Chủ Nhật, 14 tháng 6, 2015

Nguyễn Hoàng Quảng Trị 60 năm... nhiều bài viết


Gồm các bài viết:

- Thầy Lê Hữu Thăng- 20 năm nhìn lại
- Thầy Nguyễn Thiện- Tình Quê hương
- Văn Thiên Tùng- 60 năm ấm mãi tên trường
-Bùi Đức Thu -Như một lời tâm tình
- Hồ Sĩ bình- Từ đây ta biết yêu đời …
- Lê Bá Tâm- Bây giờ vẫn nhớ
- Phan Thị Quỳ- Ôi tên tôi
- Nguyễn Đức Tùng-Mùi của hoa hồng
                      HAI MƯƠI NĂM NHÌN LẠI 
Lê Hữu Thăng                                                                                                                                        
Đó là cái mốc thởi gian lịch sử sinh hoạt của Ái hữu Nguyễn Hoàng/Sài gòn. Một thởi gian khá dài, tập thể anh chị em cựu học sinh NH tại Sài gòn cùng các vùng phụ cận đã hành thành và bước đi với bao nhiêu khó khăn, vất vả. Từ những ngày đầu gian nan cho đến bây giờ, chúng ta đã đồng tâm hiệp lực, cùng cộng hưởng niềm vui cũng như sẻ chia nỗi đau cho nhau. Bàn tay thân ái của Nguyễn Hoàng đã kết nối lại để nâng đỡ những đồng môn rủi ro, bất hạnh. Bàn tay ấy đầy hơi ấm tình người - tình đồng môn, đồng hương và cũng đã làm trỏn một phần nào đạo nghĩa Quân-Sư-Phụ.
Ngày ấy, phần đông anh chị em chúng tôi là những người phiêu bạt, ly hương. Chúng tôi như những cánh chim xao xác sau cơn bão lửa Quảng Trị năm 1972 -1975, rồi cùng hướng về miền đất hứa phía Nam để tìm đất sống.Phải mất hơn 10 năm sau một số người trong chúng tôi mới tạm ổn định cuộc sống nhưng phần đông là sống vất vưởng. Chúng tôi làm đủ thứ nghề để có chén cơm cho gia đình từ nghề xe đạp ôm, đạp cyclo, chạy chợ trời hay bán thuốc lá dạo bên vệ đường. Cái thời thầy giáo thất cơ tháo giầy ra chợ thì sá gì cái việc ngồi lui cui vá, sửa xe đạp ở một góc đường hay sau gốc cây nào đó để kiếm dăm ba cắc bạc lẻ. Bàn tay quen cầm phấn giờ lấm lem dầu mỡ lọng cọng tập chà chà, đập đâp cái ruột xe bị lủng hay gắn lại sợi dây sên bị đứt là chuyện thường tình. Chỉ xót lòng khi nhìn mấy cô giáo hay các nữ sinh ngày nào còn e ấp, thẹn thùng trong tà áo dài uyển chuyển giờ phải tất bật chạy chợ trời, mắt dáo dác liếc quản lý thị trường hay mặt mày hốc hác còng lưng đẩy xe bánh mì, thu dọn chồng chén bát bên gánh bún, cháo rong hay phụ việc trong quán ăn ô hợp. Vì sinh kế hàng ngày, hình như họ không còn nhớ mình từng như thế nào nữa.
Nhưng dù vất vả khi lao vào mưu sinh nhưng khi xong việc một ngày thì phong thái văn hóa Nguyễn Hoàng lại trở về. Chúng tôi đã có những buổi chiều bên nhau nhâm nhi chén trà mà ôn lại chuyện xưa quê cũ; cùng nhau nhắc lại những địa danh lịch sử  và nhiều nhất là chuyện một thời tuổi trẻ NH; chuyện Ngày xưa Hoàng Thị để thả hồn về con đường theo Ngọ trong ký ức mờ xa…
Mơ tưởng và quyết định một buổi Họp mặt NH xuất phát từ bối cảnh đó. Buổi đầu thành hình được một Ban Tổ chức khoảng 20 người. Cô giáo Nguyễn Thị Thanh là người cổ xúy cho việc sum họp NH và cho mượn địa điểm. Đó là một biệt thự ở đường Nguyễn Thông - điểm hẹn cho buổi họp trù bị dầu tiên trong tâm trạng không mấy bình an của chúng tôi. Thật ra lúc bấy giờ có hơi lo vì chúng tôi chưa xin giấy phép hội họp (mà làm gì có phép thời buổi đó). Chúng tôi e ngại lỡ có gì thì liên lụy đến ngôi biệt thự này và làm khổ nhiều người. Nhưng thầy Trần văn Thuấn (phu quân cô Thanh) đã nhiệt tình lo tăng cường bàn ghế và vui vẻ tiếp đón mọi người.
          Buổi họp được tiến hành suôn sẻ dù lòng chúng tôi cứ lo lo. Số người đến dự vượt xa dự định ban đầu - chuẩn bị đón 20 người mà khách đến dự lên tới con số 60. Vui thật là vui dù ban tổ chức rất bị động trong việc lo hậu cần: thức ăn, nước uống thiếu trầm trọng nhưng sá gì đâu, được gặp gỡ để chào hỏi nhau là “sướng” lắm rồi. Khí thế buổi hội ngộ đầu tiên cứ bừng bừng, ai cũng thao thao bất tuyệt. Không thao thao sao được khi ngôn ngữ bị dồn nén gần 20 năm rồi. Sau khi hùng hồn biện luận, lý giải, phân tích những nhu cầu cần thiết, cả 60 trái tim hừng hực lửa NH cùng đi đến một quyết định là phải tổ chức họp mặt vào dịp tất niên 1992 – như một pháp lệnh - dù thời gian chỉ còn 4 tháng.
         Nhưng chuyện tổ chức không phải dễ. Những khó khăn liên tiếp không mời mà đến: Chẳng nhà hàng nào dám nhận hợp đồng đặt tiệc - vì cơ chế lúc bấy giờ đặt tiệc trên 10 người phải có giấy giới thiệu của cơ quan. Túng thế, qua xoay xở anh Nguyễn Cường (chồng của Lê đình thị Thành) đã giúp ban tổ chức hợp đồng đuợc với Câu lạc bộ Quân khu 7, đặt tiệc một món thôi: cari ăn với bánh mì cho 150 người.
         Không có giấy mời cũng chẳng có điện thoại liên lạc, mọi người cứ tìm nhau theo công thức “vết dầu loang” để nối vòng tay hội ngộ.
          Rồi ngày ấy đã đến. Ngày 16/1/1992, Nguyễn Hoàng đã khai hội Họp mặt đầu tiên sau 20 năm mỏi mòn chờ đợi. Từ mọi ngõ ngách; từ các quận huyện của thành phố Saigon đến các vùng phụ cận: Biên Hòa, Gia Kiệm, Thống nhất, Trảng Bom, Cây gáo, Long Khánh, Dầu Giây đến Vũng Tàu, Suối Nghệ và cả đến Hậu Nghĩa, Long An, Cần Thơ, Bình Thuận... anh chị em CHS/NH cùng tìm đến như một nhu cầu khẩn thiết cho nhưng ngày còn lại. Có người đi xe đạp năm, bảy chục cây số để về nơi hội ngộ; có những người đem luôn cyclo, xe ba gác hay cả mấy chiếc xe đạp thồ kềnh càng - phương tiện kiếm sống hằng ngày của họ đến hội trường - như mang đến để triển lãm vậy.
           Cả hội trường náo nhiệt tiếng nói cười; cả tiếng khóc nức nở cùng suối lệ chứa chan. Có người xúc động đến ngất đi khi biết bạn mình đã ở lại Cầu Dài trong những ngày chạy loạn; hay lìa trần trong cảnh ngặt nghèo vì không tiền cứu chữa. Dưới những bộ áo quần sờn cũ là những khuôn mặt phong sương, sạm nắng gió. Những khuôn mặt ấy hết mếu máo hay khóc òa lại cười rạng rỡ; những bàn tay chai sạn siết chặt nhau như không muốn rời. Tuyệt nhiên không hề thấy một đôi giày da hay chiếc guốc cao gót. Đúng là Bắt phong trần phải phong trần/Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
           Ban tổ chức chuẩn bị 15 bàn tiệc. Hết chỗ ngồi rồi… mà anh chị em vẫn còn lẩn lượt vào. Làm sao đây? Ban tổ chức chúng tôi gồm Thăng, Bảo, Vinh, Cương, Tường, Kỳ, Đặng Mừng, Hồ Sĩ Mừng(MC), Cảnh, Hiển, Kỷ, Mỹ Lệ, Mỹ Liên, Kim Loan, Lý...(khoảng 20 người) hội ý đề tìm cách tháo gỡ.
- Xin Câu lạc bộ cung cấp thêm cho khoảng 150 cái ghế, không cần bàn (nhưng CLB không đáp ứng dầy đủ.Thôi đành chịu, 2 người ngồi một ghế vậy).
- Mua thêm bánh mì xíu tăng cường.
- Bia hơi,nước uống thì có Nguyễn Đặng Kỳ, Đặng Mừng cho xe đi chở, uống thả giàn…
            - MC Hồ Sĩ Mừng khô cuống họng mời gọi anh chị em vào hội trường cả chục lần mới khai mạc đươc.
            Cái băng-rôn  HỌP  MẶT  NGUYỄN HOÀNG lúc bấy giờ mới được căng ra,vì chúng tôi xin phép Ban Giam đốc CLB là buổi cơm thân mật thôi …năn ni rồi cũng suôn sẻ… Buổi Hội ngộ thật là sôi nổi, nhiều ý kiến, đề nghị.. không ngoài mục đích xây dựng, nối vòng tay NH rộng rãi hơn, tinh thần tương tế  và với danh xưng: Hội Ái hữu Cựu Học sinh Nguyễn Hoàng/Saigon và mỗi năm tổ chức Họp mặt một lần.
     
             Vạn sự khởi đầu nan, nhất là cơ chế xã hội lúc bấy giờ cùng như cuộc sống của đa số anh chị em phải vất vả kiếm cơm từng ngày. Nhưng sư quyết tâm, nhiệt tinh.. thôi thúc bởi con tim, bởi tình nghĩa NH đã vượt qua tất cả.
            Chúng ta từng lo lắng và tâm tình với nhau rằng khai sinh ra Hội AHNH/Saigon dù khó khăn vất vả nhưng với bầu nhiệt huyết của mọi người thì cũng được chuẩn bị chu đáo và đưa đến thành công. Nhưng cái lo lâu dài là phải có lòng kiên nhẫn lẫn sự sáng tạo và nuôi dưỡng,… để sinh hoat NH ngày một  đoản kết, thăng hoa lại càng khó hơn nữa.
             Hai mươi năm qua. Một chặng đường khá dài. Những mái đầu còn xanh ngày ấy giờ đã bạc trắng mầu sương. Những thế hệ tiếp nối và cả thế hệ sau cùng của Nguyễn giờ tóc cũng đã muối tiêu… Lắm người đã ra đi mà không có người đến thay thế vì người NH chỉ có “hao” đi chứ không “mọc thêm”. Nhưng chúng ta cũng rấthãnh diện là đã xây dựng được một khối Nguyễn Hoàng đoàn kết, thân thương, gần gũi, chia sẻ buồn vui, khó khăn,… và làm tròn đạo nghĩa Thầy trò cho dù tên trường chỉ còn trong tâm tưởng chứ không hiện hữu nữa…
            Tinh thần này được phát huy đến mọi nơi. Ngọn lửa tim Nguyễn Hoàng lan tỏa, ngày càng sáng lên từ Saigon đến Hàm Tân, Đồng Nai, Bà Rịa, Huế, Đà Nẵng và bừng lên nơi quê nhà Quảng Trị.
            Chúng ta có quyền hy vọng ngọn lửa tim ấy còn được thắp lên ở nhiều vùng, miền khác nữa để những cánh chim lạc Nguyễn Hoàng có nơi chốn mà tìm về sưởi ấm đôi cánh rả rời qua bao tháng ngày trôi nổi.

                                                                           Colorado, Thángg 2 năm 2012NH /LHT
                                                                                    
 TÌNH QUÊ HƯƠNG
Nguyễn Thiện

Tháng 6/2011 tôi đến thăm khu “ Resort Memento” của gia đình người bạn tôi nằm ở Diên Hòa. Một vùng ngoại ô Nha Trang. Một cảnh quê thanh bình, êm ả trãi ra trước mắt tôi khiến tôi nghĩ đến làng quê tôi ngày xưa ở Quảng Trị, cũng cây xanh, cỏ xanh với những thửa ruộng mạ mới cấy màu xanh; cũng những cụm tre với những tiếng chim sâu, chim sẻ “Chích chích, chách chách” nhảy nhót trên cành; cũng những hàng cau thẳng tắp, những hàng rào dâm bụt đang đón mời những cánh bướm muôn màu; cũng những cánh chuồn trôi theo làn gió sớm mát dịu, tất cả đã cuốn hút tôi, đã cho tôi những cảm xúc dâng trào: Tôi viết bài thơ “Hồn quê” để tặng khu nghĩ dưỡng của họ:

Một vùng  cảnh trí thật nên thơ
Cây xanh, cỏ xanh, ruộng mạ xanh
Mái tranh, vách đất hương xưa cũ
Gợi nhớ làng quê khí trong lành

Hồn quê ẩn hiện trong từng bước
Trong làn gió thoảng cụm tre xanh
Trong hàng dâm bụt bên bờ giậu
Trong hàng cau đứng, dáng thanh thanh

Hồn quê vang vọng với tiếng chim
Chập chờn tung bay cùng cánh bướm
Hồn quê nương nhẹ cánh chuồn chuồn
Bay đi lan tỏa tình quê hương

Tình quê ngập tràn lòng du khách
Tránh bụi trần ai, lánh phố phường
Về đây tìm nguồn thư giãn
Sống kỷ niệm xưa, phút mến thương

Tình quê hương, do hồn quê mang lại thật sâu sắc, thật đậm đà tha thiết…
…Nó tiềm ẩn trong máu thịt mỗi người, hể có cơ hội là nó bùng phát một cách mạnh mẽ. mảnh đất chúng ta ở, bình thường “Chỉ là nơi đất ở”, nhưng khi ta đi xa thì nó trổi dậy, níu kéo khiến lòng ta luôn luôn hướng về nó, luôn luôn khắc khoải chờ mong ngày về thăm lại “Khi ta đi, đất bổng hòa tâm hồn” (Chế Lan Viên). Tình quê hương là niềm vui, nổi buồn là tiếng cười, tiếng khóc do quê hương mang lại cho ta. Tình quê hương là niềm hạnh phúc, là nổi đau mà ta có được trên mảnh đất quê hương khi ta đang sống. và tình quê hương cũng là những gì ta mang lại cho quê hương để đền ơn đáp nghĩa những gì quê hương đã cho ta …
Quảng trị vào những thập niên 30,40 là một vùng đất nghèo nàn, dân cư thưa thớt. Người dân chủ yếu sống bằng nghề làm ruộng. nhà cửa phần lớn là những túp lều tranh, vách đất, nằm trơ trọi trong những khu vườn rộng, cây cối um tùm. Mảnh vườn là một phương tiện để sinh sống hoặc để cải thiện đời sống của họ. Người ta trồng các loại cây ăn quả như  chuối, mít, khế, mảng cầu, cam chanh, đu đủ.. Những quảng hở giữa những cây ăn quả và trên những khoảng đất trống, người ta trồng rau lang, rau cải, sà lách, bắp đậu…cũng có đôi lúc trồng cá cây công nghiệp như bông, vải, thuốc lá để bán cho con buôn.
Đặc biệt, những hàng cau cao thẳng tắp trước nhà, những cụm tre, những hàng hàng tre quanh vườn cho ta một bầu không khí thanh bình, êm ả lạ thường. Tuổi thơ tôi được sống,được hít thở, được ngụp lặn trong màu xanh của không gian thanh bình, làng quê ấy; màu xanh đã đi vào lòng, đã thâm nhập vào máu khiến  sau nầy mỗi lần tôi đi đến đâu gặp được màu xanh tuổi thơ ấy là lòng tôi rộn lên những cảm xúc, những kỷ niệm êm đềm, hồn nhiên của quảng  thời gian trong sáng ấy.
Ảnh bên: Nhân chuyến hành hương về ‘cội nguồn’ nhân ngày húy giổ “ Song thân” cùng thắp hương tổ tiên ông bà, dòng tộc tại nơi sinh thành làng Bích La. Đại diện gia đình thầy L.H. Thăng có đôi lời đáp từ đến bà con, lối xóm với  tình cảm  trân quý sau mấy chục năm xa quê ..
Tôi nhớ rất nhiều cây khế ngọt đứng ở góc sân nhà, cây khế có tàn lá xanh um, hoa trái chi chít. Thảm hoa màu tím ở quanh gốc cây trong tiết trời se lạnh của những tháng ngay giáp tết, đẹp như trong mơ. Màu tím luyến thương, vị ngọt của trái đã trở thành những nét  đặc trưng của quê hương khiến nhà thơ Đỗ Trung Quân đã ví “Quê hương là chùm khế ngọt”…Tôi nhớ rất nhiều niềm háo hức của những ngày 30 đi chợ tết cùng mẹ, bầu không khí tĩnh lặng của đêm 30 thức đón giao thừa, nghe pháo nổ. Tôi nhớ rất nhiều  những đàn bướm trắng, vàng bay nhỡn nhơ trong ngõ dưới những  lùm tre sáng mồng một. Một bức tranh quê thanh  êm đềm và thơ mộng đã đi vào  ký ức tuồi thơ tôi. Quê hương đã cho tôi những kỷ niệm đẹp, thật lắng đọng và sâu sắc. Quê hương đã cho tôi thưởng thức vị ngọt của tuổi thơ nhưng cũng đã cho tôi nếm vị đắng của cuộc sống dân nghèo ở thôn quê.
Tôi đã sống, đã chứng kiến được cái khổ cực, cái nghèo đói của người dân quê trong những năm 1939-1945. người dân thiếu thốn đủ điều:“Thiếu cơm ăn, thiếu áo mặc, thiếu những đôi dép để bảo vệ đôi chân…Lũ trẻ con chúng tôi tất cả đều đi chân đất với những mảnh quần áo sơ sài, không đủ sưởi ấm trong nhũng ngày rét buốt”. Nổi đau  khổ thêm chồng chất vào  năm 1945, giai đoạn Đồng Minh và Phát Xít Nhật đánh nhau. Tôi đã chứng kiến những chiếc máy bay của Mỹ đến tấn công quân đội Nhật tại Quảng trị. Mục tiêu tấn công là chiếc cầu Ga băng ngang sông Thạch Hãn, doanh trại và những phương tiện vận chuyển của quân đội Nhật. mỗi lần có  tiếng còi báo động máy bay đến là tất cả các gia đình người dân đều xuống hầm trú ẩn, các xe quân sự của Nhật chạy đến núp dưới những rặng tre phủ kín những con đường làng. Trường học bị đóng cửa, chúng tôi những đứa trẻ phải đi học với những Thầy giáo làng, không có lớp cao, chỉ mở đến lớp 3, nên nhiều khi chúng tôi phải học đi, học lại cũng một lớp; học để khỏi quên chữ. Tôi nhớ một buổi chiều vào khoảng 4 giờ, tôi và thằng bạn từ lớp học của thầy giáo Cầu ở thôn Long Hưng về, khi băng qua cánh đồng để về nhà thì tiếng còi báo động bổng hú lên. Chúng tôi vừa lăn mình xuống ruộng lúa thì hai chiếc máy bay ném bom từ phí Đông lao  về phía cầu Ga. Chiếc đầu từ trên cao lao xuống, một tiếng nổ lại phát ra. Hòa nhập  trong không khí ngột ngạt ấy là tiếng súng liên thanh, tiếng động cơ máy bay gầm thét quần thảo bay lượn trên không. Tôi nằm ngửa  trong ruộng lúa, ngước mắt theo dõi máy bay lo lắng sợ hãi… Máy bay quần thảo trong vòng gần một tiếng đồng hồ, rồi bay đi. Tôi đã biết thế nào là lo sợ, là chiến tranh. Tiếp đến là quân Nhật đầu hàng vì 2 quả bom nguyên tử, Cách mạng tháng 8 nổ ra… Cuộc sống hoàn toàn thay đổi, mọi sinh hoạt bình thường nay đang bị ngưng trệ. Mọi người đều ở nhà để theo dõi tình hình và cuộc sống trong những ngày sắp đến…Những ngày này thường có những đoàn người mang cờ đi biểu tình ủng hộ cách mạng; tối đến những anh thanh niên trong làng đến tập họp các em thiếu nhi tập những bài ca cách mạng. tôi cũng là một thành viên hăng hái trong đoàn thiếu nhi ấy. Sản xuất bị gián đoạn. Bữa cơm của người dân đã độn đến 2 phần 3 là khoai sắn, rồi đến lúc sắn khoai cũng không còn để độn. Nạn đói đã đến, tôi đã chứng kiến những đoàn người thất thểu đi xin ăn, những em nhỏ bứt những đọt dứa dại, nhổ những rau má  trong các bụi cây đem nhai với muối cho đỡ đói. Tôi đã thấy những xác người chết vì đói lạnh nằm rải rác dọc đường làng  và trong thị xã.
Ba tôi rời bỏ công việc lui về tham gia cày cấy ruộng vườn. phải mua một cặp bò để cày ruộng. là người con lớn nhất trong gia đình, tôi phải lãnh nhiệm vụ chăn dắt, suốt ngày lang thang hết đồng cỏ này đến đồng cỏ khác, dãi nắng dầm mưa, đã cảm nhận được tất cả những nổi cực nhọc vất vả của các em bé mục đồng. cũng phải thức khuya dậy sớm ra đồng với ba tôi. Cũng phải sống đời sống của người nông dân, cung phải cảm nhận được tất cả sự lo lắng, cực nhọc với nghề làm ruộng: “Vui những lúc được mùa, buồn những khi thất bát”. Nhưng chính những cái   khổ cực vất vả nầy đã hun đúc con người tôi thành một người đầy nghị lực, giúp tôi có được một ý chí vượt khó mảnh liệt sau nầy. Đây là món quà quý giá quê hương tặng cho tôi, một tình cảm quý giá  dành cho tôi để chia sẽ được phần nào nổi đau  khổ, cực nhọc, vất vả của người dân quê. Bây giờ tôi mới thấm thía được câu thơ của  Alfred de Musset một thi sĩ Pháp nổi tiếng ở thế kỷ thứ XIX:
L’homme est un apprenti, la douleur est son maitre.
Et nul ne se connait tant qu’il n’a pas souffert.
( Con người là một kẻ học việc mà sự đau khổ là người thầy và không ai hiểu được mình, bao lâu chưa chịu đau khổ).
Quả đúng như vậy! nhờ sự đau khổ mà ta hiểu được mình cần gì, muốn gì và phải làm gì. Qua những đau khổ cực nhọc mà tôi biết rõ tôi cần gì và phải làm gì để khỏi đói rách, thiếu thốn, để cuộc sống tốt đẹp hơn…
Quê hương đã cho tôi nếm mùi đau khổ và đã chỉ cho tôi con đường đi tới: “Phải tiến lên bằng con đường học vấn”. Tất cả con em Quảng Trị chắc ai cũng đồng ý với tôi về điều nầy. Và đây quê hương đã cho ta những ngôi trường từ tiểu học đến trung học mà Nguyễn Hoàng là con tàu lớn nhất với đội ngũ hoa tiêu tài ba đã đưa những tầng lớp thanh niên ưu tú tiến vào những đại dương tri thức của các đại học và cuộc đời…
Rồi chiến tranh lại đến! một biến cố kinh hoàng ập đến trên mảnh đất Quảng trị thân yêu. Nổi đau đã được đẩy đưa đến cực điểm với “Đại lộ kinh hoàng” của mùa hè năm 1972; với 81 ngày đêm đã biến Thành cổ được xây bằng gạch, dày, kiên cố với chu vi  gần 2.000m đạn bom đã san bình địa; xóa sổ cả một trung đoàn bảo vệ thành, khi triệt thoái chỉ còn 10 người. Tác giả  Crazyinlove trong bài viết về Thành cổ Quảng Trị, có nhắc lại lời phóng viên báo tuổi trẻ ra ngày 26/7/1998 rằng: “ Phải đến bây giờ chúng ta mới được nghe cả một trung đoàn vào giữ Thành cổ, lúc rút ra còn chưa đến một tiểu đội”. Nổi đau đã được đẩy đến cực điểm, với một trung tâm Tỉnh lỵ Quảng Trị đổ nát tan hoang, với người dân thất thểu ra đi, bỏ lại sau lưng nhà cửa ruộng vườn, khóc hết nước mắt. Ra đi với niềm đau chất ngất, ruột héo tim khô. Ra đi tìm đến những vùng đất mới hoàn toàn xa lạ, những nơi xa xôi hẻo lánh để xây dựng lại cuộc sống, ngày đêm lo nghĩ không biết phải làm gì để sống…. nước mắt đã chảy ngày đêm trong những nơi định cư mới nầy…
 Alfred de Musset đã từng xem nước mắt, đau khổ như là điều cần thiết để cảm thông, để sống: “ Pour vivre et pour sentir, l’homme a besoin des pleurs”.( Để sống và để cảm nhận con người cần phải khóc). Chính nước mắt cay đắng vì tài sản đã biến thành mây khói, nước mắt khổ đau vì người thân yêu không còn  đã làm lòng người chùng xuống, quặn đau, cảm thông, chia sẽ đùm bọc lẫn nhau. Tình quê hương đã trổi dậy mạnh mẽ hơn lúc nào hết. những Hội đồng hương Quảng Trị, những Hội Ái hữu Cựu học sinh Nguyễn Hoàng  Saigon, Huế, Quảng Trị, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Thuận… đã ra đời. Tập san “ Hương quê nhà” của hội Ái hữu Nguyễn Hoàng Saigon, tập san  “Nguyễn Hoàng chân dung và kỷ niệm” và tập san “Nguyễn Hoàng Huế” là những dấu tích của tình quê hương. Tất cả đều muốn kết nối thông tin, đều muốn chia sẻ tình người, những con người đã chịu lắm thương đau. Tất cả đều muốn kêu gọi lòng từ tâm giúp đỡ những bà con, những con em còn khó khăn, bệnh tật đau ốm… tất cả  muốn giúp đỡ xây dựng một thế hệ tương lai tốt đẹp hơn. Trong tâm tình đó, những xuất học bổng từ trong và ngoài nước liên tục gửi về giúp cho con em Quảng trị có điều kiện học tập tốt hơn. Tình quê hương thật đậm đà thắm thiết. Đặc biệt, là những xuất học bổng của gia đình anh Lê Hữu Thăng người luôn luôn hết lòng vì quê hương, làng nước và tổ tiên ông bà…Trao học bổng với tất cả tấm lòng thương yêu giúp đỡ, với tất cả sự rung cảm, xúc động của một con người đã từng tãi qua biết bao cay đắng, nghiệt ngã của cuộc đời…Con người cần phải khóc để biết sống và biết cảm nhận. Và anh đã khóc khi trao học bổng cho sinh viên Nguyễn Thị Thu Sâm; con chị Thu Hồng Hải Lăng; Sâm mồ côi cha khi còn bé. Ngày 01/9/2010 tại Quảng Trị, chi Hồng mẹ của Sâm trước lúc lâm chung có một tậm nguyện  là 2 đứa con côi cút của mình con mình  mong sao được quý tổ chức chấp nhận cho một suất học bổng; nhưng đến khi em nhận được học bổng thì chị đã qua đời. Thật đáng buồn! Thật một hoàn cảnh éo le đáng thương tâm.
Ngoài ra,“The Dovefund” một tố chức nhân đạo có tầm cỡ do NH.Nguyễn Khắc Dỏ ( Khóa 1962-1965)  đảm trách. Tổ chức này vốn đem tình thương đến cho cộng đồng tại việt Nam; mà đặc biệt tại Quảng Trị chương trình đã mang đến cho quê hương đất nước rất nhiều khoản học bổng, công trình phúc lợi cho cộng đồng… Và tình quê hương vẫn còn kéo dài, trãi rộng lan tỏa đến các con em của bà con Quảng Trị thân yêu, nơi thành thị hay các thôn làng xa xôi hẻo lánh.
Tạ ơn qua hương đã cho những trái ngọt để ta thấy đời đáng sống. Tạ ơn quê hương đã cho ta những chén đắng để ta biết khóc, biết cảm thông, biết chia sẽ với những người anh em cùng cảnh  ngộ. Tạ ơn quê hương đã cho ta nghị lực để vượt qua những thử thách để tiến đến một ngày mai tươi sáng. Hãy nhìn đời bằng con mắt lạc quan để: “Tình quê hương” ngày một thắm thiết. Những gì thuộc về lá úa hãy cho rơi rụng để lộc non được đâm chồi… Hãy tính trong vườn quê hương có bao nhiêu hoa thơm cỏ lạ, chứ không phải là lá úa rơi rụng: “Count your garden by flowers and not by the leaves that fall”.
Nha Trang, 2012- NT  .
                    
  60 NĂM ẤM MÃI TÊN TRƯỜNG
Văn Thiên Tùng 
*Lần theo trang sử quê hương và dòng họ:
Khi đặt tên Nguyễn Hoàng cho những con đường … và một ngôi trường trung học công lập đầu tiên của tỉnh Quảng Trị vào đầu niên khóa 1952-1953, chắc chắn quý vị sáng lập đã có ý nhắc nhở lớp hậu sinh niềm kiêu hãnh của một địa phương từng là kinh đô khởi nghiệp của Chúa Nguyễn Hoàng, vị tiên vương của một Nguyễn triều kéo dài gần 400 năm với 9 đời Chúa và 13 đời Vua (1558-1945).
Khi được đọc các trang phả tộc của các dòng họ Lê, Nguyễn, Trần, Văn, Võ, Trịnh, Hồ… cùng một số bia, văn tế các làng tại Quảng Trị đều mở đầu bằng câu” các Tiên tổ …vào đây những năm 1558,  trong đoàn tùy tùng hơn 1.000 người từ phương Bắc cùng Đoan quận công Nguyễn Hoàng  vào trấn ải và  khai hoang lập dinh, làng, mở mang bờ cõi, dẹp yên giặc giã… cứ vậy các dòng họ phát triển dần, làng ấp nới rộng khai hóa  những vùng rừng thiêng núi hiểm thành đất đai màu mỡ...  với tên gọi Ngài là bậc tiền khai khẩn; các thủy tổ các họ tiên phong gọi là hậu khai canh…     
* Khi trở về:
Dù ai đó ra Bắc hay vào Nam lần này dân Quảng Trị trở về quê hương chỉ còn đây những làng quê trãi dài với những hầm hào, cọc sắt kẽm gai, nhiều lớp mìn chống tăng, chống người dày đặc, đâu đâu cũng có những bom bi, đạn đẹt … Mỗi lần đi ngang qua thị xã  Quảng Trị là ngỗn ngang những ngôi nhà, nhưng thành trì và những con đường, sắt thép bê tông cong queo gãy gấp…. Đâu đâu cũng đầy rẫy vũ khí , đạn bom chưa nổ đan xen từng bụi lau lách xanh um trên lớp xỉ gạch đổ nát, những vùng chiến địa bỏ hoang nồng nặc thuốc súng và đầy mùi tử khí….những quả bom bi, 79,  mìn … chôn vùi trong lòng đất đang chờ ai đó đụng vào phát nổ… chết chóc vẫn còn là mối đe dọa đến tính mạng con người bất cứ lúc nào… Con người giờ đây phải ra sức lao động để xây dựng lại vườn nhà nơi ở, đường sá để đi lại và san lấp những hố bom, pháo, giao thông hào để phục hóa ruộng nương…; Mong ước hòa bình đã đến, trong cuộc phục sinh dầu đứng vị trí nào, công việc nào, mục tiêu chính là lao động, sản xuất và tạo lập ổn định cuộc sống cho chính mình gia đình và kế cả cộng đồng xã hội...
Những ký ức, những hoài niệm tạm thời đi vào quên lãng, ai nấy đang lao mình vào cuộc mưu sinh đầy vất vả từ hậu quả nặng nề  sau chiến tranh. 
* Từ một ấn phẩm:
Vào một ngày cận tết, bất ngờ thầy Đỗ Tư Nhơn (1) mang đến tặng tôi một cuốn báo tết. Sau một lúc thăm hỏi; Thầy nói rõ lai lịch của cuốn sách này là: “Kể từ khi NH Quảng Trị thành lập hội Ái hữu Nguyễn Hoàng lâm thời  tại Saigon năm tháng 01 năm 1992. Để nay để chào mừng năm mới Ất Dậu - 2005 quý thầy trò Nguyễn Hoàng  tập hợp một số bài biết về  trường xưa- ban cũ về quê hương Quảng trị  để in ấn thành cuốn“ Hương quê nhà”; tập san  khởi đầu thông tin về thầy trò bè bạn; là ngọn lửa của ngôi trường Nguyễn Hoàng một thời tắt ngúm, nay được nhen nhúm lại  lan tỏa đến mọi người lưu lạc khắp nơi, mặc dầu nay trường đã bị chiến tranh chôn vùi giữa lòng phố cũ …
Từ đó chia xa
để lại ngôi trường đầy ắp kỷ niệm
Nhớ và thương
Đàn chim non chao cánh
Xa tổ ấm theo đàn
Bay vút cao giữa trời xanh vời vợi
Khói lửa mịt mờ, đạn bom cày xới
Giữa điêu tàn chim mỏi cánh
 tách đàn tha phương…
Ngàn vạn nẻo biết khi mô hợp lại…
Cũng từ đây thầy cô và bạn bè dần dà được kết nối và đặc biệt trang danh sách các thầy cô bạn bè đồng môn cũ kèm theo địa chỉ và số điện thoại liên lạc. “Hương quê nhà” bật mí biết bao nhiêu câu chuyện; từ lãng quên thành ghi nhớ,… Hình ảnh trường- lớp, thầy cô bạn bè lần lượt trở về  như: Cô Thanh, cô Tránh thầy Bảo, thầy Vĩnh, thầy Sấm và một số bạn hiện đang sinh sống tại SG và các tỉnh trong Nam…
Cứ vậy, những năm về sau, vào độ xuân về có lúc Thầy Đỗ Tư Nhơn, khi thì anh Văn Mạnh mang “Hương quê nhà” đến với quý độc giả NH Quảng Trị. Số nào tôi cũng ẵm 1 cuốn để đọc, nhiều năm tiếp sức phát hành phụ cho Thầy một mảng, chứ ai để thầy mang đi phát hành cũng hơi lỗi đạo… Vào năm  2001 thầy Đỗ Tư Nhơn và anh Văn Mạnh; Thầy  tin rằng, hiện nay Hội NH tại SG có trợ cấp một số quỹ học bổng dành cho con em là NH tại Quảng Trị  có hoàn cảnh khó khăn mà học giỏi, các ACE.NH có con em đỗ vào Đại học hiện đang học tại saigon cần sự trợ giúp thì gửi bản phô tô hoặc các giấy tờ liên quan, để minh chứng là học sinh NH, sau đó gửi vào Hội AHSG xem xét để cấp học bổng, mỗi năm vào đợt họp mặt đầu xuân, đây là tấm lòng nghĩa tình của Nguyễn Hoàng…
Quý thầy cô cũng như các đồng môn Nguyễn trong đó thường kể về Long Hưng là nơi có học sinh học Nguyễn Hoàng tương đối nhiều, vì Long Hưng là cửa ngõ tây nam tỉnh lỵ Quảng Trị, lại có ngôi trường Tiểu học Long Hưng được thành lập những năm 1949, đây cũng là ngôi trường khu vực, trường có nhiều thế hệ học sinh từ xã Hải Trí, một số khu, phường Thị xã Quảng trị, Cầu Lòn, An Thái, Đại Nại, La Vang chính -Trung- Hạ, các khu gia binh Vũng Thành- cát ông Thất …Từ năm 1949-1975  đã có gần 500 học sinh đỗ vào trường Trung học Nguyễn Hoàng; một con số không ít so với một làng có số dân trên dưới 1.700 người. Thông tin nào liên quan thầy cô- trò Nguyễn Hoàng Thầy và anh Mạnh cũng tin báo chia sẻ đến với CHS.Nguyễn Hoàng Quảng Trị; trong đó có Long Hưng. Mặc dù hiện nay số ACE.NH các thế hệ hiện còn sinh sống trong làng rất ít.
Năm 2001 nhận được thư mời do Hội ái hữu NHGS  gửi thư mời kèm theo danh sách 7 sinh viên tại Quảng Trị được cấp HB năm 2005 này, HB sẽ phát vào dịp họp mặt đầu xuân và nhờ anh chị thông báo giúp đến các phụ huynh có danh sách kèm theo, BTC chọn con anh chị là Văn Thị  Hồng Hà  thay mặt 7 SV phát biểu cảm tưởng đợt này…
* Câu chuyện về một lá đơn:
Tại Quảng Trị chưa có lần gặp mặt nào với danh nghĩa là CHS trường. Mỗi khi có cuộc gặp  mặt các gia đình NH Huế hoặc Đà Nẵng thì thầy Nhơn cùng anh Mạnh, anh Lớn, Ngữ ... thông tin cho một số ACE.NH hiện ở Thị xã Quảng trị và Đông Hà  biết để vào tham dự. Từ những buổi họp mặt này tình cảm thầy trò Nguyễn Hoàng tại Quảng Trị ngày càng thấy gần gũi hơn… 
Một buổi sáng kh tôingồi chuyện trò tại nhà thầy Đỗ Tư Nhơn, 2 thầy trò ngồi nhắc lại kỷ niệm thời trường tại Non Nước- Đà Nẵng và về một số bài viết và địa chỉ của ACENH trong tập “Nguyễn Hoàng chân Dung và kỷ niệm” do NH Võ Thị Quỳnh tập hợp in phát hành cuốn đầu tiên; đồng lúc  anh Lê Thiện Ngữ  bước vào và nói: “Tối qua Thầy Thăng điện về rất lâu, tâm nguyện thầy là có được một lần họp mặt để mời Thầy cô, các CHS khắp nơi về dự trước là để thăm lại quê hương  sau nữa thầy trò, ban bè sống lại tuổi học trò mà thời gian qua như đã b ngủ quên…  Trường mình là một ngôi trường  trung học công lập duy nhất được thành lập đầu tiên của  tỉnh Quảng Trị.  Cũng từ đây có không biết bao học sinh Nguyễn Hoàng Quảng trị  đã từng thành đạt trên mọi lĩnh vực khoa học, văn hóa và xã hội và đa phần hiện đang phục vụ cho tỉnh nhà, thôn xã chúng ta…  
Qua câu chuyện và ước nguyện của Thầy nghe cũng thấu tình đạt lý. Nhưng giờ ai đứng ra viết đơn xin phép tổ chức để trình với chính quyền về nội dung, mục đích buổi họp;  nói nghe dễ nhưng bắt tay vào thấy khó... Ai chịu đứng tên…Việc này người đứng tên phải là thầy cô hoặc là học sinh thuộc lớp tiền bối mới đủ uy tín để sau này khi mời Thầy cô và CHS đến dự nữa chứ!, nếu như khi đó đơn đã được chấp thuận…câu chuyện  cũng chỉ dừng nơi đó…
…tháng (8/2006), một hôm anh Lê Thiện Ngữ đi chiếc xe 79 đến nhà chơi trên tay một tập giấy đánh máy dày cộm và nói:
-Tùng ơi! Việc làm đơn xin họp mặt đã đánh máy thành 6 tập đây rồi, Tùng đọc kỹ đi, nếu không ngại gì thì ký cho mấy chữ... Cần có chữ ký nguyện vọng của ACE.CHS các thế hệ nữa mới hợp lệ! Thầy Nguyễn Viết Trác và anh Nguyễn Lớn ký rồi…
- Tôi liền đáp lại:
- Anh cứ để đó đi, anh em mình ngồi chơi, uống trà đã rồi ký cũng được;
Nhanh thôi mà.
- Cầm xấp đơn dày cộm tôi mừng thầm, đọc một hồi nội dung thỉnh nguyện của Thầy Trác và anh Lớn  rất chí tình và tất nhiên là đã có người ký vào đơn rồi…
- Tôi rút cây bút ở túi anh Ngữ hý hoáy tập ký một lúc sau đó mới ký thẳng vào đơn rồi đề nghị.
 - Anh Ngữ ơi! Em thuộc thế hệ áp út, ở Long Hưng CHS.NH Nguyễn Hoàng rất nhiều, hiện giờ thế hệ đàn anh ở đây vẫn còn một số anh rất có uy tín. Nếu nhất trí, người tiếp theo em xin giới thiệu là anh Văn Mạnh, anh có biết nhà không nếu không biết nhà thì anh chở em đi đến nhà anh Mạnh,
Ai chứ anh Mạnh sẽ sẵn sàng ký ngay.
-Anh Ngữ nhất trí ngay, anh hỏi nhà ở đâu, rồi trả lời rằng: “Anh tự đi một mình cũng được…”.
Câu chuyện là đơn là vậy.
Tháng 6/2007 anh Nguyễn Lớn bảo đơn được chính quyền đồng thuận y đơn đã  ký rồi, giờ ta bắt đầu chuẩn bị  kẻo qua mùa mưa lụt bão trở ngại lắm
 Qua 2 tháng  chuẩn bị  mọi thủ tục được BLL lâm thời bàn bạc, cử người phát giấy mời đâu vào đó, theo đơn khoảng 180 người có mặt, nhưng khi tổng hợp danh sách đăng ký lên đến gần 400; BTC trình bày với chính quyền  về sự thay đổi và được chấp thuận… 
Và những ao ước chờ mong đã đến, ngày 04/8/2007 tại sân trường xưa trong không khí oi bức của những ngày “nắng tháng tám nám trái bòng” đã rộn ràng tiếng chào mời thăm hỏi, những cái bắt tay nồng m đã nhen nhúm lửa Nguyễn Hoàng bừng dậy. Đại biểu chính quyền, Thầy cô cũng đến tham dự  đông đủ, rộn rã tiếng chào hỏi và vui cười trong bữa tiệc đoàn viên với những món ăn thân quen ngọt vị hương quê. 32 năm rồi còn gì, tất cđều đổi thay, thầy trò tóc đã bạc phơ…,nhưng ký ức vẫn như chất đầy không bao giờ phai mờ phải không?  Trời tháng tám Quảng Trị bổng  sầm tối lại, những giọt ngâu theo gió Lào chuyển mùa dần nặng hạt … Chắc tại ý trời  thay lời tạm biệt…phút giây gặp gỡ tuy ngắn ngủi ngầm ẩn chứa những điều chưa nói hết, công tác mới lần đầu chắc còn có nhiều thiếu sót nhưng chẳng có ai than vãn gì...  mà còn những điều ẩn chứa qua mắt nhìn  luyến tiếc ,  tay nắm tay nhưng chẳng muốn lìa xa  kỷ niệm một thời  nhiều nhóm còn tổ chúc tiệc nhẹ hậu họp mặt đâu đó nơi cái thị trấn nhỏ nhoi, nơi tiền  phương của một thời chiến tranh đầy máu lửa ... ri cũng phải chia tay hẹn lần sau nhé

Ba mươi mấy năm hơn nửa kiếp sinh
Lưu lạc muôn nơi
Nay hợp lại giữa ánh chiều
Ới ơi! ới a chuyện kể …
tóc điểm sương mai
Những tiếng cười câu nói rộn rã thay
…………….
Thầy trò chia tay trong hạnh phúc
Pha lẫn vạn nổi buồn!!!
* Lửa Nguyễn Hoàng  tỏa  ấm đó đây:
Từ bước khởi đầu Hội ái hữu NHQT tại Saigon hình thành vào năm 1992, năm 2005 Gia đình NH Huế, đến Quảng Trị, Đà Nẵng,  Hàm Tân, Đồng Nai và Bà Rịa Vũng Tàu, rồi đây sẽ đến… và một số liên trường hoặc cả bên kia bán cầu… ở đâu  có thầy trò Nguyễn Hoàng ở đó nghĩa tình Nguyễn Hoàng được nhen nhúm. Lửa Nguyễn Hoàng cứ thế lan dần…
Những ký ức một thời, những hoài niệm, hình ảnh lưu niệm, tình hình cuộc sống vui buồn đó đây lần lượt theo cánh thư, Email, điện tin và bài viết đều được sẻ chi lan tin trên các ấn phẩm “Nguyễn Hoàng Những ngày xưa thân ái”; “Hương quê nhà”; “Hương quê”, “Nguyễn Hoàng”; “Nguyễn Hoàng chân dung và kỷ niệm” của  NH.Võ Thị Quỳnh; tập thơ đồng vọng của GĐNH Bà rịa - Vũng tàu; tập thơ “Mừng đám cưới vàng” của Thầy Thị và cô Nhạn,…; Những trang web, blog và Email. Các trang NH.Võ Văn Hoa, Văn Thiên Tùng-Hương Thời gian, Đoàn Minh Phú, Nguyễn Hoàng Sg, Nguyễn Hoàng 6471, NH Nam-Bắc Ca-li, Võ Đinh Đoan, Chuyển Luân, Nguyễn Khắc Phước, Đinh Thị Quang Tuyết, Kế Thế, Trần Hào, Nguyễn Thị Thu Sương, Mỹ Ngọc, Đinh Thị Hiệp, Hoàng văn Chẩm, Nguyễn Tường, Đinh Trọng Phúc…(4) chuyển tải hơi ấm bằng những bài viết, chuyển kể, hình ảnh, kỷ vật, lưu bút ác thông về sức khỏe, những trang thư tình cũ và chuyện vui-tin buồn,kinh nghiệm của cuộc sống, những buổi gặp mặt, những chuyến về quê với bao kỷ niệm một thời…
Ngoài ra, nhờ có internet  nên  bây giờ hầu hết các thầy cô, ACE NH đều biết sử dụng và có Email riêng mình; chỉ cần ới nhau một cái là  đã có trên 100 Email được gửi nhằm  hỏi han, chuyện trò qua lại rất  thuận tiện, sự kết nối nhóm khóa càng thêm đông…
Từ đây hoạt động nghĩa tình, công tác tương tế đối với gia đình Nguyễn Hoàng được nâng lên, những điều cần được sẻ chia sẽ ngay tức thì gia đình Nguyễn Hoàng đó đây xót thương có thể gọi coi là: “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”…; chính những cốt cách đó là hành trang để học trò mang theo trang bị cho tư duy cuộc sống và bao giao tiếp đời thường từ những trài tim nhân ái. Ngọn đuốc là hơi ấm tỏa sáng, âm ỉ trong từng tâm hồn mọi khi mọi lúc…khởi đầu, năm 2001 HAH.NHSG đã vận động gây quỹ cấp học bổng cho nhiều con em NH tại Quảng Trị học giỏi gặp hoàn cảnh khó khăn và tạo quỹ tương tế liên tục từ năm thành lập đến nay; như trường hợp CHS.NH. Lê Đăng Châm qua thư kêu gọi của khối lớp các Thầy cô và ACE NH sau 1 năm đã chung tay góp quỹ đã xây dựng ngôi nhà trị giá gần 44 triệu đồng , chưa tính các vật dụng gia dụng khác được đồng lớp trao tặng
*Từ các Email tôi nhận:
…Từng cọng rơm vàng ánh
                Xây tổ ấm thân yêu
                       Tình Nguyễn Hoàng gắn bó
Tay trong tay sớm chiều-
                                              Q.Tuyết
                   …Góp phần giúp đỡ Đăng Châm  
                Cũng là bè bạn mà răng cực nhiều?
            Thương bạn nhà cửa tiêu điều
                      Xúm nhau đóng góp nhịn tiêu để dành
                              Quỹ này tổng kết cuối năm
                                          Đủ tiền tu bổ căn nhà của Châm.
                                                                        - VT
- Và ...Dù chưa biết mặt bạn LĐC mình cũng xin "góp gió"với…
                                                              NH Chi Lan Buôn Mê Thuộc.
- Lạy trời xin cho ước nguyện này được trở thành hiện thực, để mái ấm tình thương NGUYỄN HOÀNG lan tỏa trong ngôi nhà được nâng cấp của gia đình NH Lê Đăng Châm …Một lần nữa…tha thiết xin :đã  đến lúc chúng ta thực hiện TÂM TÂM KẾT NỐI nhé… Kính chúc Thầy cô và Quý bằng hữu bình yên và sức khoẻ. 
                                                  Thay mặt một số bạn lớp 10C- 1970-1972
                                                                            - Hoàng Thị Thi Tuyết.

- Và đây câu chuyên khác tự quê mình: 

….Xứ miềng Quảng Trị tâm đòn gánh
Nặng trĩu đôi vai gánh vạn đời…
Năm 2009 con bão số 9 đã gây thiệt hại nặng nề cho Quảng trị. Nguyễn Hoàng khắp nơi ới nhau góp tay chung sức đồng hướng về NH quê nhà đang găp thiên tai, qua 2 tháng ới -a …NH tại Quảng trị tổng nhận được 68,5 triệu đồng;  thông qua việc cứu trợ BLL cùng ACE NH thiện nguyện đi khảo sát thống kê thiệt hại, lập danh sách công khai 137 trường hợp cần được giúp đỡ; mỗi suất từ 500.000đ đến 300.000đ.
Thường khi, hễ nghe tin đâu đó có vấn đề cần trợ giúp thì các NH đó đây tin cho nhau tùy trường hợp, tùy hoàn cảnh mà khối lớp, cá nhân tùy tâm ghi danh để gửi đến nhờ trao tặng đến các ACE NH bệnh tật kinh niên trong những năm qua như trường hợp các NH: Lê Thị Mai(2)  tại Xóm Hà, Hồ Thị Liễu(3) ở Cổ Thành, Nguyễn Hoạt K-61-68, Bùi Duy Khoa 52-58 ở Trà Liên; Lê Khuyến ở Nhan biều 1, Đinh Thị Quang Hoa ở Đông Hà, Võ Thủ ở Nại Cửu, Nguyễn Hòa ở An Mô…, cùng nhiều trường hợp khác nữa…
Ngoài ra, còn có những sinh hoạt từ các khóa lớp, bạn bè cùng nhau thăm viếng, hỏi han qua lại với nhau. Đúng là là vì một mái ấm Nguyễn Hoàng thân yêu, đúng là những cảnh ngộ đáng thương và không ít cảnh đời đáng được giúp đỡ. Một việc làm nghĩa tình rất đáng được lưu đời gởi thế. Thầy Hiệu trưởng Thái Mộng Hùng tuổi cao sức yếu vẫn đến dự họp GĐNH Đà Nẵng không ngờ đây là lần họp cuối cùng, thầy Nguyễn Viết Trác đến lúc sức tàn, lực tận vẫn đứng tên trình đơn thỉnh nguyện chính quyền để tổ chức họp mặt GĐNH tại Quảng Trị lần đầu tiên 04/8/2007, thầy Lê Văn Quýt tuổi đã cửu tuần nhưng vẫn bươn ba vào dự họp họp gia đình NH BRVT 26/6/2011 cho được; sau khi dự về thầy thọ bệnh.  Lại thêm một cây đại thụ NH ra đi;  Và rất nhiều NH đã dang tay góp của nhưng xin cho hai chữ vô danh, nhiều NH tự nguyện vác TÙ VÀ hàng tổng và lắm anh đến sức cùng lực tận như: NH.Lê Văn Chánh, Tạ Nghị Lễ, Tạ Quang Trung, Hồ Ngọc Tố là những nhân tố tích cực đóng góp nhiều công sức  nhen lửa ấm Nguyễn Hoàng; NH.Lê Văn Chánh bản thân bị đau tim nhưng vẫn tham gia hoạt động với  gia đình NH Đà Nẵng,…
Dốc tâm vì một mái trường; quý Thầy Cố hiệu trưởng Thái Mộng Hùng, cố  GS Lê Văn Quýt,  Lê Hữu Thăng, Nguyễn Bảo, Hồ Ngọc Thanh, Nguyễn Văn Tuấn, Nguyễn Văn Hóa, Nguyễn Văn Thị, Hoàng Đằng, Đỗ tư Nhơn, Hồ Thế Vĩnh, Trần Kiêm Đoàn…tuy tuổi đã cận kề thất bát tuần nhưng vẫn thường xuyên bên cạnh học trò, có mặt trong các lĩnh vực hoạt động của trường xưa trò cũ…còn đây lắm khối khóa   như NH 6471, 6673…khi nào cũng có nhau và còn nhiều cô cậu học trò việc nhà, việc cơ quan, việc hội đều chu toàn đó là: NH Nguyễn Văn Trị, AC Phái -Mai, Nguyễn Đặng Kỳ, Nguyễn Trình, Lê Bá Tâm, Nguyễn Đặng Mừng, Lê Thị Mỹ Liên, Quang Tuyết, Lê Văn Chương, Trần Văn Hảo, Trần Đình Đoan, ACThúy An, AC Tường Sâm, Nguyễn Xiễn….; Liên Hưng, Bành Phi Lân, Lê Cao Đảm…; Nguyễn Lam, Trương Tuyến…; Hoàng Trạch Thạnh, Quỳnh Thủy, Khắc Phước, Bích Hường, Lê Thị Ba…; Nguyễn Đăng Am….; Nguyễn Lớn, Nguyễn Hữu Hiến, Văn Mạnh, Lê Thị Dũng, Anh Nguyễn Hữu Hiền, Nguyễn Sừng, Nguyễn Hữu Hoàng…; NH xa xứ như  các ACE: Cái Hữu Sáu, Lê Mậu Sức, Phan Văn Bồng, Quỳnh Hoa, Nguyễn Thị Mười, Trương Công Thắng,… đặc biệt là quỹ Hương quê nhà khi nào cũng đảm nhận mỗi xuất tương tế từ 500.000 đến 1 triệu đồng do AC Phái Mai điều hành trong mấy năm qua.… còn nhiều nhiều nữa không sao biết hết tên mọi người... Tất cả quy chung đồng chung sức, dang tay thắp nến Nguyễn Hoàng  ấm mãi, ấm đều mọi lúc, mọi khi...
- Cũng  từ các Email:
Đã ba mươi mấy năm rồi
Mà tình trường cũ vẫn ngời ngời xanh
Vui thay câu hát lá lành...
Ấy lời ru mẹ vẫn vành vạnh trăng
Dù đời chẳng "Với" vĩnh hằng
Nguyễn Hoàng vẫn cứ hoa đăng sáng trời
Ơn thầy- nghĩa bạn cao vời
Làm sao nói hết mấy lời sẻ chia?... 
                                  Liên Hưng
 *Sự khởi nguồn và tên gọi  “Quỹ học bổng Nguyễn Hoàng”
- Từ một ước nguyện:
  Đúng là 33 năm bây giờ học trò mới gặp lại Thầy  tại buổi họp mặt Nguyễn Hoàng Quảng Trị đầu tiên ngày 04/8/2007. Ngày ấy tôi trong đoàn công tác Thanh niên Hồng Thập Tự Quảng Trị. Phải nói rằng với số lượng 35 đoàn sinh nhưng hầu hết chúng tôi đều là học sinh Nguyễn Hoàng;tuổi đời từ 15 đến 18 tuổi đều hăng say nhiệt tình, vô tư sinh hoạt Hội không biết mệt mỏi. Và Thầy Lê Hữu Thăng đến với chúng tôi không những là người Thầy của Nguyễn Hoàng mà là huynh trưởng đáng kính trong tổ chức Hồng Thập Tự Quảng Trị mà về sau thầy còn là Đại diện HTT liên tnh Nam miền trung. Chính đợt cấp phát hàng viện trđể giúp đồng bào Quảng Trị hồi hương sau khi hiệp định đình chiến đwọc ký kết xem như  là đợt cuối cùng thầy trò- huynh đệ chia tay từ năm 1974  đến nay mới gặp.
 Bao nhiêu chuyện cũ vơi dần đến chuyện lúc này  là giúp Thầy thực hiện một ước nguyện nho nhỏ giúp đỡ bà con quê mình…; “dân HTT với nhau cả mà” chắc em cũng không từ chối phải không? Đến dịp về quê khánh thành nhà thờ gia tộc và thắp hương ông bà vào dịp tết Canh Dần (2010); Thầy tâm sự :  ‘Mỗi lần về thăm quê nhìn bà con lối xóm, họ hàng đang lao động đổ mồ hôi trên cánh đồng.  Thầy liên tưởng đến những ngày thơ  ấu của mình được cắp sách đến trường cũng trong hoàn cảnh vậy đó…Sau bao năm cật lực làm “cu- li” xứ người, nay có một ít  đồng lương hưu, bấy lâu dành dụm, đồng thời con cháu  trong gia đình tán thành nguyện vọng ông bà, nên Thầy cô có ý định thành lập một chút quỹ nhằm bảo trợ cho con em Họ, làng ở quê học giỏi gia cảnh khó khăn khi đậu vào đại học; 2 năm qua Thầy có nhờ em Quỳnh Thủy ở Đà Nẵng giúp tìm kiếm điều hành và đã giải quyết cho 4 sinh viên rồi. Hiện giờ Quỳnh Thủy vì ở Đà Nẵng cho nên việc ra vào Quảng trị bất tiện; vì vậy, Thầy nhờ các em ở quê gần gũi bà con, điều hành mọi việc chắc dễ dàng hơn…
Nguồn quỹ này tuy khiêm tốn nhưng ít nhiều nó sẽ đồng hành cùng với cha mẹ sinh viên tiếp sức tăng niềm tin cho các em vững tâm theo học và  giảm bớt gánh nặng đối với cha mẹ…”  .
* Đến việc thực hiện:
Những năm đầu thiên niên kỷ đến 2006 với nguồn quỹ khiêm tốn, cứ mỗi độ tết đến Thầy nhờ người giúp tìm sinh viên học ở Saigon mà khó khăn đặc biệt, cấp ít tiền xe để có điều kiện về quê ăn tết; Ở Huế thì thuê phòng cho sinh viên ăn ở miễn phí… những cách giúp đỡ này đều bế tắc vì không thiết thực.… Năm 2009- từ NH.Quỳnh Thủy đã điều hành từ 4 - 5 em thuộc họ, phái làng Bích La Thượng và Bích La Đông; thầy thiết thực hơn… 
Từ ý tưởng đó và nhóm thiện nguyện ra đời  được sự hợp lực từ những cô cậu học trò Nguyễn Hoàng  tại Quảng Trị, cùng với BLL tiến hành tìm kiếm những sinh viên  khó khăn có đủ tiêu chuẩn đã  quy định rồi lập danh sách; khảo sát. Nếu đạt tiêu chuẩn  hướng dẫn cho lập hồ sơ chuyển qua Thầy xem xét quyết định mức học bổng toàn phần hay bán phần; sau đó đến đầu năm học mời  sinh viên cùng gia đình đến nhận học bổng. Học bổng có tên gia đình  ông bà Lê Hữu Thăng bảo trợ. Sinh viên được cấp suốt thời gian học tại 2 đại  học Huế và Đà Nẵng nếu sinh viên nào I phạm đương nhiên ngừng cấp. Tính đến  cuối năm 2011  đã có  3 gia đình bảo trợ và 18 sinh viên được cấp;  năm 2011 có 2 em đã tốt nghiệp và đã trở thành cô giáo... Giờ đây Quỹ bảo trợ được hình thành. 
*  Đáng được mang tên:
Đa phần các em tuy gia đình nghèo khó nhưng quyết tâm vượt lên số phận, điểm học tập kết quả đều đạt khá và giỏi; Điều đáng kể là SV Lê Minh Niên ĐHYD - Huế, con anh Lê Hóa ở Triệu Ái đạt  điểm 8,48 liên tuc nhiều năm học; SV Nguyễn Thiện Minh  ở Hải Thượng đạt điểm 8,83 …Những năm về sau số SV từ khá lên giỏi tỷ lệ cao, đó là điều đáng mừng;  chưa có em nào bị lưu ban hoặc đạo đức yếu kém. Đây là kết quả bước đầu  tạo niềm tin tuyệt đối đến với sự quan tâm của quý Mạnh Thường quân, quý Gia đình bảo trợ, BLLNH; làm vui lòng cho Họ tộc, Thôn làng  bà con cũng như ACE trong nhóm thiện nguyện đã và đang đồng hành cùng các sinh viên chắp  bước cho nhưng cây đời xanh tốt. Rồi đây các em sẽ là những Bác sĩ, kỹ sư, nhà giáo tương lai phục vụ quê hương đất nước với tâm hạnh sáng ngời.
Quỹ bảo trợ đã tạo dáng nên hình. Tại buổi phát học bổng đầu kỳ vào ngày 01/9/2010;  với sự có mặt quý vị quan khách, quý BLL.NH. Quảng trị, Huế và Đà Nẵng, các thành viên trong nhóm thiện nguyện, các gia đình và sinh viên được cấp học bổng. BLL Nguyễn Hoàng tại Quảng Trị chính thức tiếp nhận điều hành chương trình học bổng của quý gia đình do thầy cô Lê Hữu Thăng  đại diện chuyển giao với tên gọi mới là  “HỌC BỔNG NGUYỄN HOÀNG QUẢNG TRỊ”
Sau khi bàn giao chương trình xong, đại diện các nhà bảo trợ Thầy tâm sự: “Vậy là  tôi đã thực hiện được một phần ước nguyện mà bấy lâu cứ hoài trăn trở. Bên cạnh BLL, quý ACE,  Tôi nguyện sẽ là Mạnh thường quân tiên phong, tiếp tục vận động mời các  MTQ tham gia bảo trợ để duy trì nguồn quỹ và chương trình cứ vậy tiếp tục vươn tỏa góp phần cùng công tác khuyến học khuyến tài ở Quảng Trị quê mình”.
* Một chặng đường:
Hai mươi ba năm 4 lần chuyển dời và 60 năm trường mang tên. Dẫu rằng  20 năm ngôi trường chính bị vùi chôn trong đống gạch vụn ngỗn ngang nhưng cổng trường mãi là âm vang trong mỗi trái tim thầy trò Nguyễn Hoàng, vẫn đồng hành bên nhau tồn tại và  theo dấu thời gian…Khi từng cây đại thụ, từng bóng bạn bè lần lượt trờ thành đóa hoa vô thường nhưng những hình ảnh, những bài viết và những cuốn sách xem như kỷ vật vô giá để con cháu tự hào về : “ MỘT NGÔI TRƯỜNG  NHƯ THẾ”.
Những dòng lưu ký này học trò mạo muội ghi về những sự kiện những hoạt động thời gian qua trong nghĩa tình thầy trò bè bạn. Có điều gì thiếu sót kính mong quý Thầy cô, quý đồng môn và bạn bè cùng bổ sung xem như cùng góp lửa để tên trường ấm mãi với thời  gian.

 Quảng Trị tháng 3/2012
VTT- K 67-74
CÓ MỘT HỘI ÁI HỮU
NGUYỄN HOÀNG NHƯ THẾ!
Nguyễn Văn Tr
 
Ngày 24 tháng 6 năm nay đánh dấu một sự kiện trọng đại của đại gia đình NH chúng ta: kỷ niệm 60 năm ngày thành lập trường (1952-2012).
Và đây cũng là năm gia đình NH Sài Gòn  kỷ niệm 20  năm thành lập  Ban Liên lạc Cựu học sinh NHSG (1992-2012).
Bà con NH muôn phương đang nôn nao trông chờ ngày Hội 60 năm Nguyễn Hoàng tại quê nhà Quảng Trị với muôn vàn thương mến.
Thưa quý thầy cô & anh chị em đồng môn,
Xin hãy cùng người viết điểm lại một vài chặng đường lịch sử: 
Mùa hè 1972, quê nhà Quảng Trị  tan thành bình địa,  trường xưa sụp đổ,  thầy trò bè bạn  lưu lạc muôn phương. Năm 1975 chiến tranh chấm dứt. Trường cũ cũng không còn tên. 60 năm so với bề dày lịch sử của đất nước không phải là dài, nhưng 60 năm là điểm xuất phát và quay trở về của một kiếp nhân sinh. Dù ngôi trường mất dấu tích trên mặt đất từ lâu, nhưng nó vẫn tồn tại và sống mãnh liệt trong trái tim những ai đã lỡ  chọn Nguyễn Hoàng là người tình muôn thuở.

Có lẽ nhờ mối tình chung thủy với  Nguyễn Hoàng nên ở đâu có cư dân NH sinh sống là ở đó có nhóm, hội Ái hữu NH hoạt động. Anh chị em CHS tìm đến nhau để sống lại “cái thuở  ban đầu lưu luyến ấy”, cùng ôn lại kỷ niệm về trường lớp, thầy cô, bè bạn…
Từ Quảng Trị vào Huế, Đà Nẵng, dọc theo duyên hải miền Trung như Nha Trang, Cam Ranh, Bình Thuận đến  miền Đông đất đỏ Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu, lên tận Tây Nguyên, qua Đà Lạt, Bảo Lộc,  xuống miển Tây sông nước như Đồng Tháp, Long Xuyên, CầnThơ… Rồi qua tận các nước Úc, Mỹ, Canada…đều có hoạt động nối kết bằng hữu. Bảng danh sách CHS, do vậy, ngày mỗi dài thêm và  bạn bè tìm đến với nhau ngày càng đông hơn.
Xin trở lại với câu chuyện NHSG. Năm 1992, cuộc sống vẫn còn khó khăn với cơm áo gạo tiền, nhưng một số anh chị em CHS tâm huyết tụ về  SG    mưu sinh đã  phát tín hiệu liên lạc với nhau để hẹn hò “người tình NH”. Thời đó qui định không thoáng như bây giờ, nhất là vấn đề liên quan đến an ninh trật tự vì khi có nhiều người tụ tập là phải xin phép, thế mà các anh chị  đầu đàn đã rủ rê nhau họp mặt “lén”. Ngôi nhà của cô giáo Nguyễn Thị Thanh trên Q.3 đã trở thành điểm hội ngộ  đầu tiên của bà con NH SG. Tiếp theo buổi họp mặt “nháp” này các anh chị tiên phong đã mạnh dạn tổ chức lần họp mặt Xuân  đầu tiên tại Viện Bảo tàng miền Đông Nam bộ với xấp xỉ ba trăm người tham dự! Ngoài tiên liệu của ban tổ chức!  Thầy Thăng hồi tưởng: ”Có một anh đang sửa xe bên lề đường, nghe tin họp mặt vội thu dọn đồ nghề đi ngay, bất kể áo quần lem luốc dầu mỡ”.  Các NH lãnh ấn tiên phong giai  đoạn này là cựu Trưởng ban Liên lạc Lê Hữu Thăng & Nguyễn Bảo, cùng các anh Nguyễn Văn Định,Tạ Nghi Lễ, Lê Đình Triển, Võ Cao Hiển (đã qua đời), Tạ Thái, Nguyễn Đặng Mừng, Hồ Sĩ Mừng, Hồ Sĩ Kỷ, Ngô Bá Cương, Võ Cẩm,  các anh chị Vinh Hiền, Thành Cương, Tường Sâm, Hòang Thuần, Hào Loan, chị Kim Loan…
Thời đó mọi thứ đều thiếu thốn, làm gì có quỹ để ứng trước nên sau mỗi lần họp mặt, các anh chị trong BTC ngồi lại tổng kết tiền thu được từ anh chị em tham dự. Thiếu thì BTC móc tiền túi ra để thanh toán tiền mướn mặt bằng, âm thanh, nhạc cụ và tiền nước…Thường thì thu ít hơn chi. Từ thiếu  ít đến thiếu nhiều chứ chưa có năm nào dư được vài ba chục ngàn! Cũng dễ hiểu thôi vì thời bao cấp đời sống quá khó khăn, tiền ăn  còn thiếu huống gì tiền họp mặt hội hè. Nhờ các mạnh thường quân hỗ trợ và tấm lòng của anh chị em trong BLL nên cái khó  cũng qua và như thế cứ mỗi mùa Xuân đến bà con NHSG đều có buổi họp mặt rôm rả, thầy trò tay bắt mặt mừng, tràn ngập không khí “hãy vui chơi như lúc còn bé thơ”.
Dần dần sinh hoạt tập thể  khởi sắc nhờ đời sống bà con đi lên. Những năm gần đây bà con NH đến dự hội Xuân đông đảo hơn, ăn mặc đẹp hơn và chương trình cũng đặc sắc hơn. Năm nào số lượng cũng trên dưới bốn trăm người đến từ Sài Gòn và các tỉnh thành phụ cận. Cầu mong  bà con ta ngày càng làm ăn khấm khá để nụ cười tươi hơn, túi tiền nặng hơn để có điều kiện thăm viếng, giúp đỡ nhau những khi trái gió trở trời.
Những năm gần đây sinh hoạt  của các nhóm  ái hữu NH ở các tỉnh thành ngày càng sôi nổi và vui hơn trước, nhất là Ái hữu NHSG tháng nào cũng có sinh hoạt với số lượng tham dự mỗi lần trên dưới 70 thành viên. Đó là dấu hiệu đi lên của một phong trào và chúng ta có thể tìm ra nét khởi sắc qua các mặt tích cực sau đây:
 Cuộc sống của phần đông bà con NH ở các tỉnh thành lớn  khá hơn xưa.
Tổ chức họp mặt định kỳ để thầy trò gặp nhau thường xuyên hơn, qua đó tâm tình, sẻ chia buồn vui trong đời sống thường ngày, thăm viếng thầy cô, bạn hữu ốm đau nằm viện…
Sinh hoạt với nhiều tiết mục vui nhộn như: tổ chức sinh nhật tập thể, tặng hoa và thiệp chúc mừng, sinh hoạt văn nghệ, đố vui có thưởng...
Sắp xếp những chuyến du lịch xa  như đi xứ Kampuchia, về miền Tây sông nước, tổ chức ngày Tri ân Thầy Cô, tổ chức lễ mừng thọ  thầy cô (nếu có điều kiện), tham dự họp mặt Ái hữu NH các tỉnh thành…
Tạo sân chơi thú vị như các hội thi cắm hoa, ẩm thực, cờ tướng…  
Kêu gọi sự đóng góp giúp đỡ đồng môn là nạn nhân của thiên tai bão lụt, dựng mái ấm cho CHS quá khó khăn, giúp công cụ lao động cho đồng môn neo đơn, tặng học bổng cho sinh viên con cháu CHS NH (20 năm qua, BLL đã cấp phát hơn 1000 xuất học bổng với tổng số tiền  trên 600 triệu đồng, huy động đóng góp cứu trợ bão lụt lên đến cả trăm triệu, Hương Quê Nhà thường xuyên giúp đỡ những  hoàn cảnh đáng thương của NH khắp cả nước với số tiền khá lớn).
Và nhiều hoạt động sáng tạo khác như hội thơ Đường của một nhóm yêu thơ, sắp tới có thể tổ chức thi đấu cầu lông…
Có được những hoạt động sôi nổi như vậy là nhờ BLL biết:
-Tận dụng thế mạnh của công nghệ thông tin trong thời đại @. Chỉ cần  lên mạng, gởi thư điện tử (e-mail) là bao nhiêu cư dân NH nhận được thông tin xa gần. Mở trang blog Nguyễn Hoàng để mọi người trao đổi tin tức, hình ảnh, giới thiệu thơ văn, mở mục tìm kiếm việc làm  cho con em CHS.
-Quy tụ những thành viên Nguyễn Hoàng tâm huyết, tình nguyện ăn cơm nhà vác tù và  hàng tổng- Họ nhận việc với tính tự giác cao, không suy tính thiệt hơn, lúc nào cũng vì NH.
-Bắt đúng mạch chủ của dòng máu Nguyễn Hoàng cuồn cuộn chảy trong trái tim đồng môn. Bất kể trời  mưa hay nắng, nhà xa hay gần, công việc bộn bề hay rảnh rỗi, cứ nghe tiếng loa của mõ trường là  mọi người có mặt.
-Hoạt động của các nhóm, khối gắn kết bền vững như các nhóm NH 64-71, 68-72, 66-72, NH hướng đạo… Các nhóm này là tế bào cơ sở giúp BLL củng cố thêm sức mạnh của tập thể.
-Sự ủng hộ và khích lệ của quý thầy cô, anh chị em trưởng tràng là niềm  động viên lớn lao cho các thành viên trong Ban Liên Lạc.
-Công khai minh bạch các khoản thu chi, báo cáo quỹ hàng tháng.
-Bổ sung quỹ bằng các sáng kiến như “bán” hũ đất NH (*), đĩa họp mặt, du ngoạn, bán Hương Quê Nhà…
- Bổ sung nguồn quỹ qua sự ủng hộ của quý mạnh thường quân là CHS trong và ngoài nước. Các thành viên NHSG tự giác đóng sinh hoạt phí.
 -Sau cùng nhưng vô cùng quan trọng là tranh thủ sự đồng cảm của các NH phu quân, phu nhân và gia đình khi chồng (hay vợ), cha (hay mẹ) của mình “lơ là” việc nhà “say mê”  việc hội. Mọi người chẳng những không than phiền mà còn tham gia phụ giúp mỗi khi Hội có việc.
Bất cứ làm việc gì muốn thành công, phải có sự chuẩn bị công phu. Một phong trào muốn phát triển mạnh cần hội đủ các yếu tố  như thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Đời sống của bà con mình lúc này đã khá hơn xưa, gặp gỡ nhau năm  bảy chục người ở quán café không còn là vấn đề quá nhạy cảm. E-mail, điện thoại di động giúp thông tin nhanh chóng, nhu cầu tìm đến bạn bè, và tình cảm NH dạt dào trong trái tim mỗi người là các yếu tố thuận lợi chưa từng có để các hoạt động nối kết sẻ chia phát triển.
Như vậy thời điểm này là lúc thuận lợi vô cùng để hoạt động Ái hữu  NH các nơi nổi rộ lên. Chỉ cần một nhóm thành viên tích cực quy tụ lại là có thể dấy lên phong trào. Mỗi người nhận một phần việc, kêu gọi sự tham gia hưởng ứng của tập thể. Chỉ cần cây đuốc đầu tiên cháy lên mạnh mẽ là ngọn lửa NH thổi bùng ánh sáng đến muôn cây đuốc đang khát khao chờ đợi. Tôi tin chắc rằng Ái hữu NH trên mọi tỉnh thành sẽ trở nên phong trào mạnh mẽ. Mọi người cùng siết bàn tay thân ái, vui chơi trong tình bạn để không hề tiếc nuối là lãng phí quỹ thời gian vốn ngày càng hạn hẹp!
Xin chia sẻ một số kinh nghiệm từ các hoạt động thiết thực của Ái hữu NHSG với mong ước ngày càng có nhiều hội ái hữu NH sinh hoạt sôi nổi đáp ứng niềm mong đợi của bà con chúng ta.  

Saigon 20-03-2012
Nguyễn Văn Trị
- Trưởng ban Liên Lạc Nguyễn Hoàng Sài Gòn

(*) Đất lấy từ khuôn viên trường cũ ở Quảng Trị, bỏ vào hũ có logo Nguyễn Hoàng để tặng, bán gây quỹ hoạt động.

NHƯ MỘT LỜI TÂM TÌNH
                                                                    NH Bùi Đức Thu
Lời ngỏ: Rất mong sự lượng thứ của quý Thầy, Cô cùng ACE Đồng Môn Nguyễn Hoàng về lối xưng hô của Đức Thu, bởi dùng chữ “tôi” trong bối cảnh từng đoạn văn là thiết thực và cần thiết…Nên phải xử dụng sau khi suy nghĩ và trăn trở…
           
   “ NGÀY ẤY” !!!
Vâng, xin được mở đầu bằng hai từ ngày ấy. Giờ đây trong hàng ngủ chúng ta, vị nào trẻ nhất cũng trên dưới 60, có vị thất thập cổ lai hy hoặc giả còn cao niên hơn nữa. Ấy vậy mấy ai quên được cái ngày đầu tiên theo bố mẹ hay anh chị đến trường.
       Thuở lên năm, lên sáu chân bước ngập ngừng, rụt rè xen lẫn ngỡ ngàng xa lạ với khung cảnh ngôi trường. Thời gian quen dần, ấn tượng đầu đời là ý nghĩa : Kính thầy như cha, yêu cô như mẹ, và rất nhiều bạn bè mới quen chung quanh. Những mẩu chữ, con số bước đầu làm quen sau thấm dần và hình thành ở “ cu cậu ” tiểu học. Từng bước, từng bước…tung tăng tung tăng thơ ngây hoàn tất năm năm học, mãi đến bây giờ từng nét mặt, dáng dấp thầy cô vẫn không thể xóa nhòa trong tâm tưởng của cậu học trò bé nhỏ ngày nào. Lên trung học đệ nhất cấp, tôi học trường công lập, một ngôi trường nhỏ ở quận lỵ mang tên Đông Hà. Đông Hà ngày ấy nhỏ lắm, đôi ba con đường với dãy phố con con, đúng là “ đi dăm phút đã về chốn cũ”. Còn nói về trường ư? Từ lớp đệ Thất, Lục, Ngũ, Tứ đều chỉ có một lớp duy nhất. Ấy vậy mà cơ sở vật chất của nhà trường vẫn không đủ cho bốn phòng học, phải mượn thêm phòng của các trường khác như Trung Học Bán Công hay Nam Tiểu Học Đông Hà ( mãi đến NK 69-70 trường mới được xây dưng xong với năm phòng, một phòng làm văn phòng và bốn phòng học). Trong môi trường đó, lứa tuổi mười một, mười hai là lớp đàn em của bậc Trung Học. vẫn là trang giấy tinh khôi, được nhiều thầy truyền dạy các môn học và kỹ năng kiến thức làm người. Những lời thầy cô thật tuyệt vời, đến giờ vẫn như còn vang vang bên tai tôi lời giảng dạy, hình ảnh cũ điểm nụ cười tươi và điềm đạm của thầy mỗi lần giảng thơ Kiều của đại thi hào Nguyễn Du trong Đoạn Trường tân Thanh, hay cử điệu khi đọc bài thơ Chí Nam Nhi của Nguyễn Công Trứ, hay những dòng thơ văn khác của Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, bà Huyện Thanh Quan… Đó là dòng chảy vào tâm trí của các cô cậu thời Trung Học.  Tôi còn nhớ mãi những lần thầy kể chuyện:” nhiều tập” ( truyện dài nên thầy chỉ kể xen kẻ trong các giờ học) “ Hà Ô Lôi  tiếng hát giết người”. Vị thầy tôi hằng tôn kính, xin được nhắc lại như một hình ảnh luôn ấn tượng và đẹp mãi trong tôi, có lẻ  ACE dưới mái trường Công Lập Đông Hà hẳn cùng chung suy nghĩ, đó là  giáo sư Ngô Khôn Liêu…Mới đó mà đã hơn 40 năm ròng rã trôi qua…
      Ngày tháng qua đi, sau bốn năm trung học Đông Hà, một số ít bạn cùng tôi chuyển tiếp vào trường Nguyễn Hoàng, một ngôi trường lớn nhất của tỉnh Quảng Trị, lại có những ngỡ ngàng tiếp theo và lại bắt đầu làm quen trường lớp, làm quen thầy cô bè bạn, và phải làm quen với những sinh hoạt thay đổi bởi phải trọ học xa nhà. Một kỷ niệm vui không thể nào quên được cho Võ Văn Phúc và tôi là: Hai đứa đều khoái văn chương nên chọn ban C, theo học được hai ba tuần gì đó đành phải chào thua, xin chuyển qua A vì sinh ngữ chính của hai đứa là Pháp Văn, cô Diệu Vân là giáo sư phụ trách mỗi lần vào lớp đều nói bằng tiếng Pháp 100%, hai đứa tôi đều yếu kém tiếng Pháp nên không thể theo kịp. Nếu không có điều này xãy ra, tụi tôi đã là bạn cùng lớp với Nguyễn Văn Trị, Đăng Mừng và Quang Tuyết…từ lâu rồi, chứ đâu phải đợi đến sau này mới biết.
Trường Trung Học Nguyễn Hoàng là một trường lớn nên có nhiều phòng học. Đặc biệt nhất là dãy lầu, đây là điểm chính của trường. Cả hai tầng đều có năm phòng học. Buổi sáng dành riêng cho Đệ Nhị cấp. Tầng trệt gồm những phòng học của các lớp Đệ Nhất (12). Tầng trên dành riêng các lớp đệ nhị (11). Buổi chiều chuyển sang cho các lớp Đệ Nhất cấp. Thỉnh thoảng trong tuần, lớp tôi lại được ban Giám Hiệu phân học vào buổi chiều. Cũng “ hách xì xằng” với đám đàn em bảng tên thêu màu đỏ lắm lắm, vì là đàn anh đàn chị mang bảng tên màu xanh nước biển, nổi bật giữa đám đông mang bảng tên màu đỏ của lớp đàn em học buổi chiều ( màu đỏ và xanh của bảng tên phân biệt hai cấp lớp khác nhau ). Mỗi sáng thứ Hai đầu tuần, tất cả học sinh cùng quý thầy cô tề tựu dưới sân trường để làm lễ chào cờ. Có rất nhiều thầy cô giảng dạy trong trường, mà đến nay tôi vẫn không biết, hay nhớ hết ( có lẽ vì thời gian học quá ngắn). Hình ảnh thẳng tắp và đồng điệu của đồng phục nam sinh quần xanh áo trắng, nữ sinh áo dài quần trắng, với một số cô mặc áo đầm trắng nữa, thật đẹp và trang nghiêm như một ngày hội. Sau lễ chào cờ, mọi người im phăng phắc nghe lời huấn thị của thầy Hiệu Trưởng Thái Mộng Hùng (xin cúi đầu tưởng nhớ đến thầy)…rồi đến thầy Tổng Giám Thị Hồ Ngọc Thanh truyền đạt, nhắc nhở nội quy của trường…
            Bước vào năm học thứ hai, khi đã làm quen được với thầy, cô cùng các bạn trong lớp, quen với khung cảnh của trường, với dãy hành lang cùng lan can, nơi  tôi thường tì tay nhìn xuống sân trường rợp mát bóng phượng, những thân cây ấy đã khắc lưu biết bao tên học sinh. Tôi đã quen từng góc nhỏ phòng học, mỗi lần ra chơi cả bọn nhóm lại chuyện trò, tán gẫu, quen với những cá tính khác nhau của bạn bè, và cũng trong lúc này, lớp chúng tôi đang ở trong thời kỳ “dùi mài kinh sử” chuẩn bị cho kỳ thi Tú Tài phần một…Ngờ đâu, cuối tháng 3 năm 1972 chiến tranh bùng nổ ác liệt trên toàn tỉnh Quảng Trị, để tránh bom đạn tất cả người dân rời bỏ nhà cửa, rời bỏ Quảng trị, di chuyển về các tỉnh thành phía Nam. Nguyễn Hoàng trường của chúng tôi tan nát từ dạo ấy…
…Cuối năm 1973, một lần quân hành băng qua giao lộ Hồ Đắc Hanh và Quang Trung, đối diện cảnh hoang tàn đỗ nát của thị xã, trường Nguyễn Hoàng chỉ còn trơ trọi vài bức vách lỗ chổ dấu đan bom, lòng tôi ngậm ngùi rưng rưng nhìn khung cảnh trước mắt, xót xa vô cùng khi ngôi trường yêu dấu cùng chung số phận với “Con phố buồn hiu” Quảng Trị…
  Rồi có những lần ở hướng Tây, phía sau Thánh Địa La Vang là núi đồi trùng điệp, tôi leo lên đỉnh đồi thả hồn theo dòng sông Thạch Hản, lặng lẻ đổ xuôi về biển, nào đâu Quảng Trị của ngày xưa, nỗi đau trong nỗi lòng man mác!!!
    Dòng đời đẩy đưa tôi bước qua một con đường khác, giã từ đất Mẹ tạm biệt quê hương Việt Nam tôi đặt chân lên xứ người. Muôn ngàn thay đổi lòng lại ngỡ ngàng chẵng khác nào tâm trạng của ngày đầu tiên theo mẹ đến trường…Tôi tiếp nối công việc ấy với con gái đầu lòng ( năm cháu 15 tuổi), nhưng bố chẵng biết gì hơn con. Rõ là buồn cười, nhưng trong mắt bé tôi là chổ dựa vững vàng, bảo vệ con gái trước giữa cảnh xa lạ, và bạn người Mexico cùng lớp ESL ( English second language) mắt xanh môi đỏ, to lớn, xồ xề . Ngày tháng qua đi với biết bao khoảng thời gian bù đầu vì công việc, lắm khi về đến nhà thì thân thể rời rã, mệt nhoài. Mười năm trở lại đây công việc có phần tương đối ổn định. Hai con đã thành đạt trong sự nghiệp học tập, nên cuộc sống gia đình cũng dễ chịu hơn. Xin đa tạ đất trời đã đoái thương gia đình của Đức Thu…
     Những năm qua nhờ mạng lưới INTERNET, qua các trang web, blog của các thành viên CHS Nguyễn Hoàng, ở hải ngoại có Nam, Bắc Cali. Ở Việt Nam hầu như lan rộng khắp nơi, có những nơi sinh hoạt định kỳ hằng tháng, cũng như thường xuyên tổ chức hội ngộ từ Sài Gòn cho đến vùng lân cận như Đồng Nai, Hàm Tân, Bà Rịa Vũng Tàu. Miền Trung thì có Đà Nẵng, Huế và miền đất thiêng Quảng Trị. Tình thân Nguyễn Hoàng đã kết nối đến tất cả nơi nào có cư dân Nguyễn Hoàng cư ngụ. Bên cạnh đó các trang web, blog của các thành viên Nguyễn Hoàng hình thành khắp nơi, đăng tải nhanh chóng và đầy đủ những thông tin, hình ảnh sinh hoạt của gia đình NH các tỉnh thành. Tôi như quyện vào những sự kiện ấy... Trân quý làm sao nghĩa thầy trò, tình bằng hữu luôn thắm thiết trong lòng tất cả mọi người. Lòng tôi ước ao, thèm muốn làm sao để được hưởng cái bầu không khí ấy...Nó luôn sống động trong tôi, trăn trở trong tôi…Rồi dần dần tôi giao tiếp được nhiều quý thầy cô, và ACE CHS NHhơn. Tôi cố vun đắp tình cảm bằng cách trao đổi thông tin qua email, và từ đó tôi đã biết thêm được biết bao việc làm nỗi bật, rất đáng trân trọng của quý thầy cô cũng như từng nhóm ACE nhiều niên khóa, luôn cả những cá nhân tiêu biểu của tập thể Nguyễn Hoàng, mà mục tiêu là chia sẻ hay xoa dịu những khó khăn mất mát, là  hỗ trợ và đùm bọc cho thế hệ mai sau…Những hoạt động ấy làm tôi vô cùng ngưỡng phục, đặc biệt nhất là nghĩa cử của gia đình Thầy Cô Lê Hữu Thăng. Bên cạnh, là hoạt động của nhóm đàn anh đàn chị NH khóa 64-71 cũng rất thắm vẹn nghĩa tình, đơn cử là hoạt động trong ngày Hiến Chương nhà Giáo vừa qua…Còn rất nhiều anh chị…, rất nhiều tấm gương sáng…rất nhiều đóng góp nữa, nói mấy cũng không làm sao hết...Tôi cũng không quên những đóng góp rất lớn của quý AC chuyển đến tất cả những điều hữu ích qua NH CD&KN, Hương Quê Nhà, Tình Quê…Tất cả những việc làm ấy đều đáng trân trọng và tri ân. Tựu chung tôi muốn nói rằng: Nghĩa tình Nguyễn Hoàng thật cao quý và sâu xa biết bao… Nơi phương xa này, tôi luôn thường xuyên hòa mình với niềm vui  tình nghĩa Nguyễn Hoàng qua những trang web, blog…để như thấy mình đang cùng mọi người sinh hoạt, đang cùng sống trong bầu không khí tình thân. Có khi tràn trề niềm vui, có khi nao nao ngậm ngùi bên màn hình Computer, nhất là lúc vang vang thêm tiếng hát Quang Linh, Bảo Yến trong những bài hát phỏng thơ của anh Tạ Nghi Lễ, lòng tôi càng thêm xót xa… tiếc rằng “ngày ấy” vẫn chỉ là mơ….
     Nhưng rồi một ngày vào tháng 10 năm 2011, tôi nhận được thông báo sẽ tổ chức hội ngộ kỷ niệm 60 năm thành lập trường Nguyễn Hoàng tại Quảng Trị vào ngày 24-6-2012. Tôi nôn nao trong lòng, ngày tháng qua đi thôi thúc trong tôi một lời hẹn trở về. Tôi sẽ trở về. Vâng tôi sẽ về ( ước mong dự định suôn sẻ). Hy vọng bước chân nhỏ của tôi sẽ hòa cùng tất cả bước chân CHS Nguyễn Hoàng về nơi “ ngày ấy”…đã xa từ 40 năm dài... Để được cùng nhau:
                   Ngất ngây nắng lửa gió Lào
              Hân hoan thầy, bạn đón chào hè sang
                 Mừng vui cười nói rộn ràng
            Như không muốn nghĩ : đôi đàng cách xa
                  Phượng hồng, ve tấu hoan ca
           Bốn mươi năm đượm tình ta đẹp ngời
               Nguyễn Hoàng ơi! Quảng Trị ơi!
         Xin không quên bạn- nhớ Người- nhớ tôi…
Lời kết: Em xin mượn nơi đây gởi đến Thầy Võ Văn Bồi  lời kính cám ơn, vì người đã khích lệ em hãy viết gì đó về Nguyễn Hoàng.
- Xin cám ơn cô út Liên Hưng đã dẩn dắt anh về với Nguyễn Hoàng qua những thông tin từ email.
-Cám ơn bạn Quang Tuyết đã giúp Thu hoàn thành” bài Tập Làm Văn” để gởi kịp Đặc San Nguyễn Hoàng 60 năm,
Cám ơn các bạn đã thường xuyên thôi thúc…
- và cuối cùng ba cám ơn hai con Anh Trúc và Nguyên Trường đã động viên, cũng như lo lắng cho ba má có điều kiện thực hiện cuộc hành trình trở về nơi …NGÀY ẤY…
Chicago, tháng 4- 2012
Bùi Đức Thu

TỪ NAY - NGƯỜI BIẾT YÊU NGƯỜI
Hồ Sĩ Bình
CHS.NH 6471
ĐT.0905 181 742 - Email: hosibinh@gmail.com
Thời tôi học Nguyễn Hoàng có 2 thầy đã có ảnh hưởng lớn nhất đến đời tôi trong việc chọn hướng đi sau này của mình, Người thứ nhất là thầy hướng dẫn năm học đệ tứ. Thường thì những bài thi học kỳ, thầy luôn giao cho  tôi làm sơ mi. Cuối năm học, thầy khuyến khích tôi với lời phê mà suốt đời mình không bao giờ quên : Có năng khiếu về văn chương, mong em tiếp tục con đường này. Và không có gì phải phân vân, tôi chọn ban C, ban văn chương, rồi sau này vào đại học chọn thi vào khoa Việt Hán, Đại học sư phạm Huế.
Người thứ hai là thầy Lê Mậu Tâm dạy triết. Nói thật sau khi đậu bán, cầm mấy tập sách triết trên tay, mới đọc cảm thấy “mù trời đông” lo lắng hồi hộp vì thấy lơ mơ quá đỗi, trong khi môn triết lại là môn chính. Nhưng thế rồi, bằng một phương pháp giảng dạy mẫu mực, sự chân tình và gần gũi, vừa động viên vừa khai mở, những khái niệm triết học đa đoan rối rắm được thầy từ từ hé lộ bằng những cách tiếp cận dễ dàng và cung cấp cho chúng tôi không chỉ là kiến thức mà kỹ năng xử lý những đề thi  nhuần nhuyễn.
Bên cạnh là những người thầy tuy không giảng dạy trực tiếp nhưng qua tiếp xúc gần gũi, bằng thái độ sống, cung cách hành xử, lòng yêu thương cuộc sống, đạo đức và tình cảm đã gieo vào tâm hồn của học sinh những ấn tượng sâu sắc trở thành những khuôn mẫu sống cao cả. Một trong những người  đó với tôi là thầy Lê Hữu Thăng.
Từ những ngày còn đi học, trong những ngày Hội trại hay Quân sự học đường , thầy thường là người trại trưởng năng động, những thao tác kỹ năng sinh hoạt ngoài trời được thầy hướng dẫn một cách chi li cụ thể kể cả tiên lượng những tình huống bất trắc có khả năng xảy ra. Còn nhớ,  nếu như đang tham gia cắm trại nếu lỡ như bị máy bay dội bom hoặc pháo kích thì học sinh phải tìm cách ứng phó như thế nào. Nên nhớ là Quảng Trị lúc ấy là vùng đất của chiến tranh nên việc dự phòng những tình huống xấu đều có thể xảy ra.  Những bài học kinh nghiệm hoạt động ngoài trời ấy sau này tôi vẫn gặp lại vào giờ sinh hoạt học đường ở trường sư phạm, những khi ấy lòng thầm tự hào  về người thầy của mình vì đã từng hướng dẫn ngay từ ngày còn ở trung học. Có lẽ, tự bản chất con người, thời ấy đã hiển lộ thầy là con người thuộc về cộng đồng, xã hội .Vì thế không có gì đáng phải ngạc nhiên khi sau này, thầy suốt đời làm người “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng” một cách thầm lặng mà bền bỉ.  Thời đó thầy cũng là hạt nhân  trong phong trào Hồng thập tự  của tỉnh nhà. Năm 1972 loạn lạc khói lửa ngút trời, nhiều người bỏ quê mà đi, thầy cùng một nhóm học sinh trở lại bám trụ trên đất Mỹ Chánh Hải Lăng để hoạt động trong những phong trào của Hồng thập tự để cứu trợ nhân đạo.
Mấy năm sau 1975 vào Sài Gòn, trong sâu thẳm nỗi nhớ quê nhà và trường cũ của một người xa xứ, bất ngờ gặp lại thầy trong những cuộc gặp gỡ thường kỳ của học sinh Nguyễn Hoàng. Thầy lúc ấy đi kinh tế mới ở nông trường An Hạ nên cuộc sống còn phải lo toan vất vả, vẫn là dáng dong dỏng cao nhưng gầy guộc, khuôn mặt cũng hanh hao nắng gió của nông trường, thế nhưng giọng nói thì âm lượng vẫn sang sảng, tràn đầy nhiệt huyết  nặng tình với ngôi trường bên sông Thạch Hãn. Gặp lại thầy, lòng thật xốn xang cảm xúc, hình như bao giông bão của dâu bể cuộc đời  không hề làm vơi đi ngọn lửa nhiệt tình nơi thầy. Là học trò ai mà không nhớ đến trường xưa, huống chi với người xa xứ, thế nhưng khi gặp lại thầy tự nhiên như gặp ngọn lửa được truyền dẫn thổi bùng lên, thắp sáng  nỗi niềm thương nhớ ấy. Tâm trạng này, có lẽ không phải chỉ mình tôi.
Mấy năm sau đó, trước khi định cư nước ngoài, thầy dặn dò anh Nguyễn Bảo và một nhóm học sinh hãy cố gắng gìn giữ những mối quan hệ Nguyễn Hoàng càng ngày càng thân thiết, bền chặt hơn. Những lời dặn dò tha thiết xuất phát từ một trái tim mà tình yêu Nguyễn Hoàng đã trở thành máu thịt không thể cắt rời , để rồi ngày nay Ban Liên lạc NH tại Sài Gòn đã mấy thế hệ cứ tiếp truyền lưu chảy. Những ngày sống ở quê người, thầy cũng là người xông xáo để tìm mọi cách kết nối với đồng nghiệp, học sinh sum họp dưới mái  nhà thân yêu mang tên Nguyễn Hoàng.
Nhiều năm không gặp lại nhưng tôi vẫn thường xuyên theo dõi những cuộc đi về Việt Nam của thầy. Cách đây mấy năm, bỗng nhiên thầy điện về bộc bạch một tâm niệm : B. ơi, thầy và cô có dành dụm được một số tiền, em xem kết hợp với ai để lập một danh sách học bổng cho học sinh nghèo Quảng Trị nghe…Nghĩ, mới đi có hơn chục năm, làm ăn vất vả nơi quê người mới dành dụm được một ít tiền là thầy nghĩ đến con em Nguyễn Hoàng. Hình như 2 tiếng thiêng liêng ấy cứ đeo đẵng, ám ảnh thầy trong một góc khuất tâm hồn  ngày càng nặng nề hơn. Để rồi sau này có dịp về Việt Nam là cơ hội để thầy phát học bổng. Nghe cựu học sinh nào có hoàn cảnh khó khăn là tức tốc đến thăm viếng giúp đỡ. Thầy làm biết bao nhiêu việc cho cái thời “lịch sử hậu Nguyễn Hoàng” một cách thầm lặng mà hiệu quả. Ngay ngày Hội trường được tổ chức tại Quảng Trị, thầy cũng khăn gói về cùng với một số cựu học sinh ngoài đó bàn bạc, tìm cách vận động để thực hiện cho được ngày Hội trường. Nhiều người từng làm việc bên thầy, từng nói thầy quá nhiệt tình, qúa hết lòng mình không làm  theo là không được.
Thời gian kể từ cuối năm 2008 cho đến nay  năm nào là thầy cũng về, có năm về tới 2 lượt, và số lượng học bổng được trao – theo Quỳnh Thủy, cựu học sinh từng gắn bó với thầy trong công việc này thì, số lượng học bổng mỗi năm mỗi nhiều hơn.
Tôi từng làm nhiều năm ở báo Nhân Đạo, gặp gỡ biết bao đơn vị, bao con người làm từ thiện, thế nhưng với thầy, thú thật luôn làm lay động tâm hồn tôi bởi sự vô tư, thầm lặng đôi khi có phần kín đáo chẳng muốn ai biết. Ở thầy, lòng yêu thương nơi nhau rốn, mái trường cùng những hoàn cảnh khó khăn của học sinh luôn làm thầy ray rứt.
Thầy sinh ra trong một gia đình nề nếp và có truyền thống nhưng thanh bạch và đông con ở làng Bích La nên tuổi ấu thơ cũng nhọc nhằn cơm áo đến trường, Thầy hiểu được những nỗi đau của bao học sinh vì hoàn cảnh khó khăn phải gác lại nửa chừng giấc mơ đèn sách. Quảng Trị là một vùng đất khắc nghiệt, đất không nuôi nổi người, người không nuôi nổi đất nên cái sự học  là con đường duy nhất để thoát nghèo. Và vì nghèo khổ nên học sinh vùng cát trắng gió Lào luôn cần cù chăm chỉ học tập. Thấy vốn từ nhỏ chịu ảnh hưởng của Nho học nên nói theo cách của Khổng Tử, với học sinh Quảng Trị là “khốn nhi tri”, từ khốn cùng mà biết mà vươn dậy. Suốt bao đời của sĩ tử, lịch sử luôn bước đi trên những chặng hàn vi. Cho nên suốt cả cuộc đời, thầy luôn vác nặng trên vai nỗi lo lắng cho nhiều số phận học sinh vì quá khó khăn không thể tiếp tục đến trường và vì thế có những tài năng ắt hẳn sẽ thui chột.
Nhiều người không phải ở Quảng Trị rất lấy làm ngạc nhiên, tại sao mà những cựu học sinh của một ngôi trường chỉ còn là tên gọi trong ký ức mà lại quây quần ràng buộc đùm bọc nhau trong nỗi niềm thương nhớ Nguyễn Hoàng thao thiết đến như thế. Có thể lý giải với nhiều lý do, vì mất mát không còn, vì lưu dân xa xứ, vì cô đơn nơi đất khách, vì tiếc thương quá khứ ...Nhưng có một lý do quan trọng, quyết định  nhất, chính là vì Nguyễn Hoàng có những người con luôn hết lòng, hết sức để làm sống dậy một cách mãnh liệt tình yêu Nguyễn Hoàng trong lòng mọi người. Một trong những người con điển hình ấy là thầy Lê Hữu Thăng.
Nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng, thời tuổi trẻ từng sống bên sông Thạch Hãn, có lần ngồi hàn huyên chuyện cũ từng bảo rằng : Nguyễn Hoàng của ông hay thật, có những giáo sư như Lê Hữu Thăng, nhiệt tình tận tâm với trường đến nổi mình phải thật sự ngưỡng mộ, anh ấy luôn làm tròn trách nhiệm và nghĩa vụ với học trò cũ mà không hề tính toán. Tôi lại nghĩ, không hẳn là nghĩa vụ và trách nhiệm vì nói cho cùng, đến lúc này những công việc thầy làm không phải vì nghĩa vụ mà xuất phát từ  lòng yêu thương vô  bờ bến với những số phận éo le cần những tấm lòng nhân ái. Và cũng nhờ tấm lòng yêu thương đó để thầy làm việc thiện suốt cả đời mình, hình như thầy không có tuổi già, tuổi của ngơi nghỉ. Lại nhớ Gabriel Market, trong thư gởi một người bạn, trước khi lìa đời ông viết : Người ta sẽ bị xem là già nua khi trong lòng không còn yêu thương được nữa.
Bài học mà thầy đem đến cho chúng ta, những học sinh của thầy là lòng yêu thương và niềm tin vào con người. Cám ơn đời đã mang thầy đến với những học sinh Nguyễn Hoàng , từ cuộc  hội ngộ này để từ nay, người biết yêu người.
Tôi mãi mãi tự hào về thầy, thầy Lê Hữu Thăng.
HSB- Đà Nẵng

BÂY GIỜ  VẪN NHỚ
Truyện ký: Lê Bá Tâm
Tổ cha mi, mi có đi học không?, hay ở nhà đi ở chự trâu, cuốc đất, đi cày, mi nói cho tau biết.
Tiền mô mà đi học.
Tiền bạc tau lo, con cứ đi học cho giỏi, mai mốt còn làm thầy thông, thầy ký quan quyền với làng, với xóm, chứ cả đời đi làm thuê, cày sâu, cuốc bẩm, cúi mặt cho đất, giao lưng cho trời, mần răng mà khá lên được.
Hiền vừa mắng, vừa khóc, thằng Văn thấy mẹ khóc cũng khóc theo.
Hôm qua đi coi bảng, nó thi đậu vào lớp thất trường Nguyễn Hoàng, cả làng An Phú này đi dự thi hai mươi cháu chỉ đỗ được hai.
Con Huệ con ông Cữu Dạn nhất làng thì không nói làm chi, chứ thằng Văn cha chết sớm mẹ đi làm thuê từ tờ mờ sáng đến chạng vạng tối khi về chủ chỉ đong cho được hai, ba lon gạo đựng trong chiếc nón lá mà đâu có đủ, mỗi tháng chỉ làm công được hai mươi ngày, tiền đâu mà lo cho con ăn học, cha thằng Văn mất khi nó mới sáu tháng tuổi, O Hiền hai mươi hai tuổi ở vậy nuôi con, đến nay thằng Văn đã mười hai. Ơn trời nó được cái học giỏi, sáng dạ, nết na chịu khó, năm nào cũng nhận được phần thưởng của trường.
Bữa trước đi mần cỏ lúa bên tê sông, O Hiền nghe mụ Duận nói có người bà con trên tỉnh muốn kiếm người làm công, nấu cơm giặt áo lau nhà…, O Hiền vói tay lấy bó thuốc trên chàn bếp gói vào lá chuối đem qua biếu nhà mụ Duận nhờ ngày mai dắt O lên tỉnh xin việc.
Ông mụ quản Duyệt cũng là người bà con, o Hiền gọi ông mụ là chú thím cùng họ, biết o con ông khóa Tiền thợ may nên nhận lời ngay. O Hiền xin ông mụ cho thằng Văn ở chung với o để đi học.
Ông quản Duyệt xưa đi lính khố xanh, làm đến chức quản. Ông là một trong những người sáng lập ra trường Nguyễn Hoàng những năm 1951-1952.
Bích con gái ông năm nay cũng thi đỗ vào trường Nguyễn Hoàng, học đệ thất môn Pháp văn, còn thằng Văn nghe mấy chú ở làng nói hồi này bắt đầu học tiếng Anh sau này đi xin việc cho dễ nên nó ghi tên học môn Anh văn.
Bên ngoài bạn bè trong lớp cứ tưởng thằng Văn là cháu ông Quản, chứ không ai biết mẹ nó đi ở (về vai vế o Bích là em họ mẹ nó) nhà ông mụ và mấy o, mấy chú ở trên lầu, còn nó và mẹ ở dãy nhà ngang liền với bếp. Mẹ nó kê một chiếc bàn con để nó ngồi học, chẳng mấy khi thằng Văn được ngồi ăn chung với gia đình ông mụ và mấy o chú con ông. Về bài vở hai dì cháu học cùng lớp nhưng khác môn ngoại ngữ. Những lúc o Bích bí không làm bài được, xuống nhờ Văn hướng dẫn, từ từ Bích cũng giỏi ra khá hơn so với bạn học nữ cùng lớp.
Nhà ông mụ Quản kinh doanh đại bài gạo, xưởng làm kem, nước đá rộng mênh mông, người ăn kẻ ở cũng nhiều, cuộc sống sung túc dư dả, ông mụ có bảy người con, năm trai hai gái, chỉ hai người đang ở với ông mụ học trường Nguyễn Hoàng, còn năm người vào Đà Lạt ở nhà bà ngoại và nghe đâu học trường Tây Lyceé ở đó.
Tết nào ông mụ cũng thưởng cho người làm công, thằng Văn thay mẹ cũng được một bộ đồng phục quần xanh áo trắng để đi học. Mẹ nó làm việc đầu tắt mặt tối suốt năm, việc nào cũng chăm chỉ, chịu khó vì đây là chỗ tốt nuôi được hai mẹ con.
Bốn năm đỗ bằng trung học lên năm đệ tam Văn xin ông mụ, o Hiền cho ra ngoài ở riêng với bạn, ăn cơm tháng đi dạy kèm, khi nào không có tiền ra quán cơm xã hội ở bờ sông cũng xong. Mỗi lần về thăm quê đều ăn ở nhà bà nội, các chú, o chứ căn nhà tranh vách đất đã bán đi từ ngày hai mẹ con dời lên tỉnh. O Hiền vẫn ở làm công cho ông mụ Quản thêm 5 năm nữa, đến năm 1972 đa số dân trong tỉnh chạy vào Đà Nẵng, ông mụ Quản vào Đà Lạt ở với mấy chú.
Văn thương thầm trộm nhớ Bích nhưng nghĩ mình là người ăn kẻ ở trong nhà, về môn đăng hộ đối như thế làm sao dám mở miệng tỏ tình, nhiều lần kề vai, tựa đầu bên bàn học, đêm nằm trằn trọc suy nghĩ mông lung.
Trước ngày xách gói ra khỏi nhà Văn đợi Bích ngay cổng trường:
_ Mai Văn ra ở chung với thằng Thanh, không ở trong nhà Bích nữa, chừ mình lớn rồi, ngủ chung với mạ kỳ lắm.
_ Răng Văn không ở, có ai nói chi Văn mô, lên xưởng ngủ với đám thợ cũng được, thấy Văn học giỏi ở nhà cha mạ và các anh chị cũng thương Văn lắm đó. Cứ ở nhà mình thêm hai ba năm nữa, đỗ tú tài rồi muốn đi đâu thì đi, mình chắc Văn thế nào cũng có khả năng vào đại học, đừng bỏ uổng lắm, mà Bích cũng nhớ Văn, lo cho Văn nữa đó.
_ Văn cũng nhận thấy, nhưng mình là kẻ ăn mẹ mình là người ở trong nhà, cứ mỗi lần nghĩ tới Bích là Văn thấy khổ tâm lắm, tới giờ mà mình chẳng có nơi ăn, chốn ở thì dám nói chi đến chuyện cao sang hơn. Bích cũng hiểu, bốn năm ở trọ nơi đây mình mến Bích nhiều lắm. Đi đâu Bích cũng nhớ mua quà bánh về cho, mình cảm động xen lẫn tủi thân lắm, sách vở của Bích mình cũng dùng để học, nghĩa cử của ông mụ đối với mạ con mình. Thôi bây giờ để cho Văn ra ngoài, sau này có cơ hội về thăm và đền đáp mối thâm ân này vậy.
_ Hai đứa chúng mình còn nhỏ biết làm chi hơn được, thôi thì Văn cứ làm theo ý muốn của mình, biết sống tự chủ, độc lập càng tốt chứ sao, ráng học đỗ tú tài để sau này Văn sống khá giả, làm người hữu ích cho gia đình, xã hội như thế là Văn đã trả được công lao mà chị Hiền sinh dưỡng, mình vẫn luôn theo dõi bước chân của Văn đó.
Bức thư Văn viết cho Bích kẹp trong cuốn tập đã mấy lần muốn trao đi, nhưng Văn cứ e ngại, nhỡ Bích không hiểu mình, lại để ông mụ biết rầy la, không cho o Hiền ở nửa thì chết, mình còn nhỏ chưa làm gì ra tiền nuôi thân, lại làm hại mẹ một đời hy sinh vì con cái. Văn tự an ủi mình, thôi ráng siêng năng, chuyên cần học tập tốt rồi sẽ tính.
Những năm 1967-1968, chiến tranh leo thang ác liệt, quê hương Quảng Trị chịu nhiều đau thương về bom đạn, tiếng súng, tiếng khóc than chẳng ngày nào ngơi nghỉ. Những người dân quê bỏ ruộng vườn di cư vào các thành phố lớn hoặc vào nam sinh sống, khổ cực trăm bề. Tết năm Mậu Thân chiến sự lan rộng khắp cả nước. Mùa hè năm đó Văn thi đỗ tú tài phần thứ hai, Bích bị rớt nhưng có người ở Huế ra hỏi cưới. Văn cảm thấy buồn bã, chán nản, lại nghĩ mình chẳng có điều kiện để vào Huế học đại học, lại cũng đã đến tuổi động viên đi lính, giải pháp duy nhất là theo một số anh em cùng trường đi học ở trường võ bị quốc gia tại Đà Lạt.
Một số anh em trúng tuyển, riêng Văn bị đánh rớt do lý lịch chưa được rõ ràng, anh bèn nộp đơn vào trường bộ binh Thủ Đức. Xong khóa huấn luyện quân sự được chọn về ngành quân y. Lại tiếp tục học thêm mười tháng nữa, ra trường được điều chuyển về sư đoàn năm, trung đoàn chín bộ binh, đại đội năm mươi ba quân y hành quân.
Những lần về phép thăm mẹ, thăm bà con. O Hiền vẫn sống trong nhà ông mụ Quản, Bích theo chồng vào Đà Nẵng đi daỵ học, chồng làm sĩ quan pháo binh, sau đó lại thuyên chuyển vào nam.
Năm 1972 chiến tranh nổ ra ác liệt, người Quảng Trị một ít ra bắc đa số chạy vào trại tỵ nạn ở Hòa Long thành phố Đà Nẵng. Ông mụ Quản theo các o chú vào sinh sống tại Đà Lạt, o Hiền đi theo vào ở đó. Văn về thăm mẹ, bà nay tóc đã lốm đốm bạc nhưng vẫn khỏe mạnh. Mấy lần o hối thúc Văn xem có đám nào vừa ý thì để bà đi hỏi cưới cho, nay con đã khôn lớn, mạ mong sao con yên bề gia thất, con cái nối dõi tông đường, nếu mạ nhắm mắt xuôi tay cũng mãn nguyện rồi.
Văn cũng có ý kiếm một nơi để làm vừa lòng mẹ, nhưng một năm được mươi ngày phép, bạn bè giới thiệu đám này, chỗ kia nhưng vẫn chưa vừa ý.
Tháng mười 1976, sau hơn một năm học tập, cải tạo ở Trảng Táo, Đồng Nai Văn được giấy ra trại sớm do nhân thân, lý lịch tốt, cha anh là liệt sĩ hy sinh trong kháng chiến chống Pháp.
Về làng với hai bàn tay trắng, ở với mạ trong căn chòi tranh vách đất như trước đây ba mươi năm, làm kế toán ở hợp tác xã nông nghiệp thôn, thật quá sức vất vả, khổ cực, cơm không đủ ăn, áo không có mặc. Người làng An Phú bao năm tập kết ra bắc, bây giờ một số trở về, một số người đi lính miền nam cũng trở về quê, đất chật người đông, thiên tai, dịch họa, nắng thiêu đốt đồng ruộng lũ lụt liên miên, rét cắt da cắt thịt. Đã thế Văn là một trong số ít sĩ quan chế độ cộng hòa về sinh sống ở làng, lời qua tiếng lại khổ sở trăm bề.
Một đêm khuya gió rét tháng chạp, anh bàn với mẹ bỏ trốn vào nam sinh sống. Đi theo mẹ con cùng một số người làng vào Vũng Tàu Bà Rịa xin làm công nhân cạo mũ cao su ở nông trường Cù Bị.
Cùng một chế độ nhưng ở miền nam cuộc sống thoải mái hơn nhiều, có lao động, có cơm ăn áo mặc, không phải đi học, hành thâu đêm suốt sáng như ở làng quê.
Được tin  Bích đang ở Cần Thơ với con gái, chồng bị mất trong trại cải tạo do bệnh sốt rét. Được nghỉ phép năm, Văn đón xe về Cần Thơ thăm. Cuộc sống hai mẹ con Bích có phần chật vật, nhưng cả nước, dân chúng đều như thế, chế độ bao cấp, chi dùng bằng tem phiếu, người sao ta vậy, lâu lâu hai ông bà nội ngoại viện trợ cho chút đỉnh nuôi cháu, Bích đi dạy học nhà cửa khang trang có từ trước. Hỏi Văn đã có vợ chưa, Văn trả lời: mãi mãi đợi Bích. Lá thư Văn viết ngày xưa, bây giờ Văn đọc lại cho Bích nghe.
Bích bảo: anh thuộc lâu ghê, lúc đó hai đứa chỉ biết ưng nhau, nhớ nhớ, thương thương thế thôi, chứ có dám hành động chi mô, vì chúng mình còn nhỏ quá.
Văn bảo: bây giờ hai đứa mới hơn ba mươi tuổi Bích muốn tỏ thái độ, hành động gì cũng chưa muộn.
_ Hồi cha mạ gã em cho ba bé Uyên thì em chỉ biết đồng ý, chứ mới gặp có biết yêu thương chi mô, mà cũng con cái đàng hoàng, có con rồi yêu cũng được. Anh ở đây chơi với mẹ con em vài bữa, rồi lên trên đón mạ về đây với mẹ con em. Ở đây cá tôm, gạo củi, rau trái tha hồ nên dân miền nam họ sống thoải mái lắm, anh về đây rồi xin vào bệnh viện làm, nhà nước thiếu y, bác sĩ nhiều lắm tội vạ chi mà đi cạo mủ cao su cho khó nhọc.
Văn về thưa với mạ là đã có vợ, con rồi.
Hiền thất sắc: cái thằng ni, mi mới đi ta bà mô mấy ngày, chừ về nói có vợ. Chứ vợ con ở mô, mi lấy răng chừ?
_ Thì mấy năm trước mạ cứ hối thúc con lấy vợ, bây giờ con có vợ, con gái con đã sáu tuổi, đang ở Cần Thơ.
_ Rứa răng con không nói chi với mạ?
_ Nói chi được, cứ đi đánh đá liên tục, rồi tù tội, rồi chạy giặc đói bây giờ đã tạm ổn con thưa với mạ, chuẩn bị sang lại căn nhà cho người ta, về Cần Thơ ở với con dâu, cháu nội.
_ Làm chi thì làm, nhưng phải có cưới hỏi đàng hoàng nghe con. Mạ có dành dụm được mấy chỉ vàng, chừ con tổ chức mời bên nội, bên ngoại, bà con bạn bè đến dự, ra mắt ông bà tổ tiên khuất mày, khuất mặt, người ta mới hiểu công lao của mạ sinh dưỡng nuôi nấng, nay con khôn lớn nên người mần chi cũng phải giữ cái đức, cái đạo làm người đó con ạ.
Văn lựa ngày chủ nhật đưa mạ về Cần Thơ. Ra đón hai mẹ con ở bến xe, o Hiền ôm lấy Bích mà khóc.
Văn nói: Bích bây giờ là con dâu của mạ đó, mạ chào cháu nội đi, về đến nhà rồi hãy khóc.
Bích nói: mấy năm trước em và Văn thương nhau, nhưng chị không dám đi hỏi em cho Văn, để em đi lấy người khác, bây giờ ba bé Uyên mất, Văn nói thương yêu em còn hơn hồi xưa nữa. Vậy em xin phép cho em gọi chị là mạ nghe.
Hơn mười năm sống chung trong nhà Bích, mười năm xa cách, bây giờ nghe Bích gọi mình bằng mạ, o Hiền cảm động quá, mừng mừng tủi tủi…
_ Dì nói rứa chứ mần răng tui dám đi hỏi dì cho thằng Văn được, chú thím la rầy chết, không khéo còn đuổi tui ra khỏi nhà chứ chẳng chơi.
_ Mạ không biết chứ hai con thương nhau từ hồi nhỏ, vì chuyện ở quê mình còn giữ kẽ “môn đăng hộ đối” nên con mới lấy chồng, chứ con biết anh Văn sau này thế nào cũng khá giả, giỏi giang hơn người, học chung một lớp mà môn nào anh ấy cũng dạy con được, người lại cao ráo, đẹp trai như ri thiếu chi cô mê mệt. Chừ hai con nguyện yêu nhau, ăn đời ở kiếp sống bên nhau, không rời nhau nữa. Nay mạ cũng đã trên năm mươi tuổi rồi, mạ ở nhà với cháu để hai con làm lụng nuôi mạ, bù lại thời gian mạ hy sinh tuổi thanh xuân lo nuôi anh Văn ăn học.
Văn có bằng chứng nhận y sĩ trong quân đội cộng hòa. Cha là liệt sĩ nên xin được vào làm ở bệnh viện tỉnh, Bích đi dạy học, bé Uyên vào học lớp một, o Hiền nhìn con cháu hạnh phúc, nhưng thâm tâm o vẫn mong cho có cháu trai để họ Lê có người nối dõi.
Tháng 6 năm 2010 o Hiền bị bệnh rồi mất ở Cần Thơ. Vợ chồng Văn đưa linh cửu của bà về quê an táng theo ý muốn lúc mạ còn sống, ngoài vợ chồng Văn còn có vợ chồng bé Uyên và cháu ngoại, có cháu nội trai là Lê Nguyễn An Phú nay là bác sĩ.
Hai vợ chồng an táng mẹ xong lại nhận được thư mời họp mặt của cựu học sinh Nguyễn Hoàng lần đầu tại Quảng Trị.
Thật là một ngày hội lớn trong đời, xa quê đã ba mươi năm nay trở về thăm trường cũ, thầy cô, bạn bè. Trường Nguyễn Hoàng nay đã thay tên, thầy hiệu trưởng cũng đã mất nhưng được tề tựu bên nhau, tay bắt mặt mừng thầy cô, bạn hữu, bao kỷ niệm vui buồn của thời đi học.
Về lại Cần Thơ hai vợ chồng làm bài thơ gởi ban biên tập Hương quê nhà do ban liên lạc cựu học sinh Nguyễn Hoàng tại Sài Gòn biên soạn cuối năm Canh Dần. Bài thơ có đề tựa:
Bây giờ vẫn nhớ
Vẫn con sông ấy ngày xưa
Vẫn con đường ấy sớm trưa đến trường
Vẫn tà áo trắng thân thương
Vẫn trời mây nước…..vấn vương một thời.
***
Bây giờ tình vẫn đầy vơi
Bây giờ vẫn nhớ Nguyễn Hoàng ngày xưa
Bây giờ vẩn đục nắng mưa
Bây giờ kỷ niệm…..vẫn chưa phai mờ
***
Nhớ chiều con nhện giăng tơ
Nhớ chiều phượng đỏ sân trường chia xa
Nhớ chiều chinh chiến phôi pha
Nhớ chiều tiếng sáo….thiết tha….ngậm ngùi
Sài Gòn tháng 4 năm 2012

ÔI TÊN TÔI... ... ...
CHSNH. Phan Thị Quỳ
          Có ai đó đã nói với tôi rằng cái tên là một mặc khải của Thượng Đế . Tôi không biết liệu điều đó có đúng với tất cả mọi người? Riêng tôi từ khi biết nghĩ ngợi tôi đã thấy buồn buồn-cái tên tôi không gợi lên một diều gì. Tôi nhìn các bạn chung quanh, họ là những loài hoa hương sắc: Hồng Nhung, Cẩm Tú , Lan Đài, Kiều Trang... hay chí ít cũng là Mai, Lan, Huệ, Hằng....Cả họ tên tôi chỉ vẻn vẹn có ba chữ, chữ nào cũng ngắn cũng nhỏ bé,nằm lọt thỏm trong danh sách lớp học, nhỏ bé như tôi lúc bấy giờ. Tôi đi học sớm so với tuổi. Tôi dã nằm lăn ra giữa sân nhà kêu khóc và không chịu ăn cơm vì không dược đi thi vào lớp đệ thất trường tỉnh. Tôi nhớ mãi cha tôi, có lẽ người thương lắm khi nhìn con nên dù là một nông dân rụt rè nghèo khổ, người cũng đã lên tận xã năn nỉ họ làm laị giấy khai sinh cho tôi.Vui mừng khôn xiết và nghĩ tới chuyện đổi tên, nhưng dù còn bé tôi vẫn nhận ra sự nhọc nhằn của cha tôi và không nỡ chồng thêm gánh nặng lên vai người.Sáng hôm cha đi, tôi cứ thấp thỏm đợi chờ.Thời gian lâu quá đổi với một con bé 10 tuổi là tôi , cứ chạy vào chạy ra ngóng tiếng xe đạp cọc cạch cúa cha .... Rồi lạy Phật, ơn Chúa, cha đã về, tôi không dám thở, mở to mắt chờ đợi....  mẹ hỏi....  cha gật đầu, mẹ cười nhẹ nhỏm.... Tôi nhìn hai người...lòng  rộn ràng nghĩ về ngày được đi thi vào ngôi trường tôi mơ ước.....Cầm tờ giấy mong mỏng trên tay, tôi tìm ngày năm sinh, thế là ổn ,ôi những chữ số của niềm vui. Tôi đọc tên tôi, vẫn là vậy, ba chữ gọn gàng , nho nhỏ, thôi.... có lẽ là mặc khải của Thượng Đế rồi. Vậy là cô bé dễ thương với cái tên Quỳnh Như trong nhiều trang sách của Từ Kế Tường vẫn mãi là niềm hoài vọng trong tôi ...
             Ngày thi ,ba bài Toán tôi làm không trọn vẹn, bài Sử sai mất một câu, bài Văn không chắc lắm.Tôi không dám nhìn cha mẹ, hai người không nói gì, bữa cơm chiều lăng lẽ, tôi chỉ muốn mình được biến mất trên cõi  đời nầy.Rồi những ngày dài lê thê ...sách vở hửng hờ, nắm chuyền thẻ nằm im lìm một góc, nghe ngóng.....Nhưng rồi có lẽ các thầy cô đã thương tình cha tôi lặn lội, tôi khổ sở nhỏ bé mà cho đủ điểm (?) Thông báo về, cha mẹ tôi vào  ra, cười nói với xóm làng (ở xóm nhỏ của tôi, đây đúng là một sự kiên trọng đại) và từ đó tôi dược nghe tên mình nhắc đi nhăc lại để “làm gương”- coi con bé... nó nhỏ tuổi mà...con liệu đó...- tôi vừa mừng vừa lo- cũng thấy vui vui, nhưng lo bạn bè chúng nó trách vì mình mà nó bị rầy la, nhắc nhở suốt ngày...Và từ đó tôi... mở lớp dạy thêm - nghe buồn cười quá đổi. Thế là môĩ tuần hai ba buổi bọn trẻ ngồi lại, đủ các tuổi - tất nhiên là dưới 10 , để nghe tôi “giảng bài “. Tôi nhớ mình cũng có một cây thước nhỏ trong tay, bảng là cánh cửa lớn mở ra mặt trong, 4,5 bạn ngồi xếp bàng dưới đất, lắng nghe chăm chú. Tôi nhịp nhịp cái thước nhỏ trong tay và nói một điều gì đó. Và 40 năm sau , tôi bây giờ không hình dung nổi mình đã nói gì trong những buổi ấy... nhưng đó là lớp học đầu tiên của tôi và như là một cái nghiệp vận vào, những lớp học đã theo tôi đi hết cuộc đời...
 Tôi vẫn nhớ thỉnh thoảng có một chiêc ô tô chạy qua - thời ấy nghèo lắm, làm gì có nhiều ô tô - ánh đèn đường hắt lên tường, và những hình ảnh chuyển động, chúng tôi gọi là phim, đang học mà có phim- lúc xe chạy qua - “cô giáo” ngừng nói để “học sinh” xem phim...
           Lúc tôi đã dần quen với con đường từ nhà đến trường , tôi thấy có một ngôi nhà to , có nhiều người vào ra và tiếng nhạc, cha tôi  bảo đó là rạp phim .Tôi nghĩ chắc trong đó cũng là những hình ảnh như lớp học của chúng tôi đã từng xem thôi và tôi cũng nghĩ con đường, dãy phố, những ngôi nhà tầng kia chỉ dành cho những người lớn và những người không phải... như tôi, và con đường Gia Long ven sông với những bông phượng vĩ rực rỡ gọi hè cũng chỉ dành cho những người có cái tên kiêu sa, đài các cùng với một khuôn mặt và dáng vẻ ưa nhìn mà Thượng đế đã ưu ái riêng ban.
Còn tôi... thôi, có lẽ tôi sẽ nói chuyện gì vui hơn chút vậy.
Những buổi học đầu tiên, sau bao ngày luyện tập khó nhọc, tôi được đạp cái xe đạp nhỏ - là phần thưởng của cha tôi - một mình ( với cha tôi đi kèm bên ngoài đường). Tôi hân hoan rộn ràng trong bộ đầm mới trắng tinh ( tôi biết chắc là mẹ tôi đã chắt chiu dành dụm mãi ). Các bác trong xóm nhìn theo, mẹ tôi lại cười cười, cha tôi trông có vẻ nghiêm nghị lắm – ngày đầu tiên đưa tôi đến trường TRUNG HỌC mà lại – tôi thấy lo lo, không biết liệu có tên mình trong danh sách trường, lớp không? Nếu bỗng dưng... chao ôi, tôi không dám nghĩ tiếp. Lạy Phật trăm lạy... Tôi chỉ lo về ba mẹ tôi. Con đường quá dài trong nỗi hoang mang và những vòng xe nhỏ bé của tôi, và rồi ... Ơn Chúa! Cha tôi nắm lấy tay tôi, tôi cảm nhận nỗi mừng vui của Người khi thấy ba chữ Họ Tên tôi trong danh sách lớp 6/8, hẳn là Tên tôi rồi, không ai khác nữa, họ là Anh Đào, Xuân Lan, Thu Cúc ... cơ mà!
Rồi cô chủ nhiệm đến, cô xinh đẹp và dịu dàng, cô nói về tên cô, tất nhiên là một cái tên hay và gợi lên bao điều! Cô dặn dò nhiều thứ và nhắc chúng tôi thêu tên lên áo, thêu chỉ màu đỏ ( cô nói lớp đệ nhị màu tím và đệ nhất màu xanh ),bao giờ thì tôi được thêu tên màu tím rồi màu xanh nhỉ? Từ đó trong sân trường tôi rụt rè đứng ngắm những cái bảng tên màu tím màu xanh loáng thoáng đi qua, không nhiều lắm, đó là các anh chị xuất sắc mà. Tôi ngắm những tà áo dài tha thướt với khuôn mặt xinh xắn và mái tóc ngang vai. Tôi chỉ có tóc ngắn và mặc đầm, khuôn mặt tôi thì ... chắc chỉ có nét ngại ngần, âu lo.Mẹ tôi bảo con hay ăn chóng lớn , học hành ngoan, tóc sẽ ngang vai, mẹ cho may áo dài, tôi mong mãi một ngày tóc chấm ngang vai... Tôi đi học cùng các bạn nữ có vẻ lớn hơn tôi và họ ríu rít đủ thứ chuyện, tôi chỉ lắng nghe và nghĩ ngợi, có những chuyện tôi không hiểu hết...Rồi những anh đệ tam đệ nhị, họ thật thông minh, nhanh nhẹn chuyện trò với thầy cô, thầy cô có vẻ quý lắm.
          Có lẽ do tôi nghĩ ngợi nhiều nên học sút đi thấy rõ, mà bạn bè thì nhiều người giỏi quá, tôi chỉ học được ở trường làng thôi, vị thứ tôi bây giờ gồm cả 2 chữ số. Tôi càng buồn lo hơn mỗi khi cuối tháng thông báo xếp hạng - những ngày thứ hai, dưới cờ, cô hiệu trưởng gọi tên tôi ba chữ rõ to để lên nhận bằng danh dự ( màu đỏ, xanh, hoặc vàng) đã là qúa khứ xa xôi. Đó là những kỷ niệm đẹp nhưng bây giờ làm nhức nhối tim tôi. Tôi đã từng làm những bài toán dài gồm nhiều phép tính cộng trừ nhân chia đúng lắm, nhưng sao bây giờ tôi không hiểu nổi làm sao để biết ( và chứng minh cho mọi người biết) 2 đoạn thẳng bằng nhau. Tôi sợ lắm 2 từ “chứng minh”và thầy Aí, thầy Tống Phước Aí kính mến của tôi, tôi thấy lưng áo thầy đã lấm tấm mồ hôi. Tôi ngồi bàn đầu,vì bé mà,thấy tôi khổ sở,không đành, thầy thường giảng thêm cho tôi cặn kẻ, kiên nhẫn chờ đợi câu trả lời của tôi dạ em hiểu rồi....có lẽ thầy thất vọng lắm khi tôi cứ thấy mơ hồ 2 góc kề,bù xích lại gần rồi lại xa nhau trong trí tưởng nhỏ bé và dại khờ như tôi.Tôi thật có lỗi khi làm một học sinh không hiểu bài ...
Tôi không biết giờ thầy đang ở nơi đâu. Tôi vẫn thường hỏi thăm mỗi khi có dịp và không rõ thêm gì nhiều.Hình ảnh thầy vẫn mãi trong ý nghĩ ngại ngần của tôi .Thầy kính yêu,em mãi nhớ thầy như vẫn nhớ em vẽ cái bàn có 4 chân thẳng ra từ 4 góc, có lẽ thầy vừa buồn vừa buồn cười, khái niệm mặt phẳng và không gian gì gì đó luôn rối rắm trong em...Em nhìn thầy cô trên bục giảng, lòng khâm phục biết bao, thầy biết nhiều thứ, dạy cả Toán ,cả Vạn vật, thỉnh thoảng có cô giáo tiếng Anh ngang qua cửa , gặp thầy chào và nói với nhau câu gì đó. Ôi biết đến bao giờ em mới được lớn lên ...cả hình hài và trí tuệ, thầy ơi???
          Và cả giờ tiếng Anh nữa, làm sao cô Sâm có thể nói nhẹ nhàng lưu loát đến vậy từ chỉ tháng Giêng , tháng Hai. Em nói được thứ ngày tháng nhưng còn tháng Giêng và tháng Hai , em nghĩ chỉ có cô và các bạn khác không thể là em, cái con bé có tên ba chữ nhút nhát,dại khờ nầy.
           Cô ơi, bây giờ em đã nói được từ tháng Giêng,tháng Hai, tuy không được bằng cô ( mà làm sao bằng được cô nhỉ) . Bây giờ các con em đã lớn, em thường kể chuyện ngày xưa mẹ đi học và cái bàn mẹ vẽ , chúng nó cười vang,sao mẹ dở tệ đến vậy, em chỉ biết cười buồn, có lẽ do cái tên em nó vận vào?
          À cô ơi, em cũng có hoc trò, có em làm thơ tặng, nói về một loài hoa (trùng với tên em, lạ quá! ) sắc vàng ấm, nhuỵ thẫm màu, một loài hoa dại cô ạ, cô có từng nghe?
Em không biết ai đọc những dòng nầy , đến đây có thấy nản lòng. Em nói lan man quá cô nhỉ. Chả là những dòng cảm xúc miên man tìm về - em nhớ quá một ngày xưa... Bây giờ biết ai còn ai mất , bao thăng trầm dâu bể của đời người , cuộc đời cuốn ta đi , một ngày lại thấy ta về. Vâng, hôm nay tôi tìm về, đọc những dòng tâm sự của thầy cô, bạn bè, xúc động rưng rưng... tôi lại thấy mình nhỏ bé rong ruỗi trên đường dài tít tắp, hành trang là kỹ niệm,là ký ức mang theo,là nostalgia một đời mình... ôi từ nầy làm tôi buồn quá đổi.... Các con tôi vẫn bảo mẹ thật là...... ừ nhỉ, bao nhiêu xuân qua hạ về tôi vẫn chỉ là tôi ......
         Và những tưởng dòng đời vẫn vậy, thầy Ái còn vất vả nhiều vì tôi và cô Tịnh Muội cứ phải nhắc đi nhắc lại động từ quy tắc thêm ed ở thì quá khứ... nhưng, bao biến động đã xảy ra, đổi thay quá nhiều, tôi lưu lạc quê người và vào một lớp mới ở vùng định cư, có cả những bạn nam , chao ôi là ngại . Nhưng có lẽ do Trời Phật thương tôi trải qua hoạn nạn chiến tranh mà ban phép mầu. Tôi viết câu so sánh, thầy Mân gật gù, hỏi em học với ai, tôi rộn rã và thoáng một chút tự hào - lần đầu tiên trong đời, kiêu hãnh trả lời......cô Muội,cô Sâm làm sao biết được em vui đến chừng nào...và dần dần tôi hiểu ra mọi chuyện,dù chưa thật nhiều lắm, nhưng rồi cuối tháng, cuối năm tôi đã loại đi được chữ số đầu trong hai chữ số của bảng xếp hạng và nổi hân hoan về lại trong tôi và cái bảng danh dự màu vàng và Họ Tên tôi,ôi tôi không còn nghĩ ngợi nhiều về cái tên tôi nữa, hẵn đó là cái tên cha mẹ tôi yêu thích và tìm mãi cho tôi,hẵn là cái tên ấy phù hợp nhất trên đời nầy mà Thượng Đế đã mặc khải với tôi.Hỡi cha mẹ của tôi và nụ cười trên môi Người. Ôi đường về hoa cỏ và sắc nắng lung linh và tiếng chim chiều luýt chuýt niềm vui ngan ngát đất trời,ôi cả đất trời hoan ca gió lộng và những cái Tên tôi trang trọng viết in hoa hết thảy trong tâm trí: Thầy Aí, Thầy Mân, Thầy Thăng, Thầy Nam, Thầy Hoá, Thầy Hạnh, Thầy Bôi , Thầy Quang, Thầy Mãi, Thầy Vĩ và Cô Sâm và Cô Tịnh Muội.....(và tôi cố không nghĩ đến những lời nầy: em còn phải cố gắng về môn Hình) dạ em biết em còn phải cố gắng nhiều hơn nữa thầy cô ơi!!!
          Rồi ngày tháng dần trôi, thời gian và nhiều con số đi qua đời mình, buồn vui muôn nổi, tôi lại quay về chốn xưa, con đuờng dường như nhỏ lại trong tâm tưởng, rạp phim đã không còn , thế là tôi chưa một lần được vào trong ấy, ngôi trường mới dựng mang tên mới, cha mẹ tôi đã từ tạ ra đi,tôi khóc thương Người trong nổi nhớ khôn nguôi, hẵn nơi xa kia Người vẫn dõi theo ... tôi có bao giờ tôi lớn lên???
           Rồi tôi có nhiều em học sinh nhỏ và trường lớp của tôi, ngày ngày trên bục giảng tôi vui một niềm vui công việc, tôi buồn một nổi buồn hoài vọng xa xôi, tôi nhớ, nhớ một sáng mai rực nắng, mắt mẹ cười lấp lánh niềm vui, cha tôi dắt xe ra ngõ, nho nhỏ xinh xinh, từng vòng xe đưa tôi đi, con đường đến trường có lá me bay, có hoa vàng rực rỡ - một loài hoa dại mang tên tôi, có lòng tôi thao thiết gọi ...... NGUYỄN HOÀNG ơi...!!! !!!.
PTQ
MÙI CỦA HOA HỒNG
Nguyễn Đức Tùng
Năm mười lăm tuổi, tôi nhận được bức thư tình của người bạn gái cùng lớp tiểu học. Sau này lớn lên hai đứa học hai trường khác nhau, nhưng mỗi khi đi ngang chợ tỉnh xuống bến đò, tôi vẫn gặp cô bé đứng sau chồng vải cao ngất, giúp mẹ bán hàng, mắt đen lánh. Mặt đỏ bừng, tim đập thình thịch, tôi vừa đi vừa chạy vừa loay hoay tìm cách giấu bức thư thật kỹ. Nhưng giấu ở đâu? Chẳng có chỗ nào an toàn cho tôi cả. Cuối cùng, trong phòng vệ sinh nhà trường, tôi xé vụn bức thư, trợn mặt nuốt tất cả vào bụng.
Thật là một hành vi đáng xấu hổ.
Tôi tìm cách chuộc lỗi. Nhưng vốn lười biếng, tôi lần lữa mãi. Các nhà tâm lý học cho rằng những kẻ lười biếng chỉ có thể hoàn thành công việc dưới áp lực, như khi đứng trước các kỳ thi, trong điều kiện kỷ luật, ngoài ra thì họ là những người lông bông, không có đường lối gì cả. Bởi thế năm lớp chín, khi thầy Đỗ Tư Nhơn mới từ Đà Lạt về, ra mắt học sinh trong giờ đầu tiên bằng đề bài luận văn: “Vương Dương Minh có nói: người không có chí như thuyền không lái, như ngựa không cương, trôi dạt lông bông không ra thế nào cả. Các em hãy bình luận câu nói trên”, thì tôi giật mình, tưởng thầy ám chỉ mình. Buổi sáng thứ hai, khi học sinh toàn trường tập trung ngoài sân xếp hàng, thầy Nhơn rẽ lối đến gần, dặn: em có bài thơ nào đưa cho thầy đăng vào giai phẩm xuân sắp tới. Mấy thằng bạn lớp mười ban toán của tôi đứng quanh lác mắt: dân học toán mà mê thơ. Thầy là giáo sư chủ nhiệm năm trước đó, thần tượng văn học của tôi, thầy hay cười nụ, mắt cũng cười, mái tóc bồng bềnh, râu mép để lún phún, thường tập cho học sinh hát các ca khúc của Trịnh Công Sơn và phong trào du ca, thầy giảng Kiều hay, say đắm. Giảng đến câu “khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang” thầy liền vẽ lên bảng đen một khuôn mặt tròn trịa, cặp lông mày dài và rậm, nhìn biết ngay là Thúy Vân. Thầy tả cô em quá đẹp nên đến khi minh họa cô chị, dù cố sức vẽ đi vẽ lại, vẫn không thể có một khuôn mặt đẹp hơn. Thật ra một năm trước đó, tết Tân hợi, giai phẩm xuân đã ra số đầu tiên, nhưng nghe nói năm nay ngoài giai phẩm, trường sẽ mở phong trào thi đua bích báo giữa các lớp và hội mùa xuân gồm nhiều sinh hoạt vui chơi, thể thao khác nữa. Trong giai phẩm năm trước, tôi có bài thơ được đăng, một bài lục bát, tôi ngượng không muốn cho ai biết, nên lấy cái biệt hiệu kỳ quái là Nguyễn Thị Thái Hư, mà anh tôi bảo là nửa con gái nửa đạo sĩ. Anh Dũng nói riêng với tôi: Quỳnh rất thích bài thơ đó, hỏi tác giả là ai. Quỳnh là chị Võ Thị Quỳnh, một trong hai người bạn gái cùng lớp được anh nhắc đến nhiều. Thật ra, tôi chẳng bao giờ nghĩ mình sẽ đi theo con đường văn học. Tôi là kẻ nhiều đam mê, môn gì cũng thích, nhưng không chuyên chú, khác với anh tôi là người có cá tính từ nhỏ, năm mười một tuổi đã quyết định trở thành một nhà văn. Chiều về nhà, ra vườn sau, ngồi vắt vẻo trên cây ổi trổ bông đầu mùa, tôi nặn óc viết bài thơ, để giữ lời hứa với thầy nhưng cũng ngầm chuộc lỗi với người bạn gái. Làm câu cuối xong, khoái chí, tôi tuột tay rớt từ trên cây xuống. Bài thơ được chọn đăng trong giai phẩm xuân Nguyễn Hoàng, vì vậy tôi được ban báo chí mời đến dự liên hoan đón Tết Nhâm Tý 1972.
Đêm văn nghệ bắt đầu lúc sáu giờ, trời tối sớm, vài giọt mưa nhỏ ấm áp, ngày giáp Tết phố phường thoang thoảng mùi hương trầm. Buổi chiều đi đò từ chùa sư nữ ngược lên chợ tỉnh, một người bạn mà tôi mới quen, Đỗ Huy Sanh, học sau tôi một lớp nhưng dáng điệu chững chạc phong trần, làm thơ trước tôi rất lâu, đọc bài thơ của anh, cũng được đăng trong giai phẩm mà tôi nhớ câu đầu tiên:
Mùa xuân còn gì không em?
Buổi chiều cuối năm giữa hai cơn mưa bụi hạt nhỏ li ti, mặt trời vẫn đi qua rực rỡ, nước sông đầy và xanh, mây trắng mây đen chen chúc, người ngồi sát chạm tay nhau trên mạn đò xâm xấp nước, mà không sợ chìm đò, mà giọng đọc thơ của chàng trên mặt sông vẫn vang xa nghi ngút. Trong hội trường lớn của dãy nhà giám học, trước mặt là sân trường, cũng là sân chơi bóng rổ, mấy dãy bàn đã được sắp xếp gọn ghẽ theo hình vòng cung kê dọc tường, không khí vui tươi hớn hở, kẹo bánh mứt, nước ngọt, nước trà được dọn sẵn. Ban văn nghệ, báo chí, khánh tiết, các thầy cô, học sinh lớp tú tài đi lại tất bật chuẩn bị chương trình. Tôi thuộc loại con nít nên chưa phải làm gì. Tiếng guitar thánh thót, tiếng thử giọng trên máy vi âm, tiếng mưa lắc rắc trên cửa kính đục mờ, những tà áo dài bay lượn, tiếng guốc ngoài hành lang, cười nói rộn ràng. Gần bên tôi là anh Nguyễn Văn Dũng, với bài thơ Bên giọt đông phai, anh Nguyễn Đặng Mừng, với truyện ngắn Đường về, anh Nguyễn Văn Trị, với bài thơ Mất ngôi. Riêng lớp tôi chẳng có ma nào vì dân chuyên toán không mấy ai viết bài cho báo văn nghệ. Tôi ngồi sau một bình hoa hồng nhỏ đỏ thắm.
Sân khấu có chậu mai vàng, phông màn giản dị nhưng trang trí điệu nghệ. Không gặp nhiều bạn quen, tôi im lặng lắng nghe các ca sĩ cây nhà lá vườn nổi tiếng trong chương trình Hát Cho Nhau Nghe trước đó vài tháng. Phong trào văn nghệ, du ca, hoạt động xã hội đang lan rộng, gây một không khí phấn chấn trong học đường. Trước đó vài tuần, mùa bão lụt, tôi được đi theo đoàn thiện nguyện cùng với thầy Lê Hữu Thăng về những thôn xóm bùn lầy nước đọng, tập làm công tác giúp đỡ bà con, phát quà biếu, thuốc men. Chuyến đi ấy dạy tôi suy nghĩ thêm về đất nước. Tuy vậy tuổi hoa niên của tôi còn tươi mới ngỡ ngàng quá, nên phần mơ mộng vẫn át đi phần băn khoăn thời cuộc. Tôi ngồi nghe những bản báo cáo: thầy Nguyễn Bảo, Lê Hữu Nam về công tác du lịch, thể thao, thầy Nguyễn Thị về khánh tiết, thầy Phan Văn Cẩn về văn nghệ, anh Thái Đào tổng thư ký có dáng đàn anh, nghệ sĩ, thay mặt ban đại diện học sinh. Thầy Nguyễn Bảo dạy tôi toán lớp bảy, vật lý lớp tám, sử lớp chín; giờ sử của thầy tôi mê tơi, nhất là khi thầy giảng về phong trào chống Pháp đầu thế kỷ hay giai đạo Nhật đảo chính. Đến đoạn Hoàng Hoa Thám bị giết, tôi ngồi khóc lặng lẽ, nhìn sang bên thấy thằng bạn tôi hằng ngày rất nghịch ngợm cũng dụi nước mắt. Thầy Nguyễn Thị dạy toán lớp mười vui tính, được học sinh thương mến. Mỗi môn học tôi đều có một thần tượng. Môn vạn vật là cô Thu Cúc, môn hóa là thầy Nguyễn Văn Bôi, môn Pháp văn là thầy Hồ Văn Phước, Lê Đình Ngân. Thầy Hồ Thế Vĩnh dạy tôi biết yêu thơ Đinh Hùng, Nguyên Sa, thầy Hoàng làm tôi mê vẻ đẹp của hình học. Rồi đến lễ phát giải thưởng các cuộc thi bích báo, thi thể thao, văn nghệ. Chương trình ca khúc tiền chiến và thanh niên. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy các thầy các cô đàn hát trên sân khấu, mới biết rằng thì ra sau khuôn mặt nghiêm trang mô phạm hàng ngày là những tâm hồn nghệ sĩ. Tiếp đó là mục đọc biểu diễn các bài được trao giải. Tôi còn nhớ những bài thơ và truyện ngắn của Lê Đình Thị Thành, Đỗ Huy Sanh, Thái Đào, Nguyễn Đặng Mừng, Nguyễn Văn Dũng và nhiều người khác nữa. Bài của Lê Đình Thị Thành mở đầu với câu:
Tôi ngồi bên dòng sông
Lắng nghe cơn buồn đến tự tình
Tôi không hiểu lắm nhưng thấy lạ và hay. Thật bất ngờ khi ban báo chí giới thiệu bài thơ của tôi cũng được giải thưởng và thầy Phạm Sửu diễn ngâm bài thơ ấy. Tôi lặng người, nỗi xúc động dâng lên. Tôi nhìn quanh, cô Thu Cúc dạy vạn vật quay lại nhìn tôi gật đầu. Cô dạy tôi năm đệ ngũ, tức là lớp tám, giảng bài hấp dẫn với giọng quyến rũ. Cô thường mặc áo dài có nhiều hoa, da mặt trắng hồng, cặp mắt sáng, thường cúi xuống trò chuyện với từng học sinh trong giờ học. Chỉ có cô là để ý tôi đang xúc động. Trong đời, người ta chỉ có một vài lần như thế. Giọng của thầy Sửu ấm áp, ngọt ngào, tôi để ý thầy phát âm tách bạch như cân nhắc từng chữ.
Quên rồi màu lá cây xưa
Chút thương nhớ đó vàng chưa khi về
Tôi học được ở thầy cách đọc thơ, cách phát âm tròn chữ như thế nào hôm đó. Vừa tranh thủ nhai bánh kẹo lia lịa, tôi vừa liếc qua tờ báo xuân. Trong bài của cô Võ Thị Hồng, có một câu mà sau này nhiều năm tôi vẫn còn nhớ ý: xưa nay có biết bao nhiêu biến cố xảy ra vào những ngày Tết đến. Câu ấy ngay trong tiếng đàn sáo, tiếng ngâm thơ và không khí tưng bừng, vẫn làm tôi thoắt bần thần nghĩ ngợi. Tôi ngồi sau lưng thầy Phan Phụng Thạch, giáo sư quản thủ của thư viện mới thành lập, nơi tôi thường ghé qua mỗi chiều tan học sớm, cầm những cuốn sách mới, thơm ngát mùi giấy, mùi mực in của các nhà xuất bản Phượng Giang, Khai Trí, Nguyễn Đình Vượng, An Tiêm, những cuốn sách in đẹp của Nguyễn Hiến Lê, Bùi Giáng, Duyên Anh, Phạm Công Thiện. Tôi ngồi giữa bạn bè, thầy cô, nghe mùa xuân đang nhón gót bước đi dịu dàng trên hạt dưa hấu đỏ hồng vương vãi khắp sàn nhà, cõi lòng rung động, nhìn thấy niềm vui của sách vở. Niềm vui sách vở là tài sản của học trò xứ nghèo, niềm vui lớn lao, giản dị, chân thành, như người bạn đường chung thủy đi mãi với ta cho đến cuối đời. Gần nửa đêm, kết thúc liên hoan, mọi người vẫn còn lưu luyến nấn ná trò chuyện. Lòng phấn khích nhưng không biết cách nào để biểu hiện, tôi hái một bông hồng trước mặt nhét vào túi áo sơ mi trắng, cố gắng giữ lại thời gian đã mất. Le temps perdu. Ra về hơi nước từ sông bay lên lành lạnh, nhưng sau túi áo ngực, tim tôi đập ấm áp. Tôi và anh tôi bước trên hè phố, đó là lần đầu tiên sau nhiều tháng hai đứa có dịp cùng đi từ trường về nhà, đi bộ dọc đường Quang Trung, đứng tần ngần trước quán Văn, vẳng ra điệu nhạc tiền chiến, mộng đời phiêu lãng giang hồ, nhạc Trịnh Công Sơn, đại bác đêm đêm dội về thành phố, lên cầu qua sông Thạch Hãn, trời càng khuya càng ấm lại, sáng dần lên, một bầy chim về núi muộn bay rào rạt gần mặt sông hót lảnh lót.
Tôi chưa có dịp nào để gửi bài thơ cho người bạn gái. Bài thơ ấy thật ra cũng không phải là thơ tình. Mười lăm, mười sáu tuổi, tôi còn quá nhỏ dại. Vào tuổi ấy con gái có thể trưởng thành hơn và nghĩ đến nhiều chuyện, nhưng tôi thì không. Sau này, tôi cũng không có dịp nào để viết một bài thơ tình thực sự và hay ho, dù đã nhiều lần đau khổ vì phụ nữ hay đã làm cho họ đau khổ, để có dịp gửi tặng người thiếu nữ thị thành đem lòng đầu đời đáng quý dành riêng một đứa học trò điền dã. Trên mặt bìa giai phẩm có bức tranh của họa sĩ Bửu Chỉ ở Huế, tả một ngày hội có trẻ em ca hát dưới đàn chim lượn trong mặt trời, ngọn cờ đuôi nheo tượng trưng thuở thanh bình dân tộc, màu hồng điều rực rỡ. Có những bài tiểu luận, phỏng vấn, thơ hay truyện ngắn của các thầy, các cô, các bạn mà tôi đọc một hai lần nhưng vẫn nhớ nhiều câu. Trong giai phẩm ấy cũng in đậm một thông báo có lẽ ít người chú ý: Những người làm thơ sẽ: lại gặp nhau giữa mùa gió cát trong tuyển tập thơ mùa hạ do ban báo chí Trung- học Nguyễn- Hoàng thực hiện.
Hè năm ấy, mùa gió cát quả nhiên lại đến, nhưng những người làm thơ không gặp nhau như lời hẹn, tan tác mỗi người một ngả trong gió cuốn mịt mù, tuyển tập thơ mùa hạ không bao giờ ra đời. Giai phẩm xuân là đứa trẻ mới lớn, là những tác phẩm có thể hãy còn non nớt của học sinh, nhưng đánh dấu một bước trưởng thành trên quê hương gian khó. Đó là tập san văn chương cuối cùng của một thời buồn vui lẫn lộn, đêm liên hoan văn nghệ cuối cùng. Hai tháng sau, sẽ là buổi học cuối cùng.
Tôi yêu những mùi thơm. Mùi lá trầu bên giếng, lá chanh sau bếp, lá ổi xoa vào tay thơm nức, mùi sơ mi mới ủi xong, giấy mới của tiểu thuyết vừa rọc chương đầu. Mùi cà phê trộn lẫn với nước hoa rẻ tiền, từ những quán mới mở bên đường bụi đỏ, vẳng tiếng nhạc Pháp, Vũ Thành An, Phạm Duy, cam thảo trong tiệm thuốc bắc, mùi đất khô trong bàn tay nửa thô ráp nửa dịu dàng của mẹ, đặt lên trán ngày hâm hấp sốt. Trong túi áo sơ mi trắng học trò có gắn tên trường mà chị tôi thêu rất khéo bằng chỉ màu xanh, hoa hồng đã tàn, đã héo, đã khô, từ bao nhiêu năm trước, mùi thơm của nó đã nhạt trong không gian mờ tối, nhưng mỗi khi tôi quay nhìn lại, lòng quặn thắt, thì mùi hương ấy lại bay về, như một người đang ở nơi xa tìm cách tha thứ cho mối tình lầm lỡ, vói tay không kịp.
Nguyễn Đức Tùng
 ợm lặt


TRUYỆN NGẮN ...


1. Mẹ tôi! (Vương thị Vân Anh)


Mẹ tần tảo cho tôi khôn lớn, vai Mẹ nặng hơn khi tôi vào đại học.
Ba năm đại học xa nhà, tuần nào tôi cũng viết thư cho Mẹ, Mẹ cầm thư tôi mà rớt nước mắt, vui thật nhiều nhưng Mẹ tôi có biết tôi nói gì với Mẹ đâu.
Mẹ tôi không biết chữ! 

2. Lòng Mẹ (Kangtakhoa) Nhà nghèo, chạy vay mãi mới được xuất hợp tác lao động, Thanh coi đó như cách duy nhứt để giúp đở gia đình. Nhưng ảo mộng chóng tan. Xứ người chẳng phải là thiên đường. Thanh chỉ còn biết làm quần quật và dành dụm từng đồng. Để nhà khỏi buồn, trong thư Thanh tô vẽ về một cuộc sống chỉ có trong mơ. Ngày về, mọi người mừng rỡ nhận quà, Thanh lại tiếp tục nói về cuộc sống trong mơ.Đêm. Chỉ có Mẹ. Hết nắn tay, nắn chân Thanh rồi Mẹ lại sụt sùi. Thanh nghẹn ngào khi nghe Mẹ nói: "Dối Mẹ làm gì! Giơ xương thế kia thì làm sao mà sung sướng được hở con!"  
3. Khóc dùm Cô bé đi học về muộn, ba mẹ rất lo.
Khi thấy cô về, ba mẹ hỏi xem con đã đi đâu và làm gì?
- Con dừng lại giúp bạn con ạ. Xe đạp của bạn ấy bị hỏng. - Nhưng con đâu có biết sửa xe?
- Đúng ạ, nhưng con dừng lại để giúp bạn ấy khóc.
Cũng như cô bé đó, không phải ai trong chúng ta cũng biết sửa xe đạp. Nhưng chúng ta biết chia sẻ những nỗi lo âu và sợ hãi. Cuộc sống là một con đường rất dài, sẽ còn nhiều lần gặp cảnh "hỏng xe" lắm. Chúng ta hãy cùng nhau chia sẻ và an ủi
 

4. Sống ở đời (Phạm Quốc) Từ hồi còn học trung học, cha tôi có thói quen vặn đồng hồ chạy nhanh năm phút. Rồi vào đại học, ra trường, đi tìm việt làm, lập gia đình... cha tôi vẫn giữ thói quen như thế. Cha dạy tôi: "Phải luôn tôn trọng giờ giấc, và đừng để ai khó chịu vì mình chậm trể con ạ".

Năm ngoái được thăng chức giám đốc, cha thay đổi thói quen đột ngột: cha vặn đồng cho chạy chậm năm phút. Tôi thắc mắc, hỏi tại sao, cha trả lời: "Phải nghiêm khắc với chính mình nhưng lại rộng lượng với người khác con ạ!"
5. Bi kịch (Huỳnh Thanh Vân) Sạp anh chị ít khách vãng lai. ế ẩm, vốn cạn dần, nợ nần chồng chất. Anh mượn rượu giải sầu, sanh tật đánh vợ. Chịu đòn không thấu, chị làm đơn ly hôn. Bạn bè giải hoà, góp tiền cho chị mượn vốn không lãi. Chị bỏ hàng, chia giá sỉ cho người bán lẻ đầu chợ, nhờ vậy đắt khách. Anh bỏ rượu, giúp vợ tần tảo năm, sáu năm dài, nợ trả xong, nhà có đồng ra đồng vào, con cái học giỏi. Chị vui chưa kịp nở nụ cười, cơn đau ập đến... Cầm đơn thuốc trong tay chị ước gì mình dốt, không biết đọc hai chữ: ung thư.6. Đôi mắt Có một cô gái không may bị mù, quen biết một chàng trai, 2 người cùng yêu nhau, dến một ngày cô gái nói với chàng trai: "Khi nào em nhìn thấy được thế giới, em sẽ lấy anh". Rồi đến một ngày kia cô gái được phẩu thuật mắt và cô đã nhìn thấy được ánh sáng. Chàng trai hỏi: "Bây giờ em đã thấy được cả thế giới, em sẽ lấy anh chứ?"Cô gái bị ngẩn ngơ choáng váng khi thấy chàng trai cũng bị mù như mình. Cô ta từ chối anh. Chàng trai ra đi trong nước mắt và nhắn lại rằng: "Hãy giữ gìn cẩn thận đôi mắt của mình em nhé, vì đó là món quà cuối cùng anh có thể tặng em"

. 7. Điện thoại (Võ Thành An) Nhà không có điện thoại, anh Hai đi làm xa muốn thăm Mẹ phải gọi nhờ nhà hàng xóm. Người hàng xóm không vui lòng nhưng chẳng nói ra. Anh Hai ngại nên những cuộc gọi về cứ thưa dần.
Mẹ dành dụm tiền, nhà mắc được điện thoại. Cũng có khi do bận việc nên cả tuần anh Hai mới gọi về một lần. Từ ngày nhà có điện thoại Mẹ ít đi đâu, làm gì cũng loay hoay bên chiếc máy. Có người hỏi lý do, Mẹ nói: "Sợ thằng Hai gọi về mà không gặp được".
8. Nghịch lý (Văn Triều) Thanh minh. Bàn chuyện cải mộ Mẹ, anh Hai nói:
- Tôi góp một phần.
- Tôi một phần.
- Tôi cũng một phần.
Thím Tư chen vào, như đùa như thật: - Chú Út hai phần mới phải. Anh Tư đâu hưởng gì đâu?!
Chợt nhớ lúc nhỏ, mấy anh em ngủ chung với Mẹ. Đêm, muổi vào mùng cắn Mẹ. Mẹ không đập, sợ hụt, cứ để muổi cắn Mẹ no rồi sẽ không cắn các con. Ôi! Tình yêu của Mẹ là thế. Có chia phần bao giờ đâu!
 

9. Tóc sâu (Song Khê) Sáu tuổi. Tôi vọc tay trong vườn tóc ngoai, reo vang: "Con tìm được sợi trắng rồi!".
Mười tuổi. Tôi cột - mở búi tóc của ngoại, phụng phịu: "Mấy sợi bạc con nhổ hết hồi hôm kia, bữa nay lại chui ra nữa!". Mười lăm tuổi. Tôi vừa chạy ra cửa vừa nài nỉ: "Cho con đi chơi một chút đi ngoại. Lát nữa hãy nhổ tóc sâu".
Mười tám tuổi. Tôi nhìn lên mái tóc ngoại trắng phơ, bất động trong bức ảnh cao cao, rưng rưng thắp một điều ước.
 

10. Tiền mừng tuổi (Trương Đình Dạ Vĩnh) Năm bảy tuổi, Mẹ bảo đưa tiền Mẹ cất cho ... Nó đếm mấy chục ngàn tiền lì xì rồi miễn cưỡng đưa Mẹ cất giùm vì trước kia không bao giờ thấy Mẹ trả lời.
Năm mười tuổi, nó lén cất tiền không cho Mẹ biết. Mười tám tuổi, nó mang nổi nhớ quê hương bước vào đại học ở tận miền trong xa xôi.
Tết. Ký túc xá vắng hoe. Phương bắc xa xôi nó không về được. Nó nằm co trên giường cằm giấy nhận tiền của Mẹ mà thấy ân hận, xót xa.

 11. Khóc (Bùi Phương Mai) Vừa sinh ra đã vào trại mồ côi, trừ tiếng khóc chào đời, chồng tôi không hề khóc thêm lần nào nữa.
Năm hai mươi tuổi, qua nhiều khó khăn anh tìm được Mẹ, nhưng vì danh giá gia đình và hạnh phúc hiện tại, một lần nữa bà đành chối bỏ con. Anh ngạo nghễ ra đi, không rơi một giọt lệ.Hôm nay 40 tuổi, đọc tin Mẹ đăng báo tìm con, anh chợt khóc. Hỏi tại sao khóc. Anh nói:
- Tội nghiệp Mẹ, 40 năm qua chắc Mẹ còn khổ tâm hơn anh.
12. Nói dối (D.A.D) Ngày đó nhà nghèo Cha mất , Mẹ tần tảo nhưng không đủ ăn. Để con có bữa ngon, Mẹ gởi con về giổ họ. Giữa đám cúng đông vui, chẳng ai đoái hoài, con bơ vơ lạc lõng... Về nhà Mẹ hỏi con né tránh: "Dạ vui! Cô bác mừng con...!!!". Lớn lên, con đi làm xa, tạm gọi là thành đạt. Ngày giỗ họ con về cùng con trẻ, mọi người vui gặp gỡ, chăm sóc đủ điều, từ miến ăn, chiếc bánh...
Về nhà nhìn ảnh Mẹ con thấy lòng rưng rưng.
 

13. Chung riêng (Nga Miên) Chung một con ngõ hẹp, hai nhà chung một vách ngăn. Hai đứa chơi thân từ nhỏ, chung trường chung lớp, ngồi chung bàn, đi về chung lối. Chơi chung trò chơi trẻ nhỏ, cùng khóc cùng cười, chung cả số lần bị đánh đòn do hai đứa mãi chơi. Đi qua tuổi thơ với chung những kỷ niệm rồi cùng lớn lên...Uống chung một ly rượu mừng, chụp chung tấm ảnh...cuối cùng khi anh là chú rễ còn em chỉ là khách mời. Từ nay, hai đứa sẽ không còn có gì chung nữa, anh giờ là riêng của người ta...
14. Tình già (Nguyễn Thái Sơn) Đêm tối đen.Tiếng con chim cú kêu đâu đó ngoài cây bàng. Ông khó ở trong mình đã mấy hôm. Bà lọ mọ tìm cây são rồi đẩy đưa bâng quơ trong vòm lá. Con chim cú vỗ cánh bay. Một hạt bụi sa vào mắt bà... Ông trách: "Nó kêu mỏi miệng rồi nó đi, bà đuổi làm gì cho khổ con mắt vậy?". Hạt bụi cộm lắm nhưng bà không thấy đau; móm mém cười, bà đáp: "Lỡ ông bỏ tôi lại thì sao?".
15. Ngày sinh nhật đầu tiên (Xuân Vy) Tối nay bé buồn xo. Mẹ gặng mãi, bé nũng nịu: "Hôm qua, sinh nhật cái Na, nó được tặng nhiều đồ chơi đẹp! Sao con không có sinh nhật, Mẹ nhỉ?". Mẹ lặng thinh mắt đỏ hoe! Sợ Mẹ khóc, bé vỗ về: "Đừng khóc Mẹ nhỉ! Bé không đòi sinh nhật nữa đâu!". Bỗng nhiên, Mẹ ôm chầm lấy bé nức nở. Bé ngơ ngác rồi khóc ào theo.
 ... Ngày ấy, cái ngày mà toà án buộc người đàn ông phải đợi cho bé đủ 12 tháng tuổi mới ký quyết định ly hôn. Và ngày sinh nhật đầu tiên của bé đúng vào ngày Mẹ bồng bé chết lặng giữa chốn pháp đình.

 16. Mưa đầu mùa (Nguyễn Thanh Xuân) Những cơn mưa đầu mùa thường ập đến bất ngờ, nước tuôn xối xả. Hàng hiên nhà tôi đầy ngươi đến trú mưa, ồn ào như chợ vỡ, nhất là cánh bán hàng rong. Tôi thật bực mình vì công việc của tôi cần sự yên tĩnh. Mẹ thì khác, những lúc ấy bà vui như "cá gặp nước", những kỷ niệm vui buồn ngày xưa với gánh hàng của bà ngày xưa như không bao giờ dứt. Có lúc bà còn hào phóng mua hết những thức ăn ế ẩm của họ, dù sau đó không sao dùng hết phải đem cho đi. Tôi tỏ ý khó chịu, Mẹ chỉ cười buồn bảo: "Những thứ ấy đã một thời nuôi con khôn lớn đó...".Tôi nhớ lại những cơn mưa đầu mùa ngày trước, Mẹ gánh hàng về ôm tôi khóc, chợt thấy chạnh lòng... 
17. Vợ chồng (Tùy Nghi) Mỗi lần du lịch, anh vẫn bật cười vì tính nhát gan của chị. Xe qua đèo: sợ. Lên núi cao: sợ. Biển sóng lớn: sợ những lúc ấy anh lại ôm lấy chị , vỗ về:
- Đừng sợ, có anh đây. Em hãy can đãm lên nào!
Công ty phá sản. Từ cương vị giám đốc, anh quay về với hai bàn tay trắng. Anh hốc hác, suy sụp. Chị dịu dàng ôm anh vào lòng, xoa xoa mái tóc:
- Đừng tuyệt vọng, anh còn có em mà. Hãy can đảm nhé anh!
 

18. Những chiếc bao lì xì Ba Mẹ làm lớn, tết đến tôi được nhận nhiều bao lì xì đỏ thật đẹp với lời chúc học giỏi và chóng lớn. Những bao lì xì xé ra tôi mua đồ chơi và tiền bỏ đầy con heo đất.
Chiều, thấy thằng con dì Ba cầm thật nhiều bao lì xì. Tôi hỏi: "Mầy được bao nhiêu?"Nó đáp; "Em nhặt ở sọt rác nhà anh 50 cái bao không".
 

19. Phần cô (H.M.N.) Sinh nhât cô giáo, cả lớp mang tặng cô nào hoa,nào vải may áo dài...
Giở gói quà của Hằng ra ngạc nhiên thấy một củ khoai và một bông hồng. Hồn nhiên, Hằng bảo: "Ngày nào em cũng được ăn khoai lang nướng ngon lắm cô ạ. Chắc cô chưa bao giờ được ăn?".Hỏi dò mới biết ba mẹ Hằng mất sớm, nhà em phải ở ngoài triền đê, một mình vất vả nuôi hai em. Quà của Hằng là bữa trưa mà em dành phần cho cô giáo.
20. Đi thi (Ngô thị Thu Vân)

Chị Hai đi thi đệ thất. Ba thức dậy từ tờ mờ chở chị đi trên chiếc xe đạp cũ. Chị Hai đậu thủ khoa. Má bảo: "Nhờ Ba mầy mát tay". Từ đó, lần lượt tới anh Ba rồi cô Út- cấp II, cấp III, tú tài, đại học. Đứa nào cũng một tay Ba dắt đi thi. Giờ cả ba đều thành đạt.
...Buổi sáng trời se lạnh. Ba chuẩn bị đi thi "Hội thi sức khoẻ người cao tuổi". Má nhìn Ba ái ngại. "Để tôi gọi taxi. Tụi nhỏ đều bận cả". Buổi tối Má hỏi: "Ông thi sao rồỉ". Ba cười xoà bảo: "Rớt".


EM NGÀY XƯA.... EM NGÀY NAY !!!

Ngày xưa mái tóc buông lơi,Bây giờ sợi rụng sợi rơi đầy nhà.
Ngày xưa da trắng nõn nà ,
Bây giờ da đã trổ hoa .... đồi mồi .
Ngày xưa miệng cười thật tươi ,
Bây giờ móm xọm rụng mười cái răng .

Ngày xưa mặt sáng như trăng ,
Bây giờ xám xịt như vầng mây đen,

Ngày xưa yểu điệu như tiên
Bây giờ lẹt đẹt như con vịt bầu .

Ngày xưa chum chúm núm cau ,
Bây giờ lỏng thỏng như bầu trên cây .

Ngày xưa nhựa sống căng đầy ,
Bây giờ vắt mãi bẩy ngày cũng không .

Ngày xưa thắt đáy lưng ong ,
Bây giờ to bụng còn mông phẳng lờ .

Ngày xưa rậm rạp cỏ mơ ,
Bây giờ thưa cứng tưa hồ rễ tre .

Ngày xưa ăn nói dễ nghe ,
Bây giờ cẳn nhẳn chua lè khó ưa ..

Ngày xưa thích được mây mưa ,
Bây giờ hạn hán hết ưa tù tì

Ngày xưa thường sánh vai đi ,
Bây giờ chỉ thích năm ì ...xem phim...

Ngày xưa nhớ nhau đi tìm,
Bây giờ mặc kệ ...con chim mất dzồi.

Em Ngày Xưa

 

Em Ngày Nay

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét