. Nguyễn Hoàng rộng lớn quá, ta bỗng cảm thấy cô đơn. Có lẽ nỗi buồn cũng bắt đầu lớn dần từ đó.
Những buổi sáng, buổi chiều chiếc xe đạp và tập vở là bạn thân của ta. Lại cũng có những ngày trời thật đẹp, thật buồn như bây giờ với chiếc xe đạp, với tà áo trắng tung bay trong gió lộng đã cho ta những mơ ước ngày mai. Nhưng những mơ ước đó thực sự không thành khi chiến tranh lần mò về trên đất Quảng! Ta phải vẫy tay chào Quảng Trị trong nuối tiếc ngút ngàn. Thế là ta lại theo gia đình làm thân viễn xứ. Và rồi cuộc đời lại đẩy đưa ta vào chốn cao nguyên xa vời vợi! Tuổi thơ khép lại. Ta chập chững bước vào đời với những chông gai thử thách.
Thôi, giao lại tuổi thơ cho các em, cho lớp trẻ sau này. Ta bây giờ như người say, muốn tìm quên tất cả. Các em đừng bắt chước ta. Hãy sống đi, sống đầy đủ cái tuổi thơ thần tiên ấy, vì các em sẽ không bao giờ còn có dịp níu kéo lại được nếu các em dại dột đánh mất như ta đã từng làm. Bây giờ ta mới nuối tiếc tuổi thơ thì nó cũng thật sự xa ta, có chăng cũng chỉ là những phút giây hoài niệm!
Đưa tay níu lấy tuổi thơ,
Tuổi thơ vụt mất, thẩn thờ ta đau!
Thời gian vùn vụt qua mau,
Ưu tư để lại, ngày sau ta buồn! 
Phú Bổn, tháng 8. 1973- VTT


NGÀY VỀ
 Lê Thị Thanh Hằng
Vài dòng tặng các bạn 6-9/2 K- 67-71

 Tôi bước xuống ga Đông Hà với khuôn mặt đầy mệt mỏi vì chuyến đi dài từ Sài gòn ra Quảng Trị. Nhưng với lòng náo nức muốm gặp lại quê hương  sau 34 năm xa cách, nên tôi nhờ ông Xã mượn xe gắn máy chở tôi về ngay làng Cổ Thành ( tức chợ Sãi). Trên đường đi ông Xã tôi giới thiệu cho tôi nơi này là trường Nguyễn Hoàng, đằng kia là chợ Quảng Trị, rồi chùa Tỉnh Hội, đập Rì Rì…. Mối cảnh vật cứ từ từ hiện ra trước mắt tôi kèm theo những kỷ niệm của thời thơ ấu. lòng tôi lại nao nao, tim tôi như thắt lại khi nhìn thấy những quang cảnh xung quanh. Mọi vật vẫn còn đây, nhưng người xưa thì nơi đâu? Xe chạy qua xóm Hà, cầu Sãi, nước của sông Vĩnh Định vẫn lững lờ trôi với một màu đục chứ không còn trong xanh  vì đang mùa nước lũ. Mái đình làng cũng không còn để rủ bóng rêu phong. Và đây là bến Miễu, nơi tụ lại giữa nhánh  sông Vĩnh Định và sông Thạch Hãn, cũng là nơi chúng tôi thường hò hẹn, vui chơi. Ngày đó quê tôi chưa có điện nên những đêm trăng sáng đối với chúng tôi rất là quý báu.

Đi tiếp một đoạn ông Xã tôi bảo đến nhà rồi. tôi tròn xoe mắt ngạc nhiên nhìn quanh, đây không phải là nhà mình. Đâu rồi chợ Sãi, đâu rồi  cái dãy phố với những căn nhà san sát. Cây đâ, cây bồ đề, ngôi chùa Cổ Thành nơi tôi sinh hoaït gia đình Phật tử nằm ở đâu đây? Tôi hỏi nhưng tất cả đều im lặng. Tôi nghe tai tôi lùng bùng, mắt tôi nằng nặng; ông Xã tôi thấy vậy liền chở tôi qua khu Nghĩa địa chạy ra con đường đất đỏ mà tôi thường đi học. đến khi ông Xã tôi chỉ kia là quận, bên này là trường Triệu Phong, tôi lại càng sững sờ, trường Triệu Phong của tôi đã ngồi miệt mài 4 năm  đấy ư ? Sân trường đi đâu, cái dãy phòng  trong đó có lớp 9/2 của tôi về đâu? Tôi vẫn nhớ trong văn phòng thầy Văn Phong đang ngồi sau bàn Hiệu Trưởng làm việc, quý thầy Hạnh,thầy Hảo, thầy Hóa, thầy Quang… cô Thanh, cô Hoàn đang chuẩn bị lên lớp. Trong lớp 9/2 tôi, Kiệt, Hường, Thuần, ngồi do bài; bên kia có Hường, Hoa, Thủy, làm toán đằng sau các O Nhớ, Tâm, Thạnh bàn chuyện tương lai. Các bạn quê, Hiền, Lâm đứng ngoài sân, còn Bảo,Kim,Ứng, Nọ thì học bài. Bạn Tiễn lớp trưởng chuẩn bị sổ điểm danh. Âm thanh gọi tên như vẫn còn vang bên tai tôi. Nhìn sang bên quận tôi thấy ông lính sĩ quan xấu trai ngày nào theo tôi khi tan lớp đang mỉm cười. tôi giật mình tỉnh giấc khi nghe ông Xã  tôi gọi. Tôi vội ngồi lên xe mà đầu vẫn còn ngoái lại. xin tạm biệt… tôi sẽ trở về…  
Chợ Sãi - 10. 2010 
Lê Thị Thanh Hằng

LỜI CHÀO MỪNG 
VÀ CẢM NGHĨ VỀ BUỔI HỌP MẶT
  Trường Trung học Triệu Phong lần 60-75 ngày 05.12.2012 - tại Khu du lịch sinh thái Tích Tường
 
Kính thưa vị lãnh đạo UBND. huyện Triệu Phong,
Kính thưa các vị khách quý,
Kính thưa quý Thầy Cô giáo,
Thưa toàn thể anh chị em cựu học sinh,
Lời đầu tiên, tôi xin phép thay mặt toàn thể CHS. trường Trung học Triệu Phong cũ kính chào mừng quý khách, quý Thầy Cô đã bỏ chút thì giờ quý báu, về đây tham dự buổi gặp mặt thân mật của 15 thế hệ cựu học sinh trường Trung học Triệu Phong 1960 – 1975 của chúng tôi. Tôi cũng xin thay mặt Ban Liên lạc, chân thành đón chào tất cả anh chị em CHS đã nhiệt tình về với buổi gặp gỡ, giao lưu tại khu sinh thái Tích Tường thơ mộng tại thị xã Quảng Trị thân yêu này. Sự có mặt của quý vị quan khách, của quý Thầy Cô giáo là niềm vinh dự lớn đối với anh chị em cựu học sinh chúng tôi. Sự nhiệt tình tham gia của anh chị em CHS đã thể hiện tình thầy trò cao cả và nghĩa đồng môn đậm đà, gắn bó.

Kính thưa quý khách,
Kính thưa quý Thầy Cô, cùng các bạn!
Trường cũ Triệu Phong chúng ta được khai sinh năm 1960 của thế kỷ trước. Tính đến nay đã tròn 50 tuổi. Tuy trường chỉ tổ chức dạy và học được 15 năm nhưng đã đào tạo cho quê hương Triệu Phong nói riêng và cho tỉnh nhà nói chung những thế hệ học sinh có đủ tri thức cơ bản và đạo đức tốt để tạo đà cho họ vươn lên học thành tài, góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp. Do hoàn cảnh chiến tranh trước đây, thầy trò, đồng môn của trường xưa chưa có dịp tìm đến thăm hỏi nhau, ôn lại những kỷ niệm thân thương của một thời giảng dạy và học tập dưới mái trường xưa. Sau ngày nước nhà thống nhất, do điều kiện làm ăn xa cách nhau, chúng ta cũng không có dịp tìm đến với nhau một cách đông đủ, mà chỉ họp mặt từng nhóm nhỏ theo các địa bàn sinh sống. Cứ mỗi lần lên về tỉnh lộ 4, ngang qua khu vực xóm Bèng thôn Nại Cửu, chúng tôi luôn hướng mắt nhìn về mảnh đất ngày xưa trường Trung học Triệu Phong tọa lạc, vì ngôi trường nầy đã để lại biết bao kỷ niệm thân thương của lớp học trò nghèo chúng tôi gần 50 năm về trước. Vì vậy, sau khi trao đổi ý kiến với quý Thầy Cô và các đồng môn, Ban Liên lạc chúng tôi quyết định tổ chức buổi gặp mặt thân mật hôm nay để đáp ứng lòng mong mỏi của quý Thầy Cô và đông dảo nguyện vọng của anh chị em cựu học sinh các thế hệ.
Mười lăm thế hệ học sinh tính ra có trên sáu ngàn người, nhưng hôm nay chúng tôi chỉ có điều kiện tổ chức gặp mặt các cựu học sinh đang sinh sống tại quê nhà Quảng Trị. Số lượng tuy không nhiều - chỉ trên 400 người, nhưng tình cảm thì rất dạt dào và sâu đậm. Chắc rằng phút ban đầu tái ngộ, nhiều anh chị em rất bỡ ngỡ, vì có cảm tưởng lạ thầy, lạ bạn. Điều đó cũng dễ hiều thôi, vì người học trước, kẻ học sau; có thầy cô về trường thì các anh chị đã ra khỏi trường; và đặc biệt là cả  thầy lẫn trò bây giờ mái tóc đều đã bạc, thậm chí có trò tóc lại bạc hơn thầy!
Thưa quý vị quan khách,
Thưa quý Thầy Cô và các bạn,
Dòng đời cứ thản nhiên trôi chảy, mà chúng ta thì muốn níu kéo thời gian ở lại để ôn bao kỷ niệm êm đềm của ngày xưa thân ái. Hôm nay, đời đã xế chiều, nếu chúng ta không tạo cơ hội để gặp gỡ, thăm hỏi nhau thì e chẳng bao giờ có thể nhìn thấy nhau trên cõi đời này được nữa, vì mỗi năm đều có người lần lượt ra đi do tuổi già và bệnh tật! Với suy nghĩ đó, tuy chúng tôi chỉ tổ chức họp mặt nội tỉnh nhưng một số bạn ở các tỉnh khác như Huế, Đà Nẵng, Tây nguyên nghe tin đã thu xếp thời gian và phương tiện để về dự buổi hội ngộ này. Chúng tôi rất hoan nghênh tình cảm của các bạn và vui mừng mời các bạn cùng tham dự, càng đông càng vui, dù điều kiện tổ chức của chúng tôi chưa được chu đáo. Nhiều Thầy Cô và anh chị em khác nghe tin Cựu học sinh Triệu Phong tại quê nhà tổ chức họp mặt cũng đã gọi điện chúc mừng và gởi quà về tặng cho buổi liên hoan! Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Ban liên lạc CHS Triệu Phong chúng tôi cũng đã cho ra đời ấn phẩm KÝ ỨC TRƯỜNG XƯA để lưu lại những hình ảnh về mái trường, những kỷ vật lưu niệm và viết nhiều kỷ niệm thân thương của một thời cắp sách đến ngôi trường quận, học tập và vui chơi  đầy ắp nghĩa tình. Mong rằng với những khúc tâm tình gởi gắm trong tập sách sẽ được quý khách, quý Thầy Cô vui vẻ đón nhận và chia xẻ. Được vậy thì chúng tôi xin trân trọng cảm ơn, vì điều đó thể hiện sự quan tâm, động viên rất lớn của quý vị dành cho anh chị em đồng môn trường Triệu Phong cũ chúng tôi.
Thưa quý Thầy Cô và các bạn,
Trong niềm vui dạt dào hôm nay, chúng ta cũng không khỏi bùi ngùi, xúc động khi nhắc đến tên, đăng hình ảnh các thầy cô và đồng môn đã ra đi vĩnh viễn không một lời trối trăn, hẹn ước. Lại có những thầy Cô và đồng môn còn ở rất gần chúng ta tại quê nhà Quảng Trị, nhưng do già yếu, bệnh tật nên cũng không thể đến tham dự và chia xẻ niềm hân hoan với chúng ta được. BLL chúng tôi đã tổ chức buổi viếng thăm và tặng quà cho 3 thầy tại gia đình trước ngày chúng ta họp mặt. Thời gian qua, các bạn đồng môn cũng đã đến thăm hỏi, động viên các bạn đang lâm bệnh nặng và gặp cảnh ngộ đáng thương.
 Buổi gặp mặt hôm nay không những thể hiện tình thầy trò, nghĩa đồng môn sâu đậm mà còn nói lên truyền thống tôn sư trọng đạo tốt đẹp của dân tộc. Mong rằng, sau buổi hội ngộ này, chúng ta tìm lại được nhiều thầy xưa, bạn cũ; xem như tìm lại được người thân của gia đình; và tưởng như luôn ở bên nhau, không hề có cuộc chia ly nào khác nữa!!!
 Từ nay… sợi dây thân ái ngày càng được mở rộng và gắn bó, để cho tình nghĩa thầy trò, tình đồng môn càng bền chặt, trọn vẹn hơn! Chúng tôi rất mong được lắng nghe những tình cảm quý báu của quý khách, quý thầy cô, cũng như những cảm tưởng của anh chị em CHS có mặt hôm nay. Chúng tôi xin trân trọng và chân thành cảm ơn sự tham dự và những món quà của quý quan khách, quý Thầy cô và các bạn đã mang đến tặng cho buổi hội ngộ sâu đậm nghĩa tình này! Trong quá trình tổ chức gặp mặt, chắc không tránh khỏi những sai sót, chúng tôi kính mong được thông cảm và lượng thứ. Chúng tôi cũng rất mong sẽ được đón tiếp các vị khách quý, các Thầy Cô và anh chị em CHS Triệu Phong 60 -75 trong lần hội ngộ tiếp theo, dự kiến sẽ tổ chức vào năm 2012 tại quê nhà Quảng Trị thân yêu.
Kính chúc quý khách, quý thầy cô cùng các bạn dồi dào sức khỏe, vui tươi, hạnh phúc!
Trân trọng kính cảm ơn!
 Thị xã Quảng Trị, ngày 05 tháng 12 năm 2010
TM.BLL.TRƯỜNG THTP 60-75
                                                                                              Trưởng ban:
 Nguyễn Văn Quang

LỜI TRI ÂN THẦY CÔ 
 Trong buổi họp mặt đầu tiên trường Trung học Triệu Phong 60-75 ngày 05.12.2012 tại Khu du lịch sinh thái Tích Tường

Kính thưa quý vị đại biểu,
Kính thưa quý thầy, quý cô,
Thưa các anh, các chị cùng tất cả các bạn CHS trường Trung học Triệu Phong thân mến,
Lời đầu tiên cho phép em xin được thay mặt các thế hệ CHS trường Trung học Triệu Phong (1960-1975) xin chân thành gởi đến quý vị đại biểu, quý vị khách quý, quý thầy cô giáo lời chúc sức khỏe và lời chào trân trọng nhất!

Kính thưa quý thầy, quý cô,
Đằng đẳng gần 40 năm xa mái trường Triệu Phong thân yêu, xa thầy, xa cô, xa bạn bè chung trường chung lớp, xa những kỷ niệm thân thương nhất của tuổi học trò.
 40 năm với bao thăng trầm biến đổi, mái trường xưa nay không còn nữa nhưng những ký ức về trường xưa lớp cũ không bao giờ phai mờ, những kỷ niệm luôn hiện về trong nỗi nhớ khôn nguôi. Nhớ cái thưở mà bạn bè nắm tay nhau còn e ngại, xưng hô với nhau cũng bằng những lời mộc mạc chân quê, nhưng sao mà day dứt nhớ thương đến thế! Cái thuở mà có những thằng bạn nghịch hơn quỷ sứ chỉ đợi tiếng trống ra chơi để múa máy pha hề…Tất cả còn đâu!? … giờ chỉ còn lại những hoài niệm của một thời áo trắng!
Thầy cô ơi! Quên sao được hình ảnh thầy cô những năm tháng tận tình hướng dẫn, dìu dắt, dạy bảo, trang bị cho chúng em hành trang vững chắc để bước vào đời, để hôm nay các thế hệ học sinh trường Trung học Triệu Phong có những người đã trở thành Tiến sĩ, Kỹ sư, Bác sĩ…và nhiều nhiều nhiều nữa những công dân thành đạt,  đã cống hiến cho sự phát triển đất nước, cho xã hội và cho cuộc sống. Thời gian có thể làm phôi phai những bóng hình rất đỗi yêu thương, nhưng tình thầy trò thì ngàn năm cũng không thể xóa nhòa đi trong tâm thức!
Công dạy dỗ ân tình sâu nặng
Đạo nghĩa thầy trò mãi khắc ghi!
Kính thưa quý thầy, quý cô,
 Thưa các anh, các chị cùng tất cả các bạn,
40 năm đong đầy nỗi nhớ, mang khát khao và hoài vọng; 40 năm với bao băn khoăn trăn trở!?; không biết thầy cô, bạn bè lưu lạc phương trời nào? Ai còn? Ai mất? Mong có ngày gặp lại để được xiết chặt vòng tay thầy cô bè bạn dù chỉ 1 lần thôi cũng đủ lắm rồi! Khát vọng đó hôm nay đã thành hiện thực. Thầy cô, bạn bè xa cách đã mấy mươi năm giờ gặp lại sao mà nghẹn ngào chẳng nói nên lời. Có ngôn từ nào diễn tả được hết niềm vui!
Cám ơn thầy Nguyễn Văn Quang đã thắp lên ngọn nến, làm đuốc soi rọi đến khắp mọi muôn nơi để có ngày đoàn tụ của hôm nay, để cho thầy cô bạn bè được hàn huyên tâm sự cho vơi đi nỗi mong chờ, thương nhớ bấy lâu nay.
Em xin phép được thay mặt các thế hệ CHS trường Trung học Triệu Phong (1960-1975), xin cám ơn quý thầy, quý cô! Kính chúc quý thầy, quý cô sức khỏe vô biên, gia đình hạnh phúc! Xin thắp  nén hương lòng gửi đến quý thầy cô và bạn bè đã về cõi vĩnh hằng; cầu mong được vãng sanh nơi miền Cực Lạc.
Kính chúc quý vị đại biểu, kính chúc quý thầy, quý cô và các bạn thành công trong cuộc sống! Chúc buổi gặp mặt hôm nay thật vui vẻ và tràn đầy ý nghĩa!
Em xin chân thành cảm ơn!
Thị xã Quảng Trị, ngày 05 tháng 12 tháng 2010
Thay mặt các thế hệ CHS .trường
 CHS.Trịnh Thị Lựu

BÀI PHÁT BIỂU
CỦA THẦY HIỆU TRƯỞNG VĂN PHONG
(Trong lần họp mặt trường xưa lần thứ nhất tại khu sinh thái Tích Tường - Thị xã Quảng Trị, ngày 5/12/2010)

Kính thưa các vị khách quý,
Kính thưa các vị nguyên thầy cô giáo quý mến,
Cùng các thế hệ cựu học sinh thân thương,
Tôi vô cùng hân hạnh được mời phát biểu cảm tưởng với tư cách đại diện các thầy cô giáo trường xưa. Trước tiên, tôi xin nhiệt liệt chào mừng quý vị quan khách đã dành chút thì giờ quý báu đến tham dự buổi họp mặt thân mật của thầy trò trường Trung học Triệu Phong xưa.
Tôi chân thành cảm ơn và kính chúc quý vị khoẻ mạnh và gặp vạn sự như ý! Tôi cũng xin nhiệt liệt chào mừng quý vị nguyên thầy cô giáo và các thế hệ cựu học sinh. Tất cả chúng ta đã không ngại đường sá xa xôi, cách trở khó khăn về đây tham dự buổi họp mặt thân mật. Sự hiện diện đông đủ này nói lên tình cảm quý mến đầy ý nghĩa và vô cùng cao quý. 
Tôi đề nghị tất cả chúng ta cùng nhau vỗ tay một tràng thật to, thật lâu thay lời chào hỏi và chúc mừng nhau để mở đầu cho ngày hội ngộ sau hơn 35 năm xa cách! Tôi lấy làm vui mừng và biết ơn được các đại diện cựu học sinh dâng tặng bảng ghi tạc bằng chữ vàng lòng tôn sư trọng đạo cùng những nắm hoa tươi thắm và lời chúc chân thành tất cả các thầy cô giáo được khoẻ mạnh, hạnh phúc, mong muốn thầy cô sống lại những ngày tuổi còn thanh xuân với cuộc đời tươi thắm nở nụ như những bông hoa xinh đẹp này. Tôi hân hạnh đón nhận lời chúc chân thành và lòng tôn sư trọng đạo ghi tạc trong bảng vàng vừa trao tặng. Nhân dịp này, với lòng tràn đầy niềm vui, tôi xin bày tỏ những cảm nghĩ sau:
“Trong công cuộc tiến hoá của quốc gia dân tộc, lịch sử đã trải qua bao cuộc biến động thăng trầm. Riêng cuộc biến động mà chúng ta đã chứng kiến vào giữa thế kỷ 20 có lẽ vừa dài vừa khốc liệt nhất, nhưng cũng vẻ vang nhất trong lịch sử. Và sau biến động này, nước nhà được hoàn toàn thống nhất, độc lập, dân chúng được yên vui hòa bình. Hầu hết thầy cô, cựu học sinh chúng ta được diễm phúc thoát hiểm, tồn tại, phát triển, và thành đạt. Đất nước đã trở lại thanh bình, an lạc trên 35 năm mà vì cuộc mưu sinh, chúng ta chưa tổ chức được ngày hội ngộ. Tuy mặt chưa gặp mặt nhưng lòng vẫn không xa lòng. Trong tâm trí vẫn luôn luôn gợi lại hình ảnh trường lớp, những tình cảm kính mến giữa các thầy cô, tình cảm thân thương giữa các thế hệ học sinh. Lòng mong mỏi và ước mơ thôi thúc tổ chức được ngày hội ngộ! Ước mơ nay đã trở thành hiện thực, là nhờ những tấm lòng nhiệt tình với quyết tâm cao của đại bộ phận cựu học sinh và các thầy cô giáo tập hợp dưới sự khởi xướng và chủ trì của thầy Nguyễn Văn Quang -là một học sinh kỳ cựu, một thầy giáo và cũng là một trong những vị hiệu trưởng của trường xưa.
Giờ đây, nhân danh đại biểu tất cả thầy cô giáo và các vị hiệu trưởng, tôi nhiệt liệt khen ngợi và đánh giá cao hiệu quả việc làm của Ban liên lạc, thầy Nguyễn Văn Quang và các thầy cộng sự; nhiệt liệt khen ngợi Ban biên soạn đã dày công sưu tầm hình ảnh, tập hợp bài viết của các thầy cô giáo, các cựu học sinh, chọn lọc, sắp xếp, in ấn được cuốn Ký Ức Trường Xưa đẹp về hình thức, phong phú về nội dung; nhiệt liệt khen ngợi quý thầy cô và các thế hệ cựu học sinh đã dành nhiều thời gian viết lên những bài văn, bài thơ sâu sắc về ký ức và hoài bão, sâu đậm về tình cảm; nhiệt liệt khen ngợi thầy cô giáo và cựu học sinh trong và ngoài nước có nhiều hảo tâm đóng góp nguồn tài chính tương đối dồi dào, tạo điều kiện cho Ban liên lạc và Ban biên soạn hoàn thành sứ mệnh.
Cảm nghĩ khác và vài ước vọng:
- Một là, xem buổi họp mặt này mới chỉ là bắt đầu, sẽ còn nhiều buổi họp mặt khác nữa, có thể 1, 2 hay 3 năm một lần tuỳ điều kiện chủ quan và khách quan cho phép, và mong mỏi số thành viên tham dự đông hơn nữa!
- Hai là, Ban liên lạc tiếp tục công việc như đã làm, theo dõi, nắm bắt thông tin về các thành viên gặp rủi ro trong cuộc sống để thăm hỏi, hỗ trợ, giúp đỡ họ vượt qua khó khăn.
- Ba là, cầu mong tất cả thành viên trong đại gia đình chúng ta đều có được cuộc sống:
+ Thoải mái và vui sướng nhất,
+ Chủ động và hạnh phúc nhất.
Đồng thời không quên góp phần xây dựng xã hội nói chung và phát triển hậu thế chúng ta nói riêng, từng đời kế tục vươn lên mãi từng tầm cao mới.
Sau cùng, tôi nhiệt liệt khen ngợi Ban tổ chức đã thực hiện được buổi họp mặt thân mật tại hội trường nơi đây, rộng rãi, thoáng mát và hoành tráng- như ý!
Chúc buổi họp mặt thân mật thành công tốt đẹp.
Hẹn ngày tái hội ngộ!
Xin chân thành cảm ơn!
 Quý thầy: Nguyễn Văn Quang-Trần Văn Kỳ- Văn Phong- Nguyễn Thiện Lữ
Gặp mặt 05/12/2010



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét