Chủ Nhật, 14 tháng 6, 2015

Nguyễn Hoàng trường xưa và Kỷ niệm - Nhiều tác giả...

Với các bài viết:

10. Văn Thiên Tùng: Thầy tôi người nhúm nhen lửa ấm Nguyễn Hoàng
9. Nguyễn Ngọc Luật : Dấu ấn khó phai
 8. Nguyễn Văn Trị: Thầy giáo hay chàng nghệ ỹ Chân Trần- Nhớ về người Thầy xưa; Nhớ về thầy Lê Văn Quýt...
7.Cô Nguyễn Thị Giáng Hương Những người chung quanh tôi
6.Lê văn Trach:  Thầy và ngôi trường cũ . 
5. Trần Văn Phỉ: Vài cảm nghĩ về vinh danh... tác phâm-tác giả
4.Hồ Sĩ Bình:  Thơ của nẻo về
3. Phan Thạch Giang- Những dòng chữ muộn màng
2. Bùi Đức Thu: Một lần Đi về ( thơ)
1.Đinh Hoa Lư: Khi mô vô Sài gòn rứa ba? 


Thầy tôi NGƯỜI NHÚM NHEN  
LỬA ẤM NGUYỄN  HOÀNG 

Văn Thiên Tùng

CHSNH 6774

Nhân một chuyến cùng HAH Nguyễn Hoàng Saigon du lịch đến  xứ chùa Tháp. Bất ngờ thầy Thăng nảy ra ý tưởng:

- A! Nguyễn Hoàng ta sang năm vào tuổi 60.

- Mà cũng trùng lặp HAH Nguyễn Hoàng Saigon vậy mà đã 20 năm sinh hoạt…

Ta phải làm gì đây để kỷ niệm?
Tổ chức hội trường khắp nơi tại Saigon này đi, mời hết…
Mời hết cả thảy …
Đó là những suy nghĩ đầu tiên về sự về năm 2012 và các  con số  trùng lặp ngẫu nhiên 20,60 ...
Xuất phát từ ý nghĩa đó và ý niệm  trùng  hợp của năm 2102. Thầy Lê Hữu Thăng người học trò của những khoá đầu tiên vừa là cựu giáo chức trường trong thời gian dài và là người từng đã có thời gian hoạt động xã hội rất nhiều,chợt nghĩ rằng nếu có được lần  gặp mặt thầy trò trường mình trong năm này thì hay quá. Từ một suy nghĩ bất chợt trên rồi nhân rộng ra đến mọi thành viên tham gia chuyến du lịch Campuchia mà hầu hết là CHSNH tại Saigon, sau đó lan dần đến quý thầy cô và các CHS nhiệt huyết với sân chơi Nguyễn Hoàng. Tất cả đều tán thành là nên tổ chức một lần gặp mặt trường trong năm 2012 nhưng địa điểm còn 2 ý tranh cải là nên tổ chức tại  Saigon hay tại Quảng Trị đây.
Trên các diễn đàn internet, các cuộc điện thoại, Email được trao đổi và tiếp nhận rất nhiều ý kiến bàn luận và cuối cùng kết luận với ý đa số nên quay về trường xưa mà hội, mang nhiều ý  nghĩa hơn; một công lắm việc. Hơn nữa năm này trường Trung học Triệu Phong, tiền thân là phân hiệu của trường Nguyễn Hoàng những năm 1960 và liên trường Bồ đề, Bán công Đông Hà và trường Đắc Lộ cũng tổ chức hội trường. Vậy dịp này sẽ được dự một lúc đến 3 trường và được về cùng bạn bè thăm lại quê nhà với dòng sông Thạch Hãn, với cầu Ga, bến Hộ, với cầu Mỏ Vịt và chùa Sư Nữ thuở xa xưa, được ngắm Cổ thành trọi trơ gạch đá, tường rêu hay ngôi trường Bồ đề chắng chịt những vết sẹo của một thời bom đạn chiến tranh. Sẽ được đi qua các con đường chính của thị xã xưa cũ như  Trần Hưng Đạo, Quang Trung…khi lắm kẻ tha hương từ năm 1972, 1975 chưa lần trở lại khi tuổi đời dẫu Thầy hay trò vào độ ngã bóng xế chiều, Cơ thể dần dà giảm sút 
 Việc gặp mặt toàn trường phải được tổ chức tại địa điểm trường xưa như 2 lần trước đây, nhưng lần này 60 năm trường mang tên sẽ là dịp để quý thầy về cô cũng như học trò có cơ hội về quê hương thăm lại họ hàng thân tộc, nhân đó  thầy trò khắp bốn phương có lần bên nhau trong dịp này. Trường giờ dẫu chẳng còn tên, nhưng nền cũ  giờ đây vẫn còn ngôi trường trường Trung học phổ thông Thị xã Quảng Trị thừa kế truyền thống học tập và giảng dạy, tiếp nối khí thiêng, thừa hưởng giá trị của đất học Nguyễn Hoàng trước đây. Ấy cũng là niềm tự hào chung của chúng ta. Ai cũng từng hiểu rằng Trung học Nguyễn Hoàng  là ngôi trường công lập duy nhất của tỉnh Quảng Trị, ngôi trường đã được các bậc tiền nhân lấy tên của vị Chúa đầu tiên vào vùng đất hồng hoang Ái tử khai sơn lập nghiệp, xây dựng cơ đồ  khởi đầu những năm tháng mở cỏi, với bề dày lịch sử  của 7 chúa và 13 vua (1558-1945); một triều đại Nhà Nguyễn; một kinh đô dài lâu tại vùng đất chính kinh kỳ miền trung đó là Cố đô Huế  và nay nghiễm nhiên nó phải được xếp hạng là công trình, là di tich văn hoá của nhân loại…  Trường Trung học Nguyễn Hoàng; với 23 thế hệ được ươm mầm, biết bao con người công thành, danh toại đã  phục vụ khắp mọi miền trong cũng như ngoài nước; với bao tấm gương mẫu mực cho thế hệ con cháu đời sau thừa kế là chăm ngoan học giỏi, rèn đức- luyện tài quyết trở thành những công dân hữu dụng phục vụ cho xã hội và đất nước...
 Với AHSG thì cứ tổ chức mừng tuổi 20, vẫn lên chương trình gặp mặt đầu năm  như thường lệ nhưng lần này có nội dung cũng như hình thức cũng như sinh hoạt khác hơn các lần họp mặt trước. Có tổng kết hoạt động và vinh danh những việc làm trong thời gian năm qua không đơn thuần chỉ là gặp mặt  để chức tết thầy cô, bạn bè thân hữu”.     
Tuy rằng BLLNH tại Quảng Trị  vừa mới tổ chức gặp mặt lần hai xong, còn một năm nữa mới đến vòng gặp lại. Nhưng do những  mốc điểm trên, việc tổ chc gặp mặt lần thứ 3 rút ngắn thời gian 1 năm sẽ có nhiều khó khăn không những về tài chính, tổ chức mà  nhân lực tại Quảng Trị cũng rất mỏng; lực lượng yếu về sức khoẻ cũng tuổi tác đã cao… Những khó khăn  trên quý thầy cô cũng như quý ACE Nguyễn Hoàng đó đây đều rỏ biết, nhưng cái  thuận lợi là BLL tại Quảng Trị đã được chính quyền cho phép hoạt động từ năm 2007, địa điểm cho buổi gặp mặt rộng rãi, thoáng mát và tiện nghi có từ cơ sở trường PTTH Thị xã Quảng Trị đang hoạt động tốt phù hợp với điều kiện cho phép số lượng đông người về dự hội.
Sau khi phân tích và bàn luận k BLL.NH tại Quảng Trị chấp nhận rồi. Bây gờ   chúng ta có quyền sẽ ới a, ơi ới  rủ nhau cùng về dự hội. Mọi thông tin được truyền đi càng rộng càng tốt, để  ai đó muốn về người ta sẽ sắp xếp thời gian, dành tài chính, đặt vé phương tiên cho một lần về suôn sẻ; ngoài hội trường còn lại khoảng thời gian nữa dành thăm quê hương làng xóm, nơi một thời “cắt rốn chôn nhau” ; nơi một thời lớn lên cùng chung nguồn nước; chịu chung một cảnh trời, một phần kiếp đời và một thân phận…
Mọi khó khăn chúng ta sẽ cùng nhau vượt qua và  Quảng Trị sẽ tự tin khi đảm nhận lần hội này. Ý nghĩa về nguồn lần này được chốt lại từ gợi ý đầu tiên của một CHS, một người Thầy đã có cuộc đời ham mê hoạt động xã hội với rất nhiều trải nghiệm quý báu. Người ấy  không ai khác hơn đó là “trò Lê Hữu Thăng và thầy Lê Hữu Thăng của trường chúng ta”.
Xin mọi người từ đây hãy tích cóp nụ cười dành cho ngày hội nở hoa tươi thắm và sân trường sẽ nhộn nhịp  tiếng cười nói, nhằm tìm lại phút giây vô tư của tuổi học trò một thuở bên nhau...
   Kết luận rồi bây đến  công việc sẽ được chốt lại tuần tự  để tiến hành thực hiện:
- HAH.NHSG sẽ tổ chức gặp mặt đầu xuân đúng vào đợt kỷ niệm 20 năm thành lập (1992-2012). Tui sẽ làm thử một  mô hình  trường và đem đến hội trường chưng bày để quý vị xem và góp ý bổ sung.
Đã đưa ra ý tưởng  thì  chính Thầy cũng phải tự ra tay cắt, dán, vẽ, viết từ những vật liệu đơn giản, rồi tạo dáng, sau đó sơn quét màu phù hợp và mô hình được đem  trưng bày đúng buổi gặp mặt đầu xuân Nhâm Thìn - 2012 như dự định của Thầy…  Tìm trong ký ức, lục tung trí nhớ đồng thời tổng hợp các tấm ảnh, bài viết từ các tập san hay hỏi thêm các đồng nghiệp và học trò, mô hình được hoàn chỉnh từ đôi bàn tay khéo léo, từ chính mình và mô hình trở thành không gian được nhiều người chú ý  nhất  trong buổi gặp mặt này.
 Họp mặt Nguyễn Hoàng tại Quảng Trị lần thứ III và nhân 60 năm trường mang tên có gì khác các lần gặp trước. Đó là câu hỏi mà được đưa đi bàn lại tốn nhiều thời gian nhất. Ngày tháng không còn nhiều mà lắm công việc cần phải chuẩn bị. Chỉ còn hơn 6 tháng, cần có sự hợp lực từ các BLL và các ACE tâm huyết với sân chơi này.
- Ngoài mô hình trường 2 giai đoạn, cần  phác thảo một logo đúc bằng kim loại  và có biểu tường về hình ảnh của 60 năm Nguyễn Hoàng.
 
- Phải có một chương trình văn nghệ tiền hội ngộ, đêm trước ngày họp mặt, Thầy Lý Văn Nghiên đã đảm nhận lên chương trình và thông báo ACENH đăng ký tiết mục, Ái hữu SG là đơn vị đảm nhận mũi này; như vậy văn nghệ tiền hội ngộ được bàn luận xong cho đêm văn nghệ truyền thống Nguyễn Hoàng.
- Việc còn lại phải phát hành một tờ báo, đây là món quà tinh thần cho người về dự hội cầm tay. Xét về Quảng Trị thì không đủ nhận lực vì đã lo khâu tổ chức; còn lại Đà Nẵng và Huế; phút chót BLL.NH Huế tiếp nhận; thầy Nguyễn Văn Hóa cùng các ACE trong BLL đảm nhiệm việc tổng hợp biên soạn và phát hành; vì Nguyễn Hoàng Huế cũng đã ra 2 số,  hiện số 3 nằm chờ hơn 2 năm. Đây là cơ duyên để 60 năm Nguyễn Hoàng ra mắt từ Nguyễn Hoàng Huế. Thầy Thăng ủng hộ 3 triệu và cho mượn không lời 7 triệu ngày từ lời hứa ban đầu; phần tài chính xem như tạm ổn; cũng như việc in đúc 1.000 cái logo bằng kim loại trước đây, thầy vẫn cho mượn vốn ban đầu sau khi phát hành xong sẽ hoàn vốn …
* Ban biên soạn Huế và công việc:
Công việc bây giờ là nội dung tập san, tức là bài viết một nổi lo đáng kể; thầy cũng đề ra ý kiến phải có đơn đặt hàng, hay nói rỏ hơn hơn là phân bài cho người viết.  Việc đóng góp bài vở cũng cần phải khẩn trương.
Thầy luôn luôn theo dõi tình hình và hối thúc:
- Thời gian nhanh lắm đó!
Chỉ còn 6 tháng mà thôi…
- Bài không có thì đừng nói gì đến  60 năm Nguyễn Hoàng.
Vậy là thầy tự nguyện làm ông chủ và đặt hàng từ các ACE Nguyễn Hoàng, những cây bút nghiệp dư từng từng có mặt trong các đặc san, nội san như:  Hội mùa xuân năm 1972, Hương Quê nhà, Nguyễn Hoàng Huế hay Nguyễn Hoàng Chân dung và kỷ niệm…đều được thầy a- lô và gửi mail chào mời giao việc.
Thắm thoắt mà tháng 2 đã hết ,
- Thầy Nguyễn Văn Hoá từ Huế báo động
Sao vẫn thầy  im re thầy ơi!,
- Chưa được mấy trang hết ? 
Một nổi lo ngày đêm không ngủ …
Thế mà 2 tháng sau bài vở bay về "như sao trời tháng hạ".
Thầy cô, ACE Nguyễn Hoàng khắp nơi đều hưởng ứng viết và gửi; đến nổi thầy Hoá phải huy động cả BLL như các  Kim, Am và Quê cùng đọc bài cả ngày đêm không xuể…  Nếu ai đó có lần đến viếng nhà thầy Nguyễn Văn Hóa  mới nhìn thấy cảnh làm việc của Ban biên soạn sẽ có những xót thương, cảm động vô cùng... Quý thầy tuổi đời nay xấp xỉ 70, tuổi hưu trí; thế mà người nào cũng bốn mắt chăm chăm từng trang, đọc từng dòng lúc trên máy tính, lúc trên bản nháp in hoặc  viết;  ngồi thì  đau lưng, đứng thì mỏi gối, thôi thì cất ghế nằm ẹp dưới sàn nhà đọc cho đỡ xác.
Từng trang bài, từng dòng tô gạch để  mà tra từ điển hay hội ý tập thể, tìm đúng sai dấu hỏi ngã, tìm điển tích trong câu mà hoàn chỉnh đạt chuẩn tối đa từ vựng tiếng Việt, kiểm tra đúng nghĩa câu tiếng nước ngoài; đọc soạn càng kỷ thì lúc chuyển bài  đến nhà xuất bản họ đọc và duyệt mới mau để sớm có giấy phép mà đem đi in đúng thời hạn, kịp mang ra dự hội Nguyễn Hoàng 24/6.
 60 năm Nguyễn Hoàng chào đời đúng lịch; hài hoà với màu sắc, trang bìa hoạ tiết đầy ý nghĩa. Hình ảnh con ngựa đá với nhiều chi tiết đậm nét lịch sử để người xem thoáng quay về thời đại vàng son một thời của các chúa và Nguyễn triều theo dòng lịch sử…. Với một đứa con tinh thần, tập san có được cả chiều dày lẫn chiều sâu, với 750 trang, nặng  hợn 1,05 ki-lô-gam. Có thể gọi đây là cuốn  “Kỷ Yếu Nguyễn Hoàng” cũng chẳng sai tý nào so với nội dung trong đó…     
- BLL tại Quảng Trị thì sao!?:
Cũng bắt đầu vào cuộc khẩn trương tổ chức họp nhiều việc cần phải bàn tính như ngày tháng nào thuận tiện, cách thức tổ chức ra sao, soát xét lại ngân quỹ và dự tính các khoản chi tiêu có đủ để điều hành buổi gặp mặt chu đáo hơn 2 lần trước? Định được ngày tháng mới tính chuyện trình chính quyền Thị xã Quảng Trị cho phép họp mặt; mọi vấn đề đều được tổ chức họp rộng rãi BLL mở rộng để bàn tính và tiên liệu ký càng tránh lặp lại các sai sót các lần trước đây. Thông báo số 1, số 2, rồi số 3, công việc đâu vào đó, tổ nào được phân công sẽ tự họp tổ và giao việc cụ thể; thông báo số 4 là thông báo sau cùng nhằm chốt lại công việc để thực thi.
Đặc biệt là đêm văn nghệ nhiều câu hỏi đặt ra là nên tổ chức ở đâu? lúc nào?  nội dụng các tiết mục được bàn bạc và thảo luận gay gắt nhất. Cuối cùng nhất trí là tổ chức tại Thị xã Quảng Trị  thay vì ngoài TP Đông Hà, địa điểm tại khu du lịch sinh Thái tích Tường và tên gọi là  “ Đêm văn nghệ tiền hội ngộ” ; phạm vị phục vụ cho nội bộ CHS trường Nguyễn Hoàng có phát hành phiếu vào cổng do nhà hàng và BLL kết hợp thực hiện. Thời gian trước ngày gặp mặt tức là vào đêm 23/6/2012. Thầy Lý Văn Nghiên cùng đội văn nghệ chủ lực là NHSG tổng hợp tiết mục và lên chương trình phù hợp với nội dung và thời gian…
* Phòng Hoài niệm:
- Phòng Hoài niệm là kịch bản cuối cùng của 60 năm Nguyễn Hoàng và  tác giả kịch bản cũng không ai khác hơn ngoài thầy Lê Hữu Thăng. Nếu như kịch bản này được ghép vào sẽ có nhiều ấn tượng lưu lại trong tâm tưởng của người trở về với nghĩa ý thiêng liêng về “ Sự tưởng niệm lặng lẽ trước di ảnh thầy cô và thân thương đồng liên tưởng về bạn bè cũng nghìn thu yên giấc”; Nôm na tên gọi khởi xướng là “Phòng truyền thống”.
- Rồi Thầy cũng loa loa…loa.. đi khắp mọi nẻo,  xin được tiếp ý kiến thêm cho đúng nghĩa và cách làm từ ý tưởng này…
Cùng suy nghĩ và cùng tìm một tên gọi. Phòng truyền thống mang tính chất lớn lao quá  và hơn nữa nhưng trường ta đâu còn, phòng truyền thống thì phải định hình, định dạng và được đặt để tại một không gian lâu dài, các hiện vật trưng bày, các hoạt động của trường luôn được cập nhật và mọi người được đến xem lúc nào cũng được; chúng ta chỉ mượn sân trường, mượn phòng và chỉ  đặt để  chỉ trong 2-3 ngày nên nhiều ý kiến đồng tán thành với tên gọi là “phòng Hoài Niệm” do NH Lê Văn Trạch gợi ý.
Xác định được nội dung rồi, vấn đề còn lại là phác thảo tình tiết, hình thức trưng bày tại phòng hoài niệm và việc cần phải tiến hành để thực hiện như:
- Thầy Thăng cùng một số ACE thiện nguyện gồm thầy Đỗ tư Nhơn, các NH.Văn Thiên Tùng, Lê Thị Dũng, Quỳnh Thuỷ, Lê Thị Ngọc Mân, Quang Tuyết … hợp tác để sưu tầm di ảnh Thầy cô đã quá vãng. Thầy cũng đóng vai chính để xác định thông tin trước lúc lên hình gắn vào bảng.
Ảnh bên : 2 mô hình trường và di ảnh Thầy cô.
- Hình ảnh trường từ những ngày thành lập đến khi về khu mới gồm 2 mô hình.
- Mô hình quê hương qua hình ảnh tỉnh lỵ Quảng Trị nơi mà hầu hết quý thầy cô và học trò đều có thời gian sinh sống, ở trọ, hoặc phải có những sinh hoạt gắn bó qua  các hoạt động thường ngày khi ta đến trường hay đi mua sắm tồn tại cùng với tên trường…
-  Các loại ấn phẩm, tập san, các tập thơ, đĩa nhạc , sách do NH hay các tập thể Nguyễn Hoàng  sáng tác và phát hành…
Những ý tưởng và mô hình này đều được thầy phác họa qua trí nhớ từ tư liệu đã viết, in và phát hành. Thầy đã nắn nót cắt, sơn, uốn và dán từ khi còn ở bên Mỹ quốc và bây giờ mang về đây đặt gắn và ghi tên từng con đường, từng nhà ở công sở tỉnh lỵ xưa …
Hiện trạng phòng hoài niệm  mà trường PTTHTX cho mượn với không gian dài 15m, rộng 5m, cao 4m đủ để  trưng bày nhiều kỷ vật, phương tiện hoạt động khác nữa. Các BLL, Hội Ái hữu sẽ đăng ký không gian  mang về  trưng bày những hoạt động riêng của đơn vị mình, nhóm phụ trách sẽ phân chia ô cùng nội dung hoạt động, mỗi ô  2,4m x 1,8m đủ để trưng bày  giới thiệu về những hoạt động của mình.   
Từ ngày 21/6 Phòng Hoài niệm đã mở cửa, rộn ràng tiếng nói cười nhằm thiện các nội dung lắp ghép thiết bị, trang hoàng, lên khung hoàn chỉnh trước chiều 23/6/2012, thời gian ngắn nhưng công việc rất nhiều, mỗi sáng hay mỗi chiều Thầy phải đưa cô theo và cùng đến đây để chỉ đạo nhóm thực hiện từng chi tiết, từng công việc  vi các thiện nguyện viên gồm các  ACE.NH: Văn Thiên Tùng, Lê Thị Dũng, Lê Hoá, Nguyễn Đình Hướng, Lê Mậu Trãi; nhóm Sài gòn có các ACE Đỗ Việt Hoài, Nguyễn Văn Trị, Quang Tuyết...; nhóm Đà Nẵng Nguyễn Khắc Phước, Thu Ba, Quỳnh Thuỷ…, nhóm Quảng Trị anh Hồ Thanh Thịnh…; nhóm khoá 6471 anh Hồng Hiến …
  24 tháng sáu đến rồi, sân trường xưa với biển chào đón trước cổng và là cổng trường Trung học phổ thông Thị xã Quảng Trị hiện nay, với hai hàng phượng cũng trổ đầy hoa ; hai cổng phụ ra rào vẫn hai gốc phượng già lắm tuổi tựa như hai cây phưng ngày trước, nhưng vị trí của nó nằm ngoài cổng trường thay vì ở bên trong…
Những chùm hoa phượng thắm đỏ, nắng hạ gió Lào, lũ ve ...như quy luật  chúng vẫn rên rgọi hè. Tuổi học trò với tiếng ve và hoa phượng như hình ảnh muôn thuở in vào tiềm thức từ bao thời đại. “ Nổi buồn hoa phượng” là ca khúc tiễn chào cái thàng hè nắng hạ và sự chia ly sau 9 tháng tựu trường, 3 tháng chia xa với ve sầu thay ý và phượng thắm thay tình; nắng hạ là niềm khát vọng cháy bỏng trong tim của cái tuổi vào đời …
Lúc này những cô cậu học trò cũ quay về,  trong tâm thức mọi ngưới ai cũng rạo rực như đang tr về vùng ký ức… Từng nhóm lần lượt xuống bước vào trước sân trường, tiếng cười đùa chào hỏi, tiếng mầy tau đơn điệu mà dễ thương hay những giọt nước mắt mừng tủi lăn dài nóng hổi như bày tỏ tình cảm thân thương mà từ bấy lâu nhưng chưa một lần diện kiến bằng mắt trần, thân tục. Những tà áo dài thướt tha của những cô nữ sinh khoe sắc lắm màu, kiểu dáng không như bộ đồng phục áo dài trắng của năm tháng bước vào cổng trường thuở nọ.
Trước cổng vào bàn tổ chức chóng mặt vì việc phát hành huy hiệu và logo  hình tròn bằng kim loại, biểu tượng chính của lần họp mặt này. Hình như ai cũng mân mê nhìn nó tròn như đồng táng 50 xu ngày đó, nó khác là  tròn xinh xắn với tên trường và ngôi trường chính trên nền trời xanh, mây hạ trắng; với vôi màu và tập vở cho Nguyễn Hoàng 60 năm rồi tấm tắc khen thầm đây là sản phẩm ai?
- Tôi đứng cạnh ống kính camera và thầm trả lời:
- Xin thưa  với quý ông, quý bà :
 Đây là ý tưởng của thầy Thăng đó ạ!
được NH Bùi Phước Vĩnh là CHS Nguyễn Hoàng khoá 64-71 phác thảo qua 3 mẫu hình để NH khắp nơi bình chọn và cuối cùng được ra mắt chào đời trong ngày hội lần nầy. Mong rằng sau này nó trở thành kỷ vật không những cho mình mà còn để lại cho con cháu  về  hình ảnh một ngôi trường của cha ông chúng nó.
Cái logo được mọi người gắn vào ngực áo nơi con tim đang rạo rực như ngày khai giảng năm học với cái gì cũng mới  của tuổi thư sinh. Ký ức học trò từng dòng tuôn chảy và ấm áp như thuở đôi tám đầy tin yêu; cái khác là bây giờ ai cũng dạn dày và  vững chãi hơn khi đến với thầy cô và bạn bè  với dáng dấp chậm chạp, mắt mây che phủ, đôi màu tóc chấm và nhịp đập con tim nhanh chậm hối hả thất thường đang vào  độ xế chiều…
- Rồi cái chuyện đêm qua chương trình văn nghệ Nguyễn Hoàng các tiết mục trình diễn đều được BTC chắt lọc từ các NH đăng ký nhưng với 3 tiếng đồng hồ và nhiều tiết mục đồng ca, đơn ca vẫn chưa hết  “ca đoàn và ca sỹ Nguyễn Hoàng” luân phiên thể hiện với tình Nguyễn Hoàng thấm đậm; phần lớn là những tác phẩm  đều do các nhạc sỹ Nguyễn Hoàng tự biên; “cầm, k, thị hoạ” đâu thiếu nơi học sinh Nguyễn Hoàng phải không?. 
Một đêm văn nghệ đầy ấn tượng.
 Kịch bản từ đâu?
Xin thưa ấy cùng là ý khởi đầu của thầy chúng ta: “ Lê Hữu Thăng”.
 Quay lại không gian ngày hội thầy trò Nguyễn Hoàng 24/6/2012. Trên hậu bục sân khấu với pa -nô hình ảnh theo ý gợi của học trò “ LêHữu Thăng”; làm sao có được bức hình phối cảnh “Ngày xưa Hoàng Thị” là tui theo Ngọ về …
Anh Bùi Phước Vĩnh mặc dù bản thân luôn bbênh tật đe doạ nhưng vẫn vắt óc, moi ý để phác hoạ cho được bức hình "tui theo Ngọ về" bổ sung vào kịch bản 60 năm. Bài hát mà một thời bao kẻ si tình, bao nam nhi vướng bận, khi cứ  lẻo đẽo theo sau một mình ... Tấm pa nô với khung nền màu tím bằng lăng, màu hoa học trò và cậy phượng n hoa rực đỏ …Bức hoạ  còn được đặt trước phòng Hoài niệm để ôn lại cái tuổi học trò, một thời hoa mộng của bầy tui và của mấy O
- Phòng hoài niệm mở cửa từ sang sớm để đón tiếp quý khách,  ngày nền tường chính của phòng di ảnh 34 trong tổng số 52 thầy cô trường ta quá vãng. Những tấm ảnh được in vào khung và gắn trên bảng đặt tôn nghiêm trên bức tường chính với dòng chữ: “Di ảnh quý Thầy Cô”.
- Với thầy cô là đồng nghiệp
- Với học trò là Thầy cô mình, những cành hoa tươi lần lượt đặt ngay ngắn lên chiếc đĩa trắng tại bàn tưởng niệm một cách nghiêm trang.
Bài  "Hoài niệm"của thầy Hoàng Đằng với một đêm trắng giấc đã chắp bút hoàn thành. Bài thơ trở thành chủ đề của Phòng trưng bày. cũng như mấy đêm trước đây trước đây thầy Đằng đã viết bài “Văn tế” cho 60 Nguyễn Hoàng… Từ ý tưởng của thầy Lê Hữu Thăng;
Không gian tiếp theo ấy là mô hình trường nơi cạnh bờ sông 1952 và trường chính  còn thấy các BLL gồm: Nguyễn Hoàng tại Quảng Trị, Saigon, Đà Nẵng và  6471; mô hình thị xã Quảng Trị được thu gọn trên dưới 10 mét vuông, làm bằng vật liệu giấy cứng và sắp xếp trên 4 cái bàn.
Tóm lại,  nảy sinh kịch bản mới, phòng Hoài Niệm tuy giản đơn nhưng đã để lại nhiều điều day dứt khi hồi tưởng đến thầy cô qua các tấm di ảnh đã được phục chế lại rất nhiều lần, có tấm mờ mờ ảo ảo như hồn thầy vẫn còn lãng đâu đây. Thầy Lê Hữu Thăng người đầu tiên khởi xướng và phác thảo kịch bản chính cho Nguyễn hoàng 60 năm. Thời gian chuẩn  chưa đầy 8 tháng. Lúc thì ở Việt Nam, lúc thì ở Mỹ nhưng ý tưởng vẫn tuôn chảy và thời gian là chốt để xác định công việc mà mình phải hoàn thành. Tháng sáu  đến rồi, Thầy cùng cô về lại Việt Nam đúng hẹn ngày 19/6/2012 đã có mặt tại Quảng Trị để lo công việc hội Nguyễn Hoàng. Biết rằng đối với thầy việc chăm sóc cô từng ly, từng tý như lấy từng viên thuốc, giờ uống và từng  món ăn trong từng bữa; lúc nào Thầy cũng cạnh cô đ canh chừng sợ cô lạc hoặc bị bệnh … chẳng khác gì “Ngày xưa Hoàng Thị, Tui theo Ngọ về…”. .
Mọi việc khác không lo chi nữa mà chỉ lo cái phòng Hoài niệm, sáng 20 Thầy cùng nhóm cộng sự  bắt tay vào công việc như mượn vật tư, in ấn ảnh, sắp xếp các phân mục trưng bày đâu vào đó. Đêm đầu tiên ra Quảng Trị Thầy ở khách sạn Bình Minh ngày cạnh trường Bồ Đề cũ, Do cự ly đi về quá xa nên rất bất tiện cho công việc. Thấy thầy vất vả quá, BLL Quảng trị phải liên hệ khách sạn Thành cổ đổi phòng để thầy cùng cô về ở đây, đi vgần hơn nhiều. Tuy rằng ai cũng biết khách sạn Thành cổ được xây dựng từ thời kỳ tập thể quản lý nên điều kiện sinh hoạt rất giản đơn, không gian phòng nóng nực và thiếu mọi tiện nghi cùng các tiện ích khác cho khách trú trọ.
Tổng quát Phòng Hoài Niệm. Thầy Thăng tác phẩm của kịch bản này đang trò chuyện  cùng anh Nguyễn Kim và học trò , x, Đỗ Huy Sanh
Trong điều kiện ăn ở như vây nhưng sáng sớm đã có mặt thầy cô tại phòng Hoài niệm để lắp đặt 3 cái sơ đồ, cô thì ngồi đọc sách nơi ghế đá, hoặc thể đi lại trong phòng, thầy thì cặm cụi cùng học trò gắn keo, găm kim, viết chữ, ... nhưng đôi mắt vẫn luôn hướng một phần theo dõi về cô... Chỉ có 3 ngày mà  công việc thôi thúc phải hoàn thành trước ngày 24/6. thời tiết giữa hè tại Quảng Trị lúc này là lúc “ Mưa tháng sáu là máu con Rồng”;  sau lụt Tiểu Mãn là lúc gió Lào thổi mạnh rát cmặt, cháy c da; khí hậu khô nóng gây ra biết bao nhiêu bệnh ...
Nhưng vì một mái ấm Nguyễn Hoàng, vì một ngày hội 60 năm; tuy đã vào 74 những thầy vẫn đi lại, nói cười vui vẻ, hồn nhiên, lúc nào cũng thận thiện và bình dị với mọi người. Một đức tính, một con người không thay đổi. Hẳn biết rằng lúc thiếu thời  thầy đã từng lao mình vào công tác xã hội rất hăng say,  hoạt động từ thiện mà quên đi cái tuổi yêu thương nồng cháy. Thầy đã có một thời gian dài tham gia vào phân đoàn Thanh Niên Hồng Thập Tự Quảng Trị với nhiều chức vụ khác nhau đến cả cấp vùng; thầy còn là người khởi xướng để thành lập trường Hiền Lương Nghĩa thục khi mà Quảng Trị chúng ta tan tác trong những ngày giao tranh lửa chiến, bom đạn xới cày để mà con dân Quảng Trị khi di tản vào Đà Nẵng hay lúc trở về có chỗ nương náu học hành, hay các trạm xá tại vùng hồi cư, những chiếc máy cày quyên góp được từ quốc tế Hồng Thập tự đều mang về cho Quảng Trị, mảnh đất dạn dày tang thương của bao thời đại.
Cũng những câu chuyện về thầy trong thời gian tham gia Hồng Thập Tự hay lần đầu 35 năm gặp lại Thầy trong buổi hội trường đu tiên 04/8/2007 thầy trò gặp nhau với tấm  hình hai thầy trò bên nhau mà thầy gửi tặng. Từ đó  mới rằng tuy tuổi cao nhưng thấy vẫn còn say sưa với hoạt động xã hội. Từ cái tâm và bầu nhiệt huyết sẵn có thầy đã bao lần trăn trở cho lần họp mặt đầu tiên của Thầy trò Nguyễn Hoàng lưu lạc tứ phương, một lần đầu tương đối đông đủ tại Saigon năm 1992; rồi Huế, Đà Nẵng, đến Quảng Trị cội gốc trường xưa. Những cuộc điện thoại đường dài từ Mỹ quốc về Quảng Trị, những ước nguyện vận động để hình thành và rồi cũng có ngày họp mặt đầu tiên.
Thầy từng tâm sự, “cái gì làm được cho quê hương thì cứ làm, miễn là chúng ta không làm chuyện chính trị, tuyệt đối không làm chính trị mà chỉ làm từ thiện”  để  phần nào giúp đỡ bà con, con em mình vượt qua gian khó, đói  nghèo là thoả mãn cái tâm già này rồi.
Cũng từ đó nhiều lần chứng kiến sự có mặt của thầy trong công việc chăm lo, mồ mả, đền thờ miếu mạo trong làng và họ tộc cũng như gia đình. Lễ nghĩa cúng bái đúng lễ của cha ông xưa bày. Luôn tôn trọng ý kiến của quý trưởng làng, trưởng tộc, trưởng chi…; góp một tý cho các tổ chúc xã hội như: Khu an dưỡng trại mồ côi, trường mầm non xã Triệu Đông … ít nhiều gì thầy cũng góp chút đỉnh. Thầy cũng từng nói là: “Vợ chồng chúng tôi vô sản không có nhà cửa riêng, chỉ ăn nhờ ở độ con cái, nhưng sau thời gian làm “cu- li” tích cực nơi xứ người nay có chút đồng hươu tiết kiệm để san sẻ với cộng đồng mà thôi…” và rồi Thầy cũng bàn bạc với con cái, Ba mẹ có một ước nguyện là các con tán thành cùng cha mẹ góp thêm để thành lập quỹ học bổng nhằm giúp đỡ cho một số con em quê mình còn khó khăn, thiếu thốn mà học giỏi nhằm chắp bước cho người ta được vào đại học cùng với mọi người.
Ý nguyện đó được hình thành từ cấp riêng cho các sinh viên đi học ở Saigòn có đủ tiền xe về nhà ăn tết;  đến cho mướn nhà trọ, hay cấp suất cơm ăn cho sinh viên tại Huế và bước cuối cùng học bổng trong họ, làng ban đầu có từ 20 triệu đồng trên năm; nay đã đến trên 75 triệu đồng và còn được nhiều mạnh thường quân khác góp theo để cấp cho các sinh viên tỉnh nhà vượt khó học giỏi góp phần cùng xã hội chăm lo việc khuyến học, khuyến tài chắp cánh ước mơ của bao con em nơi các miền quê xa xôi…cảnh này ngày xưa chính tui cũng sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh như vậy tại làng Bích La Triệu Đông, Triệu Phong này.
Ảnh bên: Chuyện trò cùng các cụ trong dòng tộc tại quê nhà
Điều làm ai cũng cảm động khi nước mắt tuổi già của thầy từng lăn trên đôi gò má  mà lần đầu tiên là lúc thầy đại diện cho các nhà bảo trợ phát học bổng cho 17 sinh viên nghèo vượt khó được xét cấp; trong lời tâm tình thầy đã khóc và khóc thật khi biết về  hoàn cảnh em Nguyễn Thị Thu Sâm mồ côi cha, mẹ lại bị bệnh kinh niên và cũng ra đi  khi ước nguyện  giản đơn mong là  con gái mình được một ai đó ra tay cứu giúp để cháu được học tiếp hai năm còn lại của bậc đại học, vì  rằng  bà chẳng  sống được bao ngày…  Nhưng hôm nay khi con mình được người bảo trợ thì bà đã đi rồi…  nước mắt thầy lăn chảy khiến cả hội trường lệ cũng nhỏ tuôn.
Một lần nhân đại gia đình  tổ chức đợt quay về cội nguồn để  vái tạ  ân đức cao dày của các bậc tiền nhân tiên tổ dòng tộc với đầy đủ con cháu. Sau khi cúng giỗ xong là tiệc mời thân mật với đầy đủ bà con quan khách thân hữu, đồng nghiệp, học trò tham dự trên nền đất của gia đình từng sinh sống vào thuở thiếu thời; với lời tâm tình "cuộc đời tui lớn lên, thời giặc Pháp cả gia đình tui bị giặc nhốt trong nhà rồi chúng đóng chắn cửa lại, cả nhà bnhốt rồi chúng châm lửa đốt cháy; may sao tui  nhảy ra được và bị  giặc chặt vào cùi tay nằm bất tỉnh trên ruộng lúa,..." trong giọng kể chậm rãi, kèm theo những dòng nước mắt rơi trên gò má, một câu chuyện, một tấm lòng làm mọi người  liên tưởng một quá khứ đau thương của chiến tranh…
Mỗi lần thầy có dịp ghé về thăm quê hương hay lúc nghe tin về ACENH có cần giúp đthầy đều theo dõi và hỏi thăm để bằng cách nào đó đ tặng quà, hoặc nhờ BLL, thân hữu chuyển đến tận tay nhằm chia sẻ chút tình ấm áp của một đồng môn Nguyễn Hoàng. Tất cả việc làm và hành động xuất phát từ một tấm lòng và cùng còn nhiều câu chuyện nghĩa tình khác mà phạm vi bài viết không  tin tải hết được.
Trên đây là một phần về những câu chuyện, hay những tâm tư của thầy tôi vừa là huynh trưởng, cũng là đồng môn của một ngôi trường tỉnh ấy là Trường Trung học công lập Nguyễn Hoàng Quảng Trị, mà nếu những ai là con dân Quảng Trị vào những thập niên 50 đến 70 đều biết đến không những tên tuổi mà còn là danh tiếng dạy và học của trường nữa.
Với những dòng viết ngắn ngủi này, tuy không thể diễn đạt nổi những việc làm hay những suy nghĩ mà Thầy tôi Người  đã dành nhiều tâm huyết nhen nhúm lửa ấm để còn đây một tên gọi Nguyễn Hoàng Quảng Trị chúng ta đến hôm nay./.  

 Quảng Trị -  9/2012 - VT

DẤU ẤN KHÓ PHAI
Nguyễn Ngọc Luật

Năm 1970 tôi bước chân vào lớp 10C trường Nguyễn Hoàng, mặc dầu đã có bốn năm đệ nhất cấp ở trường, tức là thuộc hàng ma cũ nhưng tôi vẫn thấy ngỡ ngàng và rụt rè không khác mấy với cái ngày đầu tiên bước chân vào lớp đệ thất 2 năm 1966. Bạn cũ từ lớp đệ tứ2 lên cùng lớp chỉ có một số ít, còn lại là có quá nhiều khuôn mặt mới, một số bạn từ các lớp dưới lên, một số khác từ các trường quận và trường tư mới chuyển vào. Vì tính chất đặc thù của dân ban C nên lớp tôi thật muôn màu muôn vẻ, trăm hoa đua nở.
         Quý thầy cô dạy chúng tôi hồi đó rất được học trò yêu mến vì sự tận tâm tận lực giảng dạy và sự thương yêu học trò. Những thầy cô ghi dấu ấn sâu đậm nhất lớp tôi hồi đó ngoài cô giáo chủ nhiệm dạy văn ra còn có thầy dạy Anh văn: Thầy Trần Ngọc Cư
         Bốn mươi năm trôi qua, giờ nhìn lại, hồi tưởng về một thời dấu yêu ngày ấy cho dù kỷ niệm có sâu đậm đến đâu cũng đã nhạt nhòa theo năm tháng, cái nhớ thì ít, cái quên thì nhiều. Nhưng nhắc đến thầy thì điều đầu tiên ai cũng cảm nhận được thầy là một thầy giáo dạy giỏi, tận tụy với nghề, ở trường thầy luôn được phân công dạy các lớp ban C và lớp tôi được học với thầy hai năm liên tục 10C và 11C tức là từ năm 1970 đến ngày tan đàn xẻ nghé năm 1972.
        
Tác giả NGUYỄN NGỌC LUẬT
Lớp 10C của chúng tôi hồi đó ở dãy E nằm gần trại MACV tựa lưng vào sân vận động có cửa sổ thật lớn, khung cửa kẻ ô vuông sơn màu xanh lục. Vì lớp học nằm sát sân vận động đã bị chiếm dụng làm bãi đáp trực thăng phục vụ chiến trường nên mỗi lần máy bay lên xuống thì việc học hành bị ngưng lại, thầy trò ngồi chịu trận bị tra tấn bỡi tiếng kêu đinh tai nhức óc của động cơ máy bay.
         Đầu năm học, thầy Kinh giám thị dẫn thầy giáo dạy Anh văn đến giới thiệu với lớp. Gần bốn mươi cặp mắt đều chăm chú nhìn thầy giáo trẻ dáng người đầm đậm, đặc biệt là mái tóc cắt ngắn để lòa xòa ngang trán như các thành viên trong ban nhạc The Beatles lừng danh và trông thầy khá giống với nhạc sĩ Jo Marcel (Em xin thầy thứ lỗi  vì sau này chúng em thường gọi thầy với nickname như thế không rỏ thầy có biết hay không!)
        Thầy làm quen với lớp bằng một tràng tiếng Anh, cả lớp ngẩn tò te trố mắt nhìn thầy, tôi cũng chỉ hiểu lỏm bỏm đại ý là thầy đang giới thiệu “thân thế và sự nghiệp” của thầy với lớp nhưng không thể dịch nguyên văn được, biết cả lớp không tiếp thu được nên thầy đành chuyển ngữ sang tiếng Việt. Thầy đã có một buổi ra mắt học trò hết sức ấn tượng như thế.
         Thầy có một phong cách dạy học rất đặc biệt, thầy khuyến khích chúng tôi đàm thoại bằng tiếng Anh trong lớp, chú trọng thực hành những câu phức tạp gồm nhiều mệnh đề và cách sử dụng thành ngữ vốn rất phong phú trong tiếng Anh. Bằng phương pháp dạy học sinh động của thầy chúng tôi tiến bộ trong việc học tiếng Anh rất nhanh, những bạn hơi yếu cũng phải nổ lực để bắt kịp chương trình. Cũng nhờ vốn liếng tiếng Anh được học rất bài bản với thầy mà sau này khi ở trong quân ngũ thời gian học ở trường Sinh Ngữ Quân Đội để chuẩn bị du học tôi tiếp thu bài học khá thoải mái.
         Thầy có một điểm rất khác với quý thầy cô khác là hầu hết thầy cô đều xem chúng tôi là học trò (dĩ nhiên!) nên ít ai bàn luận chính trị hay bày tỏ chính kiến với chúng tôi, nhưng thầy thì khác, trong lúc dạy học thầy hay tìm cách bày tỏ chính kiến hay quan điểm của thầy về cuộc chiến tranh đang diễn ra hết sức tàn khốc trên quê hương. Trong khi hướng dẫn thực hành đặt câu tiếng Anh thầy hay nhắc đến quân số của các bên tham chiến, số người thương vong của mỗi trận đánh, số dân thường bị chết trong lúc chiến trận xảy ra. Thường thì thầy nói đến điều đó với một thái độ đau xót cho thân phận dân tộc, quê hương đang ngày đêm bị bom cày đạn xới, nhất là những lúc đang giảng bài thì bị cắt ngang bỡi tiếng máy bay lên xuống sau sân vận động, những lúc như thế thầy thường ra cửa đứng chau mày với vẻ kham nhẫn và sau đó thế nào cũng có một lời phê nào đó rất sâu sắc mà trí óc non nớt của chúng tôi không hiểu hết.
         Mùa xuân năm 1972 cơn lốc của chiến cuộc cuốn chúng tôi mỗi người một ngả, chỉ có một ít bạn tiếp tục việc học hành là có dịp gặp thầy, còn đa số chúng tôi thì xem như chia tay thầy mà không một lời từ giả, sau đó vài năm tôi được bạn bè cho biết thầy đang du học tại Mỹ…
          Thời gian thấm thoát thoi đưa, mới đó mà đã bốn mươi năm trôi qua,mấy năm trở lại đây với sự nhiệt thành của một số cựu thầy trò Nguyễn Hoàng có tâm huyết, cầu nối giửa những người muôn năm cũ được nối lại qua những trang sách, những ban liên lạc CHS NH được hình thành ở những nơi có học trò NH cư ngụ. Thầy trò NH đã có nhiều cơ hội để họp mặt hàn huyên tâm sự, tình thầy trò cũ trường xưa lại thắm đượm hơn bao giờ hết, tôi cũng có đi dự họp mặt nhiều lần nhưng chưa một lần gặp lại thầy. Tôi được bạn bè cho biết thầy đang ở cách đây nửa vòng trái đất, thỉnh thoảng thầy có về gặp được một số học trò cũ trong đó có một số bạn lớp 11C chúng tôi đang ở Sài Gòn có duyên may gặp gở thầy.
         Tôi chỉ được đọc một số bài thơ bằng tiếng Anh của thầy được chuyển Việt ngữ trên những trang sách của trường NH, thời gian gần đây nghe nói sức khỏe thầy giảm sút nên thầy ít về nước. Bao nhiêu năm xa cách giờ đây nhìn lại cả thầy lẫn trò tuổi đời đều đã chồng chất, dòng đời đã bãng lãng bóng hoàng hôn, không biết có còn cơ hội gặp lại thầy không nhưng ký ức về thầy vẫn rất sâu đậm không bao giờ phai nhạt trong tôi.
                                                                Nguyễn Ngọc Luật
Cù Bị 3, Châu Đức, BRVT. ĐT: 01687027065
  
THẦY GIÁO  
HAY CHÀNG  NGHỆ SỸ CHÂN TRẦN



Năm 1970  tôi bắt đầu biết tiếng Pháp nhờ học với thầy Lê Văn Quýt- Năm sau tôi học tiếp môn sinh ngữ phụ này với thầy Cao Hữu Điền.

Một thầy giáo già đầy kinh nghiệm với lối dạy kinh điển- học từ ABC và luôn bắt học trò học thuộc lòng bài học.

Một thầy giáo trẻ, kiến thức đại học,  với lối dạy “fantesie” hơn. Chủ yếu hoc sinh nghe bài giảng và tự giác học hơn là bị trả bài theo lối truyền thống.

Thầy Cao Hữu Điền- một giáo sư  trẻ, vừa tốt nghiệp đại học sư phạm  Huế,  vóc dáng thư sinh, nước da trắng và mái tóc dài rất nghệ sỹ. Nếu tôi nhớ không lầm thẩy  Điền ra dạy trường Nguyễn Hoàng cùng năm với thấy Trần Ngọc Cư và thầy Lê Văn Gioang.

Tôi nhớ thầy lên lớp giảng bài nhỏ nhẹ và ít truy bài  nên không khí lớp ít sôi nổi hơn giờ học với thầy Quýt.

Lối dạy đó thích hợp với sinh viên hơn là học sinh tỉnh lẻ như tụi tôi, may mà có căn bản từ năm học lớp 10 nên một số bạn theo kịp trong đó có Võ T Quỳnh.  HT Bich Hường , Thu Trang, Thái H Nguyên . Trần Đ Hành…
Thầy đi dạy nhưng hình như tâm trí để dành cho những hoài bảo khác, nên ít đầu tư hoàn toàn cho công việc. Bạn bè của thầy  ngoài ít đồng nghiệp thân thiết, còn có anh H N Đ., một phó quận trưởng  bỏ công việc về tỉnh lỵ cầm đàn violon ra đường cản đường xe Mỹ!
Trong những lần xôn xao như thế, tôi thầy thầy Đ. xuất hiện loay hoay chăm sóc bạn- người bạn mà lúc đó nhiều người bảo là điên vì dám chống lại chính quyền và bỏ việc!
Thời đó  thầy  hay ghé nhà của Lê Đ T Thành, là bạn cùng lớp, cùng xóm,  vừa là cháu gọi tôi bằng cậu vì anh Đ., bạn thầy,  hay về nhà Thành chơi  và ở lại.
Tôi có cảm tình với giọng Huế nhẹ nhàng của thầy và thích lối phản kháng phản chiến rất tuổi trẻ mà thầy tham gia dù thời đó tôi chẳng có chính kiến gì rõ ràng về chính trị chính em. Thầy giản dị hơn thầy TN Cư, ít nói chuyện thời cuộc trong lớp và ít mĩa mai cuộc đời…có thể do điều đó nên học trò dễ gần gũi với thầy hơn chăng?
Năm 1972 chiến sự xảy ra tại Quảng Trị,  học hành chưa hết học kỳ 1 thì  thầy cô & học trò NH tan đàn xẻ nghé- từ đó tôi bặt tin thầy.
Tôi gặp lại thầy năm 1997 hay 98 gì đó tại quán Rất Huế của N Đ Mừng lúc đó thầy còn sức khỏe, đang điều hành một công ty lữ hành chuyên giao dịch với khách Tây nên tiền bạc đủng đỉnh hay rủ học trò cũ đi nhậu- Mỗi  buổi nhậu đều có đàn hát, thơ phú vì thầy là một chàng nghệ sỹ mắc đọa với trần gian mà!
Tôi bận công việc nên thỉnh thoảng mới đến chơi với thầy- chỉ nhớ mỗi lần gặp ban đầu  chỉ một hai người, sau đó là năm sáu người và cuối là  nhiều người. Hình như là thầy sợ cô đơn khi thiếu bạn bè?
Có lần tôi mời thầy về nhà dung cơm, thầy uống  không nhiều nhưng thích nhìn ly rượu và thích nói chuyện hơn. Chuyện của thầy bảng lảng như nước chảy mây trôi, không có sự bắt đầu và kết thúc : một cảm giác tê tái nhớ nhà khi lang thang bên dòng sông Sein ngắm hoàng hôn, chút bâng khuâng nhớ nhung khi ngổi bên chiếc cầu ở biên giới bên  trời Tây, một cái chào xã giao của người con dành cho cha sau bao năm trời mới gặp lại trên đất Mỹ,  một nét văn hóa khác biệt  của dân xứ này xứ nọ… phải chịu khó ngồi nghe , đừng vội nhỉn đồng hồ,  phải đi đó đi đây hay đọc sách nhiều mới cảm được cái tâm sự rất thực của nguòi đàn ông sinh ra ở xứ Huế nhưng đôi chân và cái đầu  thì đi khắp nơi trên thế giới nên câu chuyện cũng trở thành “quốc tế”.
Những năm sau, do bệnh nên khi  nhậu thầy  thay ly bia bằng ly nước trà.  Ai mà trách người bệnh nên chuyện thầy ngồi nhậu mà chẳng uống chẳng ăn là hình ảnh quen thuộc với bạn hữu ở SG.
Sau một thời gian thầy dứt khỏi công việc, ra Huế dưỡng bệnh và lúc đó thầy biết nghe lời bác sỹ và  bạn đời Ái Anh hơn.
Hè năm 2007 về họp mặt Nguyễn Hoàng  tại Quảng Trị xong tôi vào Huế thăm thầy trước khi vào lại SG. Hai thầy trò đàm đạo tâm đắc  đủ thứ chuyện trên đời đến nỗi quên cả ăn tối và suýt trễ chuyến bay đêm.
Ngôi nhà 13 Phạm Ngũ Lão của thầy và chị Ái Anh là điểm “ tập kết ” của bạn bè tứ phương khi ra miền Trung.

Thầy làm du lịch kinh nghiệm như thế nào không rõ, nhưng một đôi vợ chồng nguòi Pháp là bạn  của em trai tôi  luôn hết lời ca ngợi thầy như là một người VN có kiến thức xã hội uyên thâm, sử dụng ngoại ngữ  tuyệt vời, sống quan tâm đến mọi người  đến nỗi lúc đi du nghiệp từ Pháp chú ấy gọi về hỏi tôi thầy Điền là ai.

Nay do bệnh nên ít đi xa,  nhưng thầy lại thườg  xuyên gặp gỡ bạn bè trên mạng. Ngày nào thày cũng cho những bạn bè  xa  biết thời tiết của Huế như thê nào và nhất là tin tức  về dòng sông Hương  mà thầy yêu mến vô cùng.

Tôi thích cách so sánh như thế này : Thầy Điền sinh ra không phải để làm thầy giáo, nhưng làm  một chàng nghệ sỹ mắc đọa chốn trần gian.  Ơn Trời thầy có được  cô tiên Ái Anh bầu bạn nên đi đày mà vẫn cứ vui.

Viết trong một  thoáng nhớ về thầy.

SG 27-02-2012.

NGUYỄN VĂN TRỊ  



NHỚ VỀ NGƯỜI THẦY XƯA


Đó là thầy Trần Ngọc Cư, giáo sư dạy tiếng Anh của lớp 10 & 11C trong hai năm cuối cùng chúng tôi học tại trường trung học Nguyễn Hoàng – Quảng Trị.

Đã mấy mươi năm từ giã mái trường xưa, cuộc đời lắm biến động đổi thay, ký ức về thời cắp sách đến trường hao mòn theo thời gian, nhưng tôi vẫn nhớ rõ về Thầy trong cách nhớ rất “riêng tư” của mình.

Thầy từ Huế ra Quảng Trị đem theo cung cách dạy sinh ngữ rất sống động và nhân sinh quan rất mới lạ đến với chúng tôi, những đứa học sinh Ban C, thường ra vẻ tự hào khi mang vào lớp những cuốn sách Triết hoặc tiểu thuyết của những nhà văn có tên tuổi.

Thầy Trần Ngọc Cư  khi ra dạy trường Nguyễn Hoàng – Quảng Trị tuổi rất còn trẻ, nhưng tư duy chính trị thì rất “già”. Thầy là tuýp người không khuất phục trước cái bất công, độc tài. Tính Thầy bộc trực, không biết lấy lòng ai nên khi nói chuyện có thể làm cho người nghe phật lòng, nụ cười nhếch mép như pha lẫn chút khinh bạc thói rỡm đời  hay diễu cợt một thứ gì đó. Thầy thích nghe đài BBC, VOA, và có thể cả đài “Tiếng nói Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” nên thường chỉ thêm cho chúng tôi những thuật ngữ kinh tế, chính trị báo chí tiếng Anh thời đó hay sử dụng. Nhờ vậy vốn liếng tiếng Anh thời trung học vẫn theo tôi và một số bạn cho đến tận bây giờ. Tôi vẫn còn nhớ như in các từ tiếng Anh như: Phái Bộ Liên Hiệp Quân Sự Bốn Bên (The Four-Party Joint Military Commission), Lập Trường Bốn Không của Nguyễn Văn Thiệu (The Four-No Stand), Luật Người Cày Có Ruộng (The Land to the Titlers Law) . . . và còn những tiếng lóng các chính trị gia người Mỹ thường gọi dân tộc chậm tiến họ coi khinh là The two-leg animals (động vật 2 chân) . . .

Thầy là người đã dạy cho tôi cách học tiếng Anh bài bản nhất: Làm quen và viết theo các mẫu câu, học không chỉ một từ đơn mà tìm hiểu thêm các từ liên quan (family words), trích các câu danh ngôn, lời phát biểu hay của các nhân vật nổi tiếng như Nehru, Lincoln , Luther King . . . đã giúp vốn liếng từ vựng của tôi ngày càng thêm phong phú.
Cái dáng đi nghiêng nghiêng, cái nhún vai khinh mạn thế sự, tiếng Anh chuẩn mực, kho từ vựng chính trị cuả Thầy luôn được cập nhật, ngôn ngữ Thầy dùng với học trò :  “tôi và các em”, luôn là những đặc điểm khi  nhớ về Thầy. Cũng như tôi,  các bạn cùng lớp cũng có những cảm nhận giống tôi khi nói về Thầy.
Xin góp một câu chuyện liên quan đến Thầy đã xảy ra rất lâu mà tôi không bao giờ quên: 
Năm học lớp 11C, một buổi sáng mùa đông trời mưa và rét, một việc không bình thường xảy ra với tôi trước giờ Việt văn của Thầy Phạm Sửu (Thầy Sửu mất năm 1972): thầy giám thị vào lớp kiểm tra đồng phục và huy hiệu. Mùa Đông ở quê mình rất lạnh,  học sinh đi học đều mặc áo len hoặc áo khoác bên ngoài, còn áo trắng đồng phục thì mặc bên trong. Hôm ấy có một anh bạn cùng lớp không mặc áo trắng và bên ngoài lại choàng một chiếc áo khoác nhà binh cũ. Anh bị thầy giám thị phát hiện và đuổi ra khỏi lớp. Tôi vốn được biết anh này là lính xây dựng nông thôn giải ngũ về, gia đình nghèo, từ quê lên tỉnh học. Tôi thấy nhẫn tâm về cách kỷ luật này nên buộc miệng nói: “Lối giáo dục phi giáo dục” khi thầy giám thị đi qua chỗ tôi. Nghe được câu này, thầy ấy quay lại hỏi: “Đứa nào vừa nói?”, và sau đó thì tôi bị một cái thước mộc quất vào người . . . Hậu quả là trong giờ Việt văn tôi nhận giấy cấm túc đuổi học mấy hôm . . . Giờ tiếp theo là của Thầy Cư. Khi nghe các bạn kể về chuyện xảy ra, Thầy đã phát biểu một câu mà đến giờ tôi không thể nào quên. “Giờ của thầy cô nào thì tôi không biết, nhưng giờ của tôi, bảo em ấy cứ vào học”.
Tưởng đâu sẽ được học với Thầy hết năm 11,  nhưng thế sự đã xoay vần và thầy trò chúng tôi mỗi người lưu lạc một phương trời.
Sau 32 năm (1972-2004) thầy trò có cơ duyên hội ngộ. Buổi tương phùng sao bồi hồi và cảm động quá. Món quà của cuộc sống dành cho tất cả chúng ta đấy các bạn ạ! Học trò của Thầy ngày xưa có người đã có cháu nội, ngoại, thậm chí có bạn trông còn già hơn Thầy. Nhưng có sá gì chút dấu ấn của thời gian khi ngộ ra rằng “thời gian kia là vị khách đi qua muôn đời” (Quang âm giả bách đại chi quá khách). Cái quan trọng nhất là tình cảm của thầy trò chúng ta, dù trải qua bao nhiêu thăng trầm của cuộc sống, vẫn luôn mãi ấm như là ngày xưa.
Trong mắt em Thầy là một người có tài năng (sau 1973 Thầy được học bổng Fullbright qua Mỹ học và định cư luôn), thời trẻ nuôi  hoài bão và l‎‎ý tưởng về một tương lai sáng lạn cho đất nước Việt Nam . Về già Thầy sống đời lặng lẽ bình dị, thỉnh thoảng làm thơ, dịch sách báo như là thú vui tao nhã.
 Em nghĩ đến Thầy với sự qúy mến và lòng biết ơn vì Thầy đã truyền cho em hứng thú học tiếng Anh. Nhờ học với thầy nên em biết cách tự học khi không đến trường và thời VN mở cửa đã sử dụng ngoại ngữ này để tìm cho mình một vị trí trong xã hội. Học trò của Thầy không làm vương làm tướng gì, nhưng tất cả đều làm Người Chân Chính.
Mong Thầy mãi an nhiên tự tại và sức khỏe dồi dào.
 Viết thêm vào tháng 11, 2011
NGUYỄN VĂN TRỊ 


 NHỚ VỀ THẦY LÊ VĂN QUÝT  

GS Pháp Văn Trường Trung học Nguyễn Hoàng,Quảng Trị 

Nguyễn Văn Tr


Đời học sinh ai mà chẳng học qua nhiều lớp và với nhiều thầy cô. Không ít thì nhiều mỗi thầy cô đều để lại cho học trò những kỷ niệm trong năm tháng cùng nhau học và dạy dưới mái trường thân yêu. Tôi tin chắc chúng ta  một lúc nào đó trong đời đều có những giây phút thả hồn về với thời học sinh ngày ngày cắp sách đến trường, trong đó ký ức về thầy cô  là những kỷ niệm thật dễ thương và đáng nhớ vì họ là những người với sự thông tuệ về tri thức đã có công giáo dục và dạy dỗ chúng ta nên người hữu dụng cho xã hội.


Trong niên khóa 1971-1972 tôi học lớp 10 C trường Trung học Nguyễn Hoàng Quảng Trị. Người thầy để lại trong tôi nhiều ấn tượng cả về phương pháp dạy học sinh động lẫn phong cách cư xử thanh nhã, lịch thiệp có một nét nào đó điệu đàng như một “quý ông Paris”  là thầy Lê Văn Quýt, giáo sư dạy Pháp văn- môn ngọai ngữ thứ 2 của lớp tôi.


Thầy có dáng dấp nho nhã, lưng thẳng, đi đứng khoan thai, mái tóc chải dầu brillatine  bóng mượt nổi bật đường rẽ ngôi phẳng tắp. Y phục thầy mặc luôn chỉnh tề với aó chemise trắng tinh bỏ trong quần tây màu đậm xếp li phẳng nếp, chiếc cà vạt thắt ngay ngắn với chiếc kẹp mạ vàng sáng bóng, thắt lưng da màu đen, đôi giày đánh xira bóng lộn, một chút nước hoa mùi thơm thoang thoảng. Tất cả  là thói quen ăn mặc thường ngày của thầy mỗi khi ra khỏi nhà dù là đi công việc hay đi dạy. Lũ học trò chúng tôi thường hay quan sát cách ăn diện của thầy và tôi còn nhớ  dám “cá” với bạn bè là thầy bỏ ra không ít 30 phút mỗi buổi sáng để trau chuốt “dung nhan” và y phục  trước khi đi dạy. Đó là sở thích của thầy,và điều đó cũng nói lên tính cách của thầy luôn đòi hỏi mọi sự phải tòan mỹ, tòan thiện, không chấp nhận sự lơ tơ mơ, nửa vời đối với việc học môn tiếng Pháp với thầy. Đúng vậy, trong việc dạy học thầy quả là một nhà giào kinh nghiệm và bản lĩnh. Giờ dạy của thầy được ví như là một bức tranh sinh động của sự tương tác qua lại giữa người dạy và nguời học. Lớp học sôi nổi hẵn ra từ khi thầy bắt đầu vào lớp. Thầy đâu để yên cho chúng tôi muốn làm gì thì làm. Đố đứa nào không ôn kỹ  bài ở nhà mà dám vào học giờ của thầy: nào là  trả bài cũ (chúng tôi học cuốn Cours de Langue de Francaise I ), dịch và phổ ra tiếng Việt bài thơ tiếng Pháp thầy cho từ buổi học trước, học ngữ vựng với các từ có họ hàng với từ chính. Tập đặt câu, chia thì … Ngoài ra các bài thơ thầy cho phải được  chép thật nắn nót, trình bày trên giấy pelure màu rồi dán vào vở như là trang trí. Một giờ học môn Pháp văn ở lớp chúng tôi phải mất mấy giờ ở nhà để học, soạn bài mới mong không bí khi bị thầy “truy ”.

Cũng nhờ vậy nên học trò của thầy học tiếng Pháp mau tiến bộ và vui. Thời đó mà thầy đã có những phương pháp dạy học thật là sáng tạo và sinh động. Tôi tự nghĩ nếu không vì tình yêu tiếng Pháp đầy hoa mỹ, súc tích, phong phú về ngữ nghĩa và giàu có về  âm điệu và ước muốn học trò học thật tốt ngoại ngữ này, chắc thầy không phải tốn nhiều công sức dạy học trò đến thế.
Lớp 10C của tôi có mấy bạn học tiếng Pháp nổi trội như Nguyễn Lang, Hà Thị Bích Hường, Thái Hòang Nguyên, Trần Đại Hành, Võ Thị Quỳnh, Lê Đình Thị Thành… Ấn tượng nhất là Nguyễn Lang vì mỗi bài thơ tiếng Pháp như Le Matin (Buổi sáng mai) hay Le Petit Campagnard (Em bé quê), Lang đều phỏng dịch ra thơ tiếng Việt có vần điệu và hay nên thầy thích lắm. Thời đó mỗi lần làm bài tập thầy cho chỗ nào bí nhờ Ba tôi giúp nên cũng không đến nổi bị thầy chê. Sau này mỗi lần bạn bè 10C gặp nhau đứa nào cũng đem mấy câu thơ Francaise học thuộc từ thời học với thầy ra để “xổ” thật là vui.
 Trong lớp, thầy như người nhạc trưởng điều khiển chuyên nghiệp và bao quát.Giờ của thầy đố có ông tướng nào quậy phá vì thầy luôn quan sát toàn diện, đi từ bàn trên xuống bàn dưới để khám vở, kiểm tra bài tập, tạo mẫu đối thoại giữa 2 bạn hoặc 2 nhóm, sửa lỗi ngay trên vở bạn  nào viết sai, đọc và giảng bài, tóm tắt sau mỗi bài giảng để chắc rằng tất cả học sinh đều hiểu bài. Phải nói thầy Quýt là một trong những nguời thầy tận tụy , yêu nghề nhất của trường TH Nguyễn Hòang thời bấy giờ. Giọng nói của Thầy rất rõ ràng và truyền cảm,nhất là mỗi khi thầy phát âm tiếng Pháp thì rất chuẩn. Chữ viết của thầy đều và đẹp như hạt bắp. Rất tiếc sau này lớp của  chúng tôi không ai trở thành giáo viên bộ môn tiếng Pháp để tiếp nối môn dạy của thầy.
Nhớ về Thầy với bao là kỷ niệm đẹp. Thời thế thay đổi khôn lường, chiến tranh loạn lạc đẩy đưa chúng tôi trôi dạt muôn phương. Mới ngày nào đây mà đã gần 35 năm mới được gặp lại Thầy. Đó là vào năm 2007. môt hôm nhận điện thoại của chị Nghĩa, chị họ cùng học NH, báo tin là Thầy từ Hàm Tân, Binh Thuận vào Sàigòn thăm Mộng, con gái của Thầy. Hôm đó một số bạn là Bích, Nga, Phước, Trung, Mừng… cùng tụ họp để mừng hội ngộ thầy tại nhà chị Nghĩa. Ngòai ra còn có sự hiện diện của thầy Hồ Thế Vĩnh. Thầy trò gặp lại nhau mừng mừng tủi tủi ôn lại chuyện xưa. Mấy chục năm trôi qua thầy già đi nhiều, đi lại đã có phần khó khăn nhưng thần sắc, trí nhớ  vẫn còn minh mẫn, tinh anh.
Mấy năm sau này mỗi lần họp mắt đầu xuân cũa Ái hữu Nguyễn Hòang tại Saigon thầy đều nhận lời mời về dự. Năm ngóai chúng tôi gồm  một số học trò cũ và thầy Lê Hữu Thăng có về thăm thầy tại Tân Hà. Thầy rất vui và khoe với chúng tôi về các thư từ, hình ảnh của học trò, đồng nghiệp cũ gởi thăm. Tôi nắm bàn tay mềm mại và ấm áp của thầy mà cứ tưởng như thầy trò đang đứng dưới mái trường Nguyễn Hòang thân yêu. Giờ chia tay về lại thành phố, tiễn đồng nghiệp và học trò cũ lên xe mà Thầy mãi đứng lặng yên một chỗ. Tấm lòng và tình cảm  của thầy sao mà thiết tha đến thế, có gì đẹp nhất trên đời bằng tình nghĩa thầy trò phải không các bạn?
Có điều tôi muốn nhắn gởi với các bạn, khi có điều kiện thì đừng bỏ lỡ cơ hội thăm viếng lại thầy cô cũ của mình. Ngày Hiến chương Nhà Giáo, dịp lễ tết, hoặc nhân một chuyến đi công tác tranh thủ ít chút thời gian ghé thăm thầy cô. Những cuộc thăm viếng ấy có ý nghĩa vô cùng sâu xa mà có thể ta không ngờ đến. Vì đó là lúc ta tìm về với tuổi học trò của mình với nhiều kỷ niệm, đó cũng là dịp ta nói lời cảm ơn đến những nguời trong cuộc đời không ít thì nhiều đã làm nên đến tính cách của ta khi trưởng thành. Họ đã hòan thành sự mạng lịch sử của mình, họ là người gieo giống đi muôn phương (bài thơ Le Semeur của Victor Hugo mà thầy giới thiệu với chúng ta)  và có gì làm họ vui hơn khi hạt giống ngày xưa ấy đã mọc thành cây lớn, đã cho đời nhiều cây non và có giá trị. Hãy làm thử đi và sẽ thấy chính các bạn đã làm mình vui thú.
Viết từ Saigon 9/4/2009
Nguyễn Văn Trị- Hoc sinh 10C NH niên khóa 1971-72       


NHỮNG NGƯỜI CHUNG QUANH TÔI



Nguyễn Thị Giáng Hương


 Mùa Xuân đang ngự trị trên đất nước: Cây cỏ vươn mầm xanh mướt trông thật mát mắt. Bầu trời như trong hơn, xanh hơn và lòng người cũng rộn ràng hơn với những niềm hy vọng mới.
Sau buổi tối họp mặt NHSaigon tại nhà hàng Kim Thanh, dân Nguyễn Hoàng chúng tôi đã tham quan miền Tây Nam Bộ vào ngày 16 tháng giêng âm lịch. Đây là lần thứ ba tôi tham gia đoàn với các cựu học sinh Nguyễn Hoàng. Lần đầu là ngày đầu năm tết dương lịch - tôi theo đoàn về Hàm Tân dự lễ mừng thọ thầy Lê Văn Quýt; mùa thu năm ngoái tham gia tour Kampuchia và chuyến nầy là du lịch sông nước miền Tây.
Lần nầy số người tham gia đông hơn. Ngoài những khuôn mặt quen thuộc của NHSaigon như Trị, Mừng, Quang Tuyết, anh chị Mai Phái, anh chị Tường Sâm,… còn có những NH nơi khác cùng tham gia như anh chị Phỉ Phụng, anh Ngô Ngọc Hồng, chị Mỹ Lệ, cô Phương, anh Hồ Sĩ Trân, anh chị Xuân Tuyên từ Mỹ về.  “Nội địa” thì có chị Tú Minh từ Daklak, anh Phan Thạch Giang và Liên Hưng từ Biên Hòa, Vĩnh Phước từ Bà Rịa, Thu Vàng từ Quảng Ngãi, anh Văn Kế Thế từ Bảo Lộc, Như Hồng từ Ninh Thuận, Đoàn Hoa từ Bình Thuận, v.v….
Từ sáng sớm, mọi người đã tề tựu và xe đến mấy điểm để đón từng nhóm rồi rời Saigon trong nắng xuân tươi đẹp cùng bài đồng ca vui vẻ. Sau khi ăn sáng ở ngã ba Trung Lương, nơi chúng tôi đặt chân tham quan đầu tiên là Trại rắn Đồng Tâm ở Mỹ Tho. Ở đây chúng tôi được thấy đủ loại rắn: hổ mang, hổ mèo, rắn ráo, rắn lục, v.v... Rắn được nuôi trong những khu vực có tường cao vây quanh, trong đó có những lạch nước cho rắn tắm mát. Dễ sợ nhất là trên những lùm cây cao rắn cũng được thả bò lúc nhúc. Ba cô trò chúng tôi (tôi, Liên Hưng, Vĩnh Phước ) vốn sợ rắn nên đi xa xa để nhìn chứ không dám đến gần.  Tôi và Vĩnh Phước còn “gan” chứ Liên Hưng coi vậy mà không phải vậy. Cô nàng nầy nhát rắn kinh khủng, khi xe dừng trước cổng trại rắn, Liên Hưng nói Cô ơi! Em ngồi trên xe, không vào đâu. Nhưng xe khóa cửa buộc hắn ta phải xuống, mà không lẽ đứng lơ ngơ một mình ngoài cổng nên buộc lòng phải “níu áo” tôi và Vĩnh Phước. Khi đoàn được ban quản lý trại mời xem phim quảng cáo về rắn trước khi đi tham quan, Liên Hưng cứ cúi mặt nhìn xuống chân, không dám nhìn lên màn ảnh vì sợ, ai khích tường gì hắn cũng cười chứ mắt không dám dòm lên. Khi rời phòng chiếu phim, hắn tỏ ý thán phục tôi và em gái Vĩnh Phước, vì cô trò tôi đã dám xem phim (!).
Chúng tôi theo chân hướng dẫn viên đi qua những nơi nuôi rắn, ba cô trò cứ níu tay nhau, Liên Hưng giả bộ ngó lơ đâu đâu chứ không dám nhìn vào các ổ rắn, thế mà có một cô nàng đeo con trăn to bự chảng ngóc đầu ngo ngoe trên cổ lừng lững tiến tới, có lẽ cô ấy mời du khách chụp ảnh. Thế là ba cô trò tôi vội nhanh chân bước tránh qua lối khác. Khi đã ở vào vị trí tầm xa với Người - Trăn, chúng tôi quay đầu nhìn lại thì thấy chị Lợi (Định Quán), Như Hồng và mấy chị em cô Phương cũng đang ù té chạy tránh cái cô quấn trăn kia. Chúng tôi bật cười bảo nhau thì ra không chỉ cô trò mình nhát.
Trăn ở đây rất to. Khi vào nhà nuôi trăn, chúng tôi chưa kịp “tham quan” đã vội tháo lui vì mấy chị vào trước vội vội vàng vàng quay trở ra luôn miệng nói dễ sợ, dễ sợ. Ấn tượng nhất là ai muốn chụp hình với trăn đều được đứng chụp với một nữ huấn luyện viên với một con trăn to quấn ngang người, cô ấy bảo đây là con trăn duy nhất đã được thuần dưỡng. Biết vậy nhưng chỉ có mấy ông gan cùng mình mới dám chụp ảnh chung với người đẹp thôi, còn đám phụ nữ chúng tôi lo nhanh chân dời bước. Đoàn cũng được hướng dẫn viên giới thiệu về cách lấy nọc rắn để chế những bài thuốc quý. Đặc biệt có món rượu rắn “ông uống bà khen”, làm mấy bà muốn mua làm quà tặng phu quân lẫn mấy ông có nhu cầu tiêu dùng cũng không dám “công khai”, mà phải áp dụng “chiến thuật du kích” và ngụy trang bao bì…
Thật là một điểm tham quan đáng nhớ. Mấy hôm sau, khi vào khách sạn nhìn mấy chậu kiểng xanh tốt hay đi ngang qua những lùm cây ven đường, ba cô trò chúng tôi đều tránh xa vì ám ảnh, tưởng như có rắn trong đó vậy.
Xe tiếp tục lăn bánh và dừng lại ở lò làm kẹo của xứ dừa Bến Tre.  Cánh cửa xe vừa mở, mùi kẹo dừa đã xộc vào thơm phức. Cơ sở chế biến sạch sẽ, nhìn bàn tay những cô thợ xinh đẹp gói kẹo thoăn thoắt thật là thích mắt. Du khách tha hồ thử kẹo rồi tỏa ra các gian hàng mua kẹo dừa và những vật lưu niệm làm từ cây dừa như đũa dừa, gáo dừa, cây gãi lưng bằng dừa, v.v…. Kẹo  thơm ngon, còn vật dụng nào cũng xinh xắn, đẹp mắt Rời xứ dừa, xe tiếp tục về vùng Sóc Trăng với những nét đặc thù văn hóa Khmer mà tiêu biểu là chùa Mã Tộc và chùa Đất Sét.
Chùa Mã Tộc (Wathsêrâytecho Mahatup) quen gọi là Chùa Dơi được xây dựng cách đây 400 năm. Chùa Dơi có lối kiến trúc cổ kính đượm chất Khmer với những đường nét hoa văn cong vút. Đây là ngôi chùa to đẹp nhất trong số hơn 90 ngôi chùa của đồng bào Khmer miền Tây Nam bộ. Khuôn viên chùa khá rộng, rừng cây cổ thụ sau vườn chùa là nơi trú ngụ của khoảng một triệu con dơi quạ - loài dơi lớn có sải cánh dài độ 1m - 1,5m. Ban đêm chúng đi ăn, ngày lại treo mình lơ lửng trên những cành cây để ngủ một cách bình yên vì chả sợ ai săn bắt chúng, vì lẽ đó nên dân địa phương quen gọi là chùa Dơi. Sau khi chụp ảnh lưu niệm, ba cô trò chúng tôi vào điện lễ Phật rồi ra vườn chùa xem dơi ngủ nhưng chẳng thể nán lại lâu vì mùi phân dơi nồng nặc quá.
Rời Chùa Dơi, đoàn ghé qua Bửu Sơn Tự. Ngôi chùa nầy không có không gian đẹp và rộng như Chùa Dơi nhưng đặc biệt có trên mười ngàn tượng lớn nhỏ đều được làm bằng đất sét, cả cột chùa cũng bằng đất sét nên người dân quen gọi là Chùa Đất Sét. Độc đáo hơn, nơi đây có 8 cặp đèn cầy, mỗi cây cao 2,6m; bề ngang 1 mét. Hướng dẫn viên nói những cây đèn cầy khổng lồ nầy được dòng họ Ngô đúc bằng sáp từ năm 1940. Bình quân mỗi cây đèn cháy suốt ngày đêm cũng phải mất khoảng từ 70 đến 80 năm. Hiện nay có 2 cây đèn cầy cháy gần hết, phần còn lại là một khoanh tròn gần sát đất trông giống như cái dĩa dầu khổng lồ vậy. Một điều đáng buồn là nơi đây quá nhiều người ăn xin, từ trẻ con ở trần, mặt mày đen nhẻm đến người lớn rách rưới chạy theo du khách, có cho tiền cũng chỉ cho được vài người tượng trưng chớ làm sao mà phân phát đủ cho cả đám cái bang nhếch nhác đó.
Khi trời trở về chiều, xe quay đầu về lại Cần Thơ. Sau khi nhận phòng và tẩy bụi trần một ngày dài, đoàn gặp nhau trên bến Ninh Kiều để xuống du thuyền ăn tối và ngoạn cảnh sông nước về đêm. Chưa phải là đêm cuối tuần mà khách trên du thuyền rất đông, ngồi chật cả 3 tầng. Đoàn NH được ưu tiên ngồi trên bong, nơi có sân khấu ca nhạc. Chúng tôi vừa nghe nhạc, vừa ngắm trăng trên cảnh sông nước vừa thưởng thức những món ăn đặc sản miền Tây thơm ngon tuyệt vời. Có mấy CHS/NH lập nghiệp trên đất Cần Thơ đến giao lưu cùng đoàn chuyện trò rôm rã. Vui nhất là Liên Hưng và Lê Cảnh Lạc - đôi bạn học cũ - ngồi cạnh nhau một lúc mà không hay vì ánh đèn màu khi mờ khi tỏ. Lúc quay sang hỏi chuyện, hai em chợt nhận ra nhau mới phá ra cười. Sân khấu không chỉ là “đất” để nhà hàng trình diễn những màn đờn ca tài tử của người phương nam mà còn dành cho thực khách “hát cho nhau nghe”.
Thế là sau một hồi xúi ủi, Quang Tuyết - ca sĩ Nguyễn Hoàng - cũng lên góp vui với bài Mưa Hồng của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn được khán giả vỗ tay và tặng hoa tới tấp. Lời ca cứ bồng bềnh theo con thuyền trôi trên sông nước bình yên. Xa xa, cây cầu dây găng Cần Thơ sáng rực ánh đèn màu trông như những chiếc cầu vồng trong phim thần thoại vậy.
Khi đã theo dòng một vòng, du thuyền quay về bến cũ. Thành phố Cần Thơ và khách sạn Ninh Kiều chấp chới trong ánh đèn đêm huyền ảo. Chúng tôi chia tay nhau, những cái xiết tay, những câu hẹn gặp đầy tình Nguyễn Hoàng trên bến lạ. Trở về khách sạn chúng tôi không thể ngủ được vì vầng trăng 16 như mời gọi. Thế là a lô nhau rồi cùng ra bến Ninh Kiều tắm trăng sương. Cây guitar của Đặng Mừng bắt nhịp theo giọng hát của nhóm nhỏ. Vĩnh Phước, Thu Vàng, Quang Tuyết say sưa hát. Chúng tôi nghe Thu Vàng hát xong lại yêu cầu ca tiếp, lời ca cứ như những hạt sương đêm lấp lánh ánh đèn màu bên bờ sông lạnh. Ba cô trò chúng tôi nép bên nhau vừa ngắm ánh trăng đổ bóng vàng xuống dòng sông đêm vừa nghe giọng Thu Vàng nức nở:
                           “ Tìm đâu những ngày thơ ấu qua
                              Tìm đâu những ngày xinh như mộng …”  
            Tìm đâu? Biết tìm đâu? Đâu tìm? Lời ca đã ngưng, tiếng đàn cũng thôi réo rắt mà tâm hồn chúng tôi cứ vời vợi trôi về miền quá khứ của một thuở hoa niên, của một thời mới lớn chạy theo đàn bướm trắng. Có lẽ nhóm nhỏ sẽ chia tay nhau trong lặng lẽ nếu không có một “sự cố” tức cười. Đó là khi bước vào sân hotel, thấy ánh đèn màu bên dòng chữ Ninh Kiều và chậu kiểng khá đẹp, Liên Hưng liền yêu cầu tôi và Vĩnh Phước đứng tạo dáng để em trau dồi tay nghề. Em ấy đâu biết rằng đằng kia Nguyễn Văn Trị cũng đang rình chộp lại bức ảnh độc đáo của của mình. Hắn quỳ gối để bấm máy lấy hình, Quang Tuyết đứng chênh chếch bảo chưa chuẩn, Liên Hưng phải chụp lại. Tưởng thiệt, em nheo mắt chụp lại. Quang Tuyết lại tinh quái bảo phải ngồi chò hỏ chụp mới đúng chuẩn, Liên Hưng thật thà làm theo. Khi đó, tôi và Vĩnh Phước nín hết nổi nên cười òa. Quang Tuyết, Thu Vàng cười theo. Khi đó phó nhòm LH mới ngơ ngác quay nhìn và phát hiện ra mình cũng đang làm người mẫu bất đắc dĩ. Ối trời ơi! Liên Hưng la oai oái còn Quang Tuyết thì luôn miệng bảo đó là một trong những tấm hình bán đấu giá “có giá” của tay săn ảnh nặng ký Nguyễn Văn Trị.
Sáng hôm sau, trời còn mờ sương chúng tôi đã thức dậy để đi tham quan Chợ Nổi Cái Răng. Lời dặn dò của ông xã tôi lại vang lên:
                             “ Đi đâu phải nhớ nằm lòng
                                Gặp nơi sông nước phải tròng áo phao…”
Nhưng không chỉ riêng tôi mà cả đoàn đều “tròng” áo phao, thì ra ai cũng sợ diện kiến vua thủy tề. Vì thế mà chiếc thuyền chúng tôi ngồi rực rỡ màu vàng cam trong sương sớm.
Từ bến Ninh Kiều đến Cái Răng khoảng 30 phút. Chợ Nổi chuyên buôn bán các loại trái cây và đặc sản của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Sau này vì có nhu cầu ăn uống nên cũng có một ít thuyền phục vụ ẩm thực. Trên mỗi thuyền đều có treo loại trái cây chào bán trên cây sào cao trước thuyền  để khách ở các thuyền xa thấy mà đến mua. Mặt hàng trái cây thực là phong phú, đủ loại như cam, quýt, xoài, dưa hấu, thơm, bí đỏ, bí xanh, dừa,… có cả những thuyền bán cây kiểng. Đặc biệt dọc theo sông còn có cây xăng nổi trên mặt nước nữa. Ghe tàu nào thiếu nhiên liệu thì cứ ghé cây xăng nầy. Mới sáng sớm mà việc mua bán đã diễn ra tấp nập vì cỡ 9 giờ sáng là chợ tan. Người dân ở đây chẳng ai cần áo phao vì họ là người của sông nước, là bạn thiết của vua thủy tề nên có rớt xuống sông cũng nổi lên, chẳng thèm diện kiến hà bá. Thấy thuyền chở du khách, mấy chiếc ghe nhỏ chở đầy hàng quà vội vàng tách thuyền lớn ghé đến, họ dùng dây móc quăng vào thuyền chúng tôi cho dính rồi cứ lềnh bềnh trôi theo mời chào. Các chị mua xoài, mận,… trái nào trái nấy to bự chảng, cả bắp luộc nóng hổi và cà phê đá pha sẵn trong ly nhựa nữa. Dọc đường trở về, chúng tôi dõi mắt theo những hàng cây xanh xanh hai bên bờ, những cây dừa già cỗi ngã mình soi bóng xuống dòng sông, những mảng lục bình đầy hoa tím dập dềnh theo sóng nước mới thơ mộng làm sao.
 Ăn sáng xong, đoàn thu dọn hành lý rồi tiếp tục cuộc hành trình về Rạch Giá. Bữa ăn trưa tại nhà hàng Đông Xuyên (Long Xuyên), đoàn đã rất vui khi được các CHS/NH sinh sống ở vùng sông nước nầy đến chào đón, trong đó có hai người em của anh Phỉ. Những Nguyễn Hoàng tha phương tìm đến nhau khi mái đầu đã bạc trông thật cảm động. Chia tay NH/Long Xuyên trong bịn rịn, chúng tôi tiếp tục đi về Hà Tiên. Mãi đến chiều xe mới đến Kiên Lương, dừng lại dưới chân núi Bình San - còn gọi là núi Lăng vì đây là quần thể lăng mộ của nhà họ Mạc - gia tộc đã có công với lịch sử ở vùng đất nầy. Quần thể lăng mộ thật cổ kính và uy nghi rộng lớn cả một vùng từ thấp đến cao. Đến đây tôi mới hiểu câu hát “Tôi qua lăng Mạc Cửu, nằm trên con voi phục…” Voi ở đây là dãy núi xa xa phía trước có thế như con voi chầu (phục), chứ không phải lăng Mạc Cửu nằm trên núi voi như tôi thường nghĩ. Rời núi Lăng, đoàn lại hành trình tiếp về Thạch Động. Ngang qua Chùa Phù Dung, hướng dẫn viên chỉ chỉ cho chúng tôi thấy chứ không ghé vào vì điểm chương trình tour. Tuy nhiên lòng tôi cũng miên man theo chuyện tình nàng Xuân Tự và những câu thơ của nhà thơ Kiên Giang thuở trước.
Thế rồi tôi đã được vô thăm Thạch Động để chiêm ngưỡng trời bát ngát mênh mông và lắng nghe tiếng chuông ngân trong chiều vắng như bài hát Hà Tiên kể lại từ bao năm trước. Thạch động thôn vân (dịch nghĩa: động đá nuốt mây), hướng dẫn viên trích thơ của Mạc Thiên Tứ và tôi thấy chỉ qua mấy câu thơ ấy đã nói lên tất cả cảnh quan tuyệt vời nơi đây:
Xanh xanh ngọn đá chạm thiên hà,
Động bích long lanh ngọc chói lòa.
Chẳng hẹn khói mây thường lẩn quất,
Không ngăn, cây cỏ mặc la đà.
Phong sương càng dãi màu tươi đẹp,
Nhật nguyệt chi ngừng bóng lại qua.
Chót vót tinh hoa đây đã hẳn,
Theo chiều gió lộng vút cao xa
(Bản dịch của thi sĩ Đông Hồ)
Ẩm thực buổi tối du khách tự túc. Ba cô trò chúng tôi thả bộ ra chợ Hà Tiên bên bờ biển, thức ăn ở đây không những ngon mà còn rẻ. Ngoài món mặn, Liên Hưng còn cù rủ tôi ăn chè Thái ngọt lịm. Thế nầy thì đi du lịch về không mở mang tầm nhìn cũng nở nang vòng bụng (!).
Sáng hôm sau, trước khi rời Hà Tiên thơ mộng, đoàn đã dừng chân bên bãi biển Mũi Nai - một trong 3 bãi biển “quý hiếm” của khu vực đồng bằng sông Cửu Long và nổi tiếng là một trong 10 cảnh đẹp của Hà Tiên. Biển ở đây rất đẹp, nước không trong nhưng bờ cát mịn màng, sạch sẽ.  Tương truyền, từ thuở xa xưa, tại vùng đất mênh mông nước, mênh mông trời này có một chú nai con sơn thần hay ra uống nước. Rồi một ngày, mải say sưa ngắm cảnh vật chú đã không kịp trở về rừng và bỗng dưng biển trời nổi sóng, chú nai con hoá thành tảng núi đá bên mép biển khơi. Người ta nói muốn nhìn toàn cảnh Mũi Nai phải lên đỉnh Ta Pang. Từ độ cao ấy nhìn xuống du khách sẽ thấy núi đá hình chú nai đang uống nước nổi bật trên bãi biển trải dài và những cung đường xanh ngát. Mũi Nai là tên dịch từ tiếng Hán Việt “Lộc Trĩ “ cách đây 300 năm trước. Tiếc rằng chúng tôi đến đây vào buổi sáng nên chỉ nghe tiếng sóng biển dịu dàng, yên ả chứ không được thưởng thức dàn đồng ca sóng, gió cùng hàng lá cây mù u dọc theo bờ biển và tiếng kêu của những cánh hải âu xao xác, chao lượn trong ráng hoàng hôn đỏ ối như từng nghe.
Từ khi lên xe, các MC của NHSaigon đã đưa chuyện dẫn dắt mọi người tham gia sinh hoạt. Vui nhất là trò chơi tìm từ có chữ L, M trên cơ thể con người đã tạo nên những tràng cười thú vị. Chuyến đi nầy có ca sĩ chính hiệu Thu Vàng nên bà con được một chuyến thưởng thức ca nhạc ra trò. Sau đó, vì vui nên gần như cả đoàn đều tham gia chương trình “tạp lục” này. Nhóm Yamacohavu chúng tôi góp vui với liên khúc Xuân rộn ràng. Không ngờ chị Tú Minh hát những bản nhạc tình cảm ngày xưa lại có giọng ca trẻ trung, dịu dàng đến thế. Vĩnh Phước đậm chất giọng miền Trung, ngọt ngào và sâu lắng làm lòng người nghe nhớ quê hương vô cùng. Anh chị Phái Mai cũng lên song ca. Anh Phỉ, anh Phái, anh Giang, anh Thế,… ngâm và đọc những bài thơ do mình sáng tác với những lời tâm sự thật chân tình, cảm động. Các anh còn kể chuyện tình thời trai trẻ của mình một cách chân thực, có răng nói rứa không cần dấu diếm vì tra rồi… như anh Hồng, anh Tường, anh Thế… Câu chuyện “Đôi dép “ của Đặng Mừng kể người thật việc thật về Cái thời bạn bè gặp nhau cúi mặt vì sợ dính dáng… thế mà cô bán kẹo gương - Quang Tuyết - không màng đến sự khó khăn, gian khổ của mình, vét mấy đồng bạc còn sót lại trong túi chạy vào chợ khi nhìn đôi chân trần rướm máu của người bạn học cũ, cô mua vội đôi dép rồi chạy theo đoàn người gánh củi réo gọi Mừng ơi! Mừng ơi! Dép đây nì! Kể đến đó, tác giả ngắc ngứ vội ôm mặt ngồi xuống làm cô trò tôi và mọi người thút thít. Quang Tuyết mắt đỏ hoe kể tiếp phần kết làm ai nấy thấy tình bạn Nguyễn Hoàng sao mà thương thế!
 Chặng đường từ Hà Tiên trở về xe chạy dọc theo kênh đào Vĩnh Tế. Dòng sông không lớn nhưng chiều dài cả trăm cây số, là ranh giới của Việt Nam và Kampuchea. Đoạn đường nầy chẳng có cảnh quan gì, chỉ là những xóm nhà sàn ven sông buồn bã và đồng không trơ trọi, chẳng có gì để ngắm nhìn nên chúng tôi sinh hoạt trên xe nhiều hơn. Ngoài trưởng tràng Nguyễn Văn Trị và các MC “gạo cội ” như Quang Tuyết, Kế Thế, Đặng Mừng với những chuyện khôi hài dí dỏm; lần này Thu Vàng không chỉ hát mà còn ngâm thơ không thua gì chương trình tao đàn của đài phát thanh. Còn kể chuyện khôi hài thì vô số. Có lẽ bị lây lan nên ngay cả 2 cô học trò của tôi cũng lên góp chuyện. Liên Hưng vừa dứt chuyện anh sui qua thăm chị sui mà từ chối món thịt gà hấp dẫn cười chưa ngưng thì chị Mỹ Lệ kể tiếp chị sui trả lời anh sui về đứa cháu nội, ngoại mới ra đời của 2 người. Thế là cười, cười nghiêng ngã, tiếng cười vang mãi trên chặng đường dài làm ai nấy cảm thấy càng lúc càng gắn bó thân tình hơn. Mà không chỉ ca hát và cười đùa đâu nhé! Chúng tôi còn có những trao đổi nhỏ xây dựng bổ ích trong nội bộ Nguyễn Hoàng nữa đấy.
Tôi và chị em Liên Hưng ít có dịp đi du lịch cùng nhau nên lần này cả ba cô trò rất vui vì được ở chung, được tâm sự nhiều, đi đâu cũng ba cô trò kè kè không ai tách ra được khiến anh Phỉ đùa hai cô học trò nầy bảo vệ cô giáo kỹ quá (!) Chúng tôi vạch kế hoạch về Quảng Trị dự lễ kỷ niệm 60 năm của trường, đi tham quan Lào, Thái Lan… Hai chị em còn hẹn lên Tây Nguyên một chuyến để đến “quậy” tư thất của vợ chồng tôi… Đó chỉ mới là dự kiến nhưng ai cũng rộn ràng niềm vui.
Qua An Giang, xe dừng lại ở Châu Đốc để ai muốn cầu xin gì thì vào chùa Bà Chúa Sứ. Tôi và Liên Hưng lười biếng nên ghé lại ngôi nhà ven đường xin một chỗ ngồi nghỉ chân. Ai ngờ chị chủ nhà vồn vả mời cô trò tôi vào trong nhà nơi có kê tấm phản mát rượi, còn lấy gối sạch và thêm quạt máy để cho hai cô trò đánh giấc nữa chứ. Người dân nơi đây mới tốt bụng làm sao! Khi đoàn trở ra, nghe nói mấy chị còn thuê xe ôm đi mua nhiều hàng ở chợ Tịnh Biên và ở siêu thị miễn thuế nữa chứ. Trên đường về, chúng tôi đã rẽ qua bến phà Vàm Cống để ghé thăm nhà NH/Võ Sĩ Quý với sự dẫn đường nhiệt tình của NH/ Nguyễn Đăng Châm. Thế là bà con lại được dịp mua quà vặt miệt vườn trên bến phà và thả tóc cho gió sông lồng lộng đùa vui khi qua quà trên sông Hậu. Các đồng môn nơi đây đã ân cần tiếp đón chúng tôi với những món đãi bạn đượm chất nam bộ. Người Quảng Trị lìa xa quê hương để sinh sống và đất miền Nam đã đãi ngộ những người cần cù, chịu khó. Không chỉ ở đây, chúng ta còn gặp người Quảng Trị ở tận Hàm Tân hay tận trong những rừng cao su Long Khánh. Miền Trung đất cày lên sỏi đá lại bị thiên tai, lũ lụt quanh năm nên dù yêu thương quê hương họ cũng đành ngậm ngùi ra đi tìm đất mới. Cư dân Nguyễn Hoàng ở khắp nơi và nhiều người đã có đời sống tương đối, nhà cửa khang trang, đất lành chim đậu là vậy !
Mãi đến 21 giờ xe mới trả cô trò chúng tôi về điểm cũ, mọi người chia tay nhau để lại lời hẹn ngày tái ngộ gần rồi tỏa về các con đường đầy ánh đèn của Saigon by night.
Từ chuyến du lịch này, tôi cảm nhận thêm nhiều tinh thần đoàn kết của của các old Nguyễn Hoàng. Họ luôn tìm cách liên lạc với nhau, sống chan hòa tình nghĩa, lá lành đùm lá rách, tập hợp thành một khối đoàn kết rộng khắp đất nước và hải ngoại. Hôm sau tôi đến tham dự đám cưới con gái của NH/Nguyễn Vỹ tổ chức ở Saigon. Các bạn học cũ có người ở tận Quảng Trị hay Daklak cũng tìm về, quý hóa làm sao! Tôi lại nhớ buổi họp mặt Nguyễn Hoàng đầu năm tại nhà hàng Kim Thanh đã rất thành công. Sự thành công đó - theo tôi - không chỉ nhờ vào sự khéo léo, nhiệt tình trong khâu tổ chức của NHSaigon mà còn có sự tiếp sức, tìm về của nhiều thầy cô và các CHS/NH khắp nơi. Trong buổi họp mặt, để tri ân những người tiên phong trong việc nối vòng tay lớn Nguyễn Hoàng, ban tổ chức đã vinh danh không chỉ quý thầy cô mà cả những CHS/NH góp lửa từ những ngày gian khó ấy. Đặc biệt thầy Lê Hữu Thăng còn thực hiện một sa bàn về trường Nguyễn Hoàng, tuy đơn sơ nhưng đã nói lên tấm lòng tha thiết với trường xưa, quê cũ của một người học trò, rồi một người thầy Nguyễn Hoàng và một người Quảng Trị tâm đức, có lòng nhân ái vô bờ. Chính thầy đã sáng lập ra phong trào giúp con em các gia đình Nguyễn Hoàng khó khăn với những xuất học bổng mỗi năm một nhiều hơn. Từ đó, các old Nguyễn Hoàng có lòng từ tâm ở trong nước lẫn hải ngoại chung tay giúp đỡ các cháu học hành đến nơi, đến chốn.
Chung quanh tôi là những con người sống rất tình nghĩa, luôn nhớ về cội nguồn, nhớ để tôn trọng, vinh danh những người đã có công dựng nên một đại gia đình Nguyễn Hoàng biết đoàn kết, tương thân, tương ái như hôm nay. Riêng tôi, dù mới quen biết các anh chị qua vài lần họp mặt hoặc đi du lịch nhưng tôi rất ngưỡng mộ tấm lòng tôn sư trọng đạo, uống nước nhớ nguồn, tình đoàn kết của các thành viên trong đại gia đình Nguyễn Hoàng. Mong rằng vòng tay lớn Nguyễn Hoàng ngày càng bền vững, vươn xa mãi như ước mơ của cư dân Nguyễn Hoàng khắp nơi trên hành tinh xanh nầy. 

Pleiku - Cuối xuân 2012 - Nguyễn Thị Giáng Hương
                           
THẦY VÀ NGÔI TRƯỜNG CŨ
 NH/Lê Văn Trạch                                                                            
Anh Phạm Phú Nam, người trực tiếp làm bộ phim Quảng Trị qua một giai đoạn lịch sử có lần tâm sự: Trong quá trình xúc tiến để hình thành bộ phim, tôi đọc một số tài liệu và hỏi chuyện nhiều người Quảng Trị, có điều tôi ghi nhận và thắc mắc là hầu hết khi trình bày tâm tư của mình theo từng vị trí khác nhau, mọi người đều nhắc đến tên Trường Nguyễn Hoàng, ngay Anh cũng thế, có những câu hỏi không liên quan, Anh đã tìm cách nói tới bằng tất cả sự thiết tha, điều gì đã làm nên sự kiện này?
Tôi không trả lời mà hỏi lại:
-   Khi đọc tư liệu, chắc Anh đã biết đến sự thành công của người Quảng Trị?
-   Có và tôi thật ngạc nhiên. Sự thành công nằm trên mọi lãnh vực, từ khoa học, văn học nghệ thuật, tôn giáo đến chính trị, quân sự ... có vị rất nổi tiếng trên thế giới.
-  Một thầy giáo ở ngoại tỉnh, khi đến đây dạy đã viết rằng... Nguyễn Hoàng của Quảng Trị như là Sorbone của Pháp, Harvard của Mỹ và Oxford của Anh ... Quả như thế, nhưng ngoài việc trao truyền và tiếp nhận kiến thức tổng quát về khoa học- xã hội, chúng tôi còn được dạy dỗ để khơi dậy những đức tính hiếm có mà hồn thiêng sông núi bao đời hun đúc, đó là tính cởi mở, bao dung, sự thương yêu đùm bọc và nhân ái, ân nghĩa. Những điều ấy tiềm tàng trong máu thịt chúng tôi và biểu lộ rõ nét qua mọi ứng xử.
Thực tế là vậy, chẳng có gì cường điệu, đặc biệt sau này khi Quảng Trị điêu tàn Trường cũng tan theo rồi mất luôn tên khi thế sự đổi thay thì tinh thần ấy càng được thể hiện một cách rõ nét. Nhứng cánh chim lạc đàn đã kết nối rồi cùng nhau đứng lên, khơi dậy ngọn lửa trong tim mình - tim bạn; soi rọi mọi ngõ ngách để tìm về với nhau, chẳng bao lâu hình thành sự liên kết gắn bó - không chỉ ở những tỉnh thành trong nước hay các tiểu bang ở Mỹ - mà là cả một cộng đồng Nguyễn Hoàng thế giới.
Một người xuất thân ở thế hệ đầu tiên, sau này là Giáo sư của trường, luôn quan tâm đến sự nghiệp giáo dục cho con em Quảng Trị và tình thầy bạn cũ. Sau chiến tranh, sớm đứng ra kêu gọi: từ cuộc gặp gỡ bỏ túi, chuyển thành những cụm Nguyễn Hoàng nho nhỏ trong nước. Đến giữa thập niên 1990, khi ra nước ngoài, Thầy đã năng động đi đây đi đó, tổ chức Hội Đồng Hương Quảng Trị, bên cạnh là những nhóm thân hữu Nguyễn Hoàng. Trong mọi sinh hoạt từ hội ngộ đến báo chí cả trong và ngoài nước, Thầy đều giữ vai trò hỗ trợ trọng yếu, chả thế mà một cựu nữ sinh đã ví von theo ngôn ngữ Hollywood:" Có những sự kiện của Nguyễn Hoàng, đôi khi Thầy vừa viết kịch bản, đạo diễn, kiêm luôn người tài trợ !" Đó chính là vị cựu giáo sư của Trường Trung Học Nguyễn Hoàng - Quảng Trị:  Thầy Lê Hữu Thăng.                           
Thầy Lê Hữu Thăng dạy tôi trong những năm Đệ Lục, Đệ Ngũ ở trường quận. Với đôi mắt của đám học trò nhà quê, hình ảnh Thầy thật lớn lao, sáng ngời … Chúng tôi "ngắm" Thầy từ mái tóc, y phục đến dáng nét… Giờ học của Thầy lúc nào cũng sôi nổi với lời giảng sang sảng; với những câu chuyện lôi cuốn, hấp dẫn!
Thuở học trò, thời Trung học Đệ Nhất cấp là thời kỳ bánh tẻ, trái tim vừa tròn để biểu hiện mọi cảm xúc và trí não đang vô tư để thấy những gì chung quanh đều phơi phới. Tất cả hòa quyện lại và dang rộng ra tiếp nhận mọi thứ một cách tự nhiên, không đắn đo cân nhắc. Chính vì thế, giai đoạn này là giai đoạn học sinh ảnh hưởng từ Thầy Cô rất lớn - nhất là một ngôi trường nhỏ, chỉ có mấy lớp. Sĩ số lớp tôi chưa tới 30 học sinh nên Tình Thầy Trò gần gũi, chan hòa, cởi mở, sự ảnh hưởng tác động này khi vào đời mới thấy rõ, đôi khi đi theo suốt cả quãng đời còn lại của đứa học trò ngày xưa.
Năm 1963 lúc tôi về Nguyễn Hoàng, Thầy đang ở trong quân đội,  rồi nghe Thầy giải ngũ và về dạy lại trường xưa, từ đó không biết tin gì về Thầy nữa, ngay cả những lúc ở cùng thành phố Đà Nẵng trong thời gian phố xưa Quảng Trị đã thành bình địa.
Thời điểm Thầy trở lại Nguyễn Hoàng là lúc Trường đã đang trên đà phát triển mạnh về cơ sở cũng như số lượng học sinh và giáo sư. Đến năm 1966 Trường đã có 60 lớp với hơn 3.000 học sinh cùng đội ngũ thầy, cô giáo và nhân viên trên 100 người. Quảng Trị là một địa danh không bình an nên với những vị ở xa được bổ nhiệm đến, ai cũng lo lắng mọi bất trắc có thể xảy ra. Thầy là người luôn động viên, tìm mọi cách tạo điều kiện thoải mái về tinh thần cũng như vật chất. Trong một lần gặp mặt gần đây, Thầy Đỗ Trinh Huệ đã bộc bạch: “Nói chuyện ân nghĩa thì vô cùng, nhưng anh Thăng là người se duyên cho vợ chồng tôi, thậm chí lúc sinh con đầu lòng, Anh là người đưa vợ tôi vào bệnh viện!”.
Chiến tranh ngày càng khốc liệt, toàn bộ quận Trung Lương và Gio Linh phải di tản, dân chúng được đưa vào trại tạm cư tại Cam Lộ, Tích Tường,  Như Lệ... tình trạng học sinh rất bi đát. Để phần nào giúp đỡ giải quyết khó khăn này, Thầy tìm hiểu hoàn cảnh những học sinh Đệ Nhị Cấp đưa về nhà ăn ở hoặc cung cấp tiền thanh toán chi phí tại quán cơm xã hội, mỗi năm có từ 8 đến 10 học sinh được Thầy quan tâm. Thầy nói “Tui giúp mấy đứa nam sinh nghèo ăn học để ít nhất các em cũng kiếm được cái bằng tú tài 1. Nếu có chí các em học tiếp thì tốt; hoặc giả có đăng lính cũng được mang lon sĩ quan cho đỡ khổ”. Kết quả là một số học sinh nghèo được thầy giúp đỡ ngày ấy đã thành tài. Sau nầy, thỉnh thoảng những người thành đạt ấy đã tìm đến thăm Thầy. Họ nhắc lại chuyện xưa và bày tỏ lòng tri ân, bởi theo họ, những ngày tháng được Thầy cưu mang như là một đầu cầu, một điểm tựa cho đòn bẫy vào đời.
Ngoài chức năng Giáo sư, Thầy còn là thành viên nồng cốt của Hội Hồng Thập Tự Quảng Trị, tổ chức này ra đời vào tháng 7 năm 1967, được sự nhiệt tình tham gia của nhiều Thầy Cô giáo và học sinh các trường Trung học, tích cực chia sẻ những khó khăn của đồng bào trong tai ương hoạn nạn.
Những tưởng cuộc sống êm trôi như thế với người dân chân chất, hiền hòa, nhưng sự kiện Mùa Hè 1972 đảo lộn tất cả! Dân Quảng Trị phải xuôi Nam tạm cư tại Đà Nẵng. Bên cạnh muôn vàn khốn khó của dân chúng, việc học cũng là vấn nạn cho những người có trách nhiệm. Chỉ sau hai tháng, ngoài việc tái lập lại trường Nguyễn Hoàng của Ty Giáo Dục tại Non Nước. Với chức năng là đại diện Hội Hồng Thập Tự/Vùng I, lúc bấy giờ Thầy Lê Hữu Thăng đã vận động tổ chức Tin Lành Việt Nam thành lập trường Trung học Hiền Lương Nghĩa Thục gồm hai Trung tâm Non Nước và Hòa Khánh do Thầy Thái Mộng Hùng làm Hiệu trưởng, sau này Thầy Nguyễn Ngọc Bôi thay thế. Đây là mô hình trường Tư thục (gồm học sinh các trường Thánh Tâm, Bồ Đề, Phước Môn), nhưng miễn học phí. Để hổ trợ và điều hành trường Hiền Lương Nghĩa Thục và công việc xã hội, một số Thầy Cô giáo Quảng Trị thành lập Đoàn Giáo Chức Công Tác Xã Hội Quảng Trị.
Tháng 3 năm 1974, cùng theo đồng bào hồi cư, các trung tâm này được chuyển ra Hải Lăng, đặt cơ sở tại Bến Đá. Những chương trình giáo dục và xã hội được tiến hành tốt đẹp và phù hợp với cuộc sống của bà con, nhưng đến tháng 3 năm 1975, theo vận nước, trường Nguyễn Hoàng và trường Hiền Lương Nghĩa Thục đều bị xóa tên.                            
Sau gần 20 năm, các cựu học sinh Nguyễn Hoàng đã tìm đến nhau như một nhu cầu bức thiết về tinh thần; về kỷ niệm một thời tuổi trẻ và về Quảng Trị thân yêu. Lúc đó Thầy Lê Hữu Thăng đang sinh sống tại Saigon. Thầy nhận trách nhiệm đứng ra vận động thành lập ban tổ chức buổi họp mặt Nguyễn Hoàng đầu tiên vào năm 1992 tại Saigon, quy tụ hơn 400 người, mỗi người một hoàn cảnh: Khó khăn, nhếch nhác, mọi khuôn mặt đều đậm nét phong sương, nhưng vẫn còn nụ cười, ánh mắt năm xưa với bao niềm xúc động. Cuộc hội ngộ này đánh dấu mốc quan trọng để cùng nhau nhóm lên ngọn lửa Nguyễn Hoàng, từ đó những lần họp mặt được tiếp tục và tình hình đã thuận lợi để thành lập Ban Liên Lạc. Quý Thầy Cô và Anh Chị Em Cựu Học sinh đã kiện toàn tổ chức và có những hoạt động tương thân tương ái ... Đây cũng là thời điểm chính phủ Hoa Kỳ có chính sách di dân rộng rãi với nhiều đối tượng, một số thành viên Nguyễn Hoàng đã lên đường theo đoàn người này.
Phần tôi, khi đất nước quay cuồng trong khốc liệt chiến tranh và những biến động của lịch sử, tôi tưởng chừng như sẽ không còn liên lạc được với ai nữa. Những năm đầu thập niên 1990 trong lam lũ cơ cực nơi quê nhà, bằng cách nào đó Lê Ngọc Giao đã tìm ra tôi, lúc đó anh đang ở Thanh Đa (Saigon). Anh là cánh cửa mở ra cho tôi tiếp xúc với thế giới bên ngoài và trong vô số tin tức chuyển đến có tin về Thầy, tôi thật vô cùng sung sướng.
Năm 1994, lúc vào Saigon làm thủ tục xuất cảnh tôi đi tìm Thầy thì Thầy đã qua Mỹ. Năm sau tôi cũng tiếp bước. Ở môi trường mới với biết bao khó khăn, lạ lẫm, ai cũng tìm đủ phương cách để sớm hội nhập nên chưa có thời gian để tìm kiếm người thân quen.
Rồi thời gain cũng qua đi. Khi mọi người phần nào đã hòa nhập với sinh hoạt ở đất tạm dung thì tôi cũng liên lạc được với Thầy, chúng tôi đều rất hạnh phúc. Tôi nhắc lại những kỷ niệm thời làm học trò trường Quận ngày nào; xúc động thay Thầy còn nhớ một số khuôn mặt học trò trong lớp ngày ấy.
Nơi đất khách, ngọn lửa tim của người năng nổ trong sinh hoạt Hồng Thập Tự Quảng Trị ngày nào lại bùng cháy. Thầy liên lạc, kết nối vận động thành lập Hội Đồng Hương Quảng Trị ở một số tiểu bang và những nhóm Thân Hữu Nguyễn Hoàng. Để công việc này phổ biến, năm 1997, Thầy cùng với Anh Chị Em Nguyễn Hoàng Quảng Trị tại Colorado phát hành Đặc san Hương Quê, nhờ đó rất nhiều người tìm đến được với nhau.
Thấy được nhu cầu cần thiết trong việc bảo tồn và phát triển văn hóa Quảng Trị nơi xứ người - đặc biệt đối với thế hệ trẻ muốn tìm hiểu về cội nguồn của mình, Thầy khởi xướng và có sự phối hợp của Ban Điều Hành các Hội Đồng Hương, thống nhất cho ra tập Kỷ Yếu Quảng Trị. Bằng uy tín và sự quen biết tin cậy, Thầy vận động được nhiều nhà biên khảo, nghiên cứu, nhà văn, thơ trong cũng như ngoài tỉnh cộng tác.
Sau một năm chuẩn bị, vào tháng 4 năm 2000, tập sách được ra mắt tại Philadelphia, xem đây như là một tập hợp cơ bản về lịch sử, địa lý, con người và những thành tựu của họ cùng những tai ương mất mát người Quảng Trị phải gánh chịu trong quá trình hình thành phát triển. Kỷ Yếu Quảng Trị đã trở thành kho tài liệu để mọi người tra cứu. Trong tâm ý, nghĩ đến một tác phẩm hoành tráng để đời, Thầy chăm sóc với phương cách tốt đẹp nhất cả nội dung lẫn hình thức mặc dầu phải chịu chi phí in ấn khá cao.
Sau thành công của tập sách này, thấy được giá trị của việc phổ cập văn hóa và giao lưu tình cảm, Thầy nảy ra ý định phát hành Kỷ Yếu Nguyễn Hoàng. Một Ban Biên Tập được thành lập gồm những học sinh có tâm huyết và khả năng viết đang sống rải rác trên nhiều tiểu bang của Hoa Kỳ. Công việc đang tiến hành tốt đẹp thì xảy ra một số ý kiến mâu thuẫn trong điều hành và cấu trúc, nhưng cuối cùng tập sách cũng hoàn tất và được ra mắt tại Nam - Cali vào ngày 29 tháng 12 năm 2002, đây cũng là lần họp mặt Nguyễn Hoàng đầu tiên tại Hoa Kỳ.
Mặc dầu gặp khó khăn nhiều mặt trong lúc tiến hành hai tập Kỷ Yếu vừa rồi, Thầy không nản chí, mệt mỏi và nghiệm ra rằng những tư liệu và kỷ niệm của hai tập sách chuyển tải chỉ gói gọn trong đặc trưng của nó. Vốn là người có nhiều hoài bão, pha chút lãng mạn và đam mê báo chí, Thầy vận động cho ra Tạp chí Thạch Hãn, chuyên về văn nghệ, biên khảo với thành phần chủ chốt cũng là những cây viết Nguyễn Hoàng. Tạp chí ra mắt vào ngày 2 tháng 4 năm 2004 tại Houston, do Hội Quảng Trị địa phương bảo trợ, mặc dầu chỉ ra hai số, nhưng được đồng hương và thân hữu nồng nhiệt ủng hộ. Tuy nhiên bên cạnh đó, Thầy đã gặp đôi điều tế nhị khó xử trong việc chọn lựa bài vở vốn do Ban Biên Tập quyết định: Đã có một bậc trưởng thượng buộc Thầy phải trả lại bản thảo trong vòng 24 giờ và một nữ lưu đã "hờn dỗi" khi tùy bút " Sương Khói Một Thời" không được đăng. 
Cũng thời điểm này, trong nước Ban Liên Lạc Nguyễn Hoàng tại thành phố Huế có sáng kiến tuyệt vời là sẽ phát hành tập sách Trường Nguyễn Hoàng - Chân Dung và Kỷ Niệm (NH-CD&KN) với dự kiến sẽ phát hành 10 số, do cựu học sinh Võ thị Quỳnh đảm trách. Một lần nữa, Thầy là người ủng hộ mạnh nhất về tinh thần và vật chất.
Sau khi tập 1 NH-CD&KN phát hành, với bài viết "Chim Xa Bầy Lạc Loài Kêu Sương" của Lê Đức Dục trên báo Tuổi Trẻ, tập sách đã được đông đảo cựu học sinh và Thầy Cô biết đến, tạo sự liên lạc mật thiết, đón nhận và cộng tác nồng nhiệt. Năm nào vợ chồng Thầy cũng về thăm quê, vì thế Thầy luôn là người chuyển một số lượng sách không nhỏ qua Mỹ. Thầy đã liên hệ với nhiều người ở các tiểu bang, có được sự hỗ trợ mạnh mẽ để nuôi dưỡng phát triển tập sách theo tâm nguyện ban đầu... Nhưng sau 4 số, có những ý kiến, thắc mắc với cách thức điều hành và quản lý. Tuy nhiên, theo giải thích của người biên tập, hoài bão của Võ Thị Quỳnh là sẽ thành lập Thư Quán Nguyễn Hoàng tại Quảng Trị như là điểm giao lưu và dừng chân của tất cả cựu học sinh khi có dịp trở về ... Đến giờ phút này thì tập sách đã vững chải để thẳng bước đến bến bờ mong đợi.
            Một sự kiện sinh hoạt văn hóa khác ít ai biết đến cũng trong năm 2005 là việc thành lập Hội Văn Học Nghệ Thuật Quảng Trị. Từ việc thao thức với văn hóa, văn nghệ tỉnh nhà, một nhóm cựu học sinh Nguyễn Hoàng đã cùng nhau thành lập Hội với mong muốn phục hưng những nét văn hóa đặc thù Quảng Trị - cụ thể qua con người với những đóng góp nhiều mặt cho xã hội. Hội dự định sẽ phát hành tập Kỷ Yếu Văn Học Nghệ Thuật Quảng Trị và năm 2008 sẽ ra mắt nhưng chuyện mới bắt đầu thì anh Lê Văn Khôi - người có sáng kiến thành lập qua đời - mọi kế hoạch phải bỏ dở.
Đến đây chúng ta phải công nhận rằng thông tin báo chí giữ vai trò quan trọng trong mọi sinh hoạt Nguyễn Hoàng, đó là nơi để liên lạc, phổ biến, bày tỏ, nuôi dưỡng mối thâm tình đồng môn. Thấy được giá trị tiềm tàng ấy, năm 2008 Ban Liên Lạc Nguyễn Hoàng tại Huế đã cho phát hành ấn phẩm Nguyễn Hoàng với lời động viên của Thầy Lê Hữu Thăng: "Đặc San của Ban Liên Lạc chính thức đại diện cho tổ chức Nguyễn Hoàng tại Huế là phương tiện thông tin sinh hoạt, tương trợ giúp Thầy Cô và đồng môn", cũng là dịp để xóa mọi hiểu lầm từ trước. “Như vậy, trên mảnh đất Huế, Nguyễn Hoàng chúng ta sẽ có hai tập sách, ấn phẩm của Ban Biên Tập Cựu Học sinh Nguyễn Hoàng tại Huế và Trường Nguyễn Hoàng- Chân Dung và Kỷ niệm của cô Võ thị Quỳnh”. Qua ấn phẩm này, Ban Liên Lạc bày tỏ sự cảm thông: " ....chúng tôi nghĩ rằng việc song song tồn tại ấn phẩm của chúng tôi và tập sách của Võ thị Quỳnh chẳng có gì trở ngại, biết đâu trong vườn hoa có nhiều hoa thơm và cỏ lạ lại là điều đáng quý vậy ...".
Nhưng tài hoa thì phận mỏng, cũng như Tạp chí Thạch Hãn và Kỷ Yếu Hội Văn Học Nghệ thuật Quảng Trị ở hải ngoại, ấn phẩm Nguyễn Hoàng chỉ ra được 2 số.
Tôi có tất cả sách báo Nguyễn Hoàng phát hành trong 10 năm nay, phải công nhận ấn phẩm này có giá trị nỗi trội, cả cách trình bày lẫn nội dung bài vở, nghiêm túc và trang nhã, thơ văn được chọn kỹ lưỡng. Cũng như tập Hương Quê Nhà của Ban Liên Lạc Nguyễn Hoàng Saigon, xứng đáng là tờ báo tiêu biểu cho một Trung tâm Văn Hóa Giáo Dục (Trường Nguyễn Hoàng).
Qua những lần hội ngộ, sinh hoạt báo chí cùng với sự bùng nổ thông tin, cộng đồng Nguyễn Hoàng thế giới thật gần gũi, gắn bó thêm ... Một tâm nguyện mà tất cả những cựu học sinh hải ngoại mong ước là sự có mặt của Thầy Hiệu trưởng Thái Mộng Hùng trong dịp hội ngộ, nhưng sau hai lần phỏng vấn, Thầy vẫn không đến được Mỹ và đến một ngày vào năm 2006, mọi người đều bàng hoàng khi hay tin Thầy bị tai nạn qua đời ... Thầy Lê Hữu Thăng đã cùng với Quý Thầy Cô và cựu học sinh đã lên một chương trình tang lễ rất chu đáo từ chi tiết kế hoạch tổ chức đến điếu văn và sắp xếp lễ viếng cho các đoàn từ nhiều nơi về Đà Nẵng và sau đó là xây lăng mộ.
Một sự kiện khác biểu lộ rõ nét tấm lòng của mọi thành viên với tên Trường cũ: Ngày 18/10/2008, hội thảo cấp quốc gia về đề tài " Chúa Nguyễn và Vương Triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX”  được tổ chức tại Thanh Hóa. Nhiều sử gia, học giả đã đánh giá đúng mức công lao nhà Nguyễn mà khởi đầu là Chúa Nguyễn Hoàng: “Nhà Nguyễn đã để lại một di sản lớn lao nhất là một giang sơn đất nước trải rộng trên lãnh thổ thống nhất từ Bắc chí Nam, gần như tương ứng với lãnh thổ Việt Nam hiện đại, bao gồm cả đất liền và hải đảo trên biển Đông. Trên lãnh thổ đó là một di sản văn hóa đồ sộ bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể ".
Sau đó trên tờ Tuổi Trẻ, nhà báo Lê Đức Dục đã có loạt bài mô tả cụ thể quá trình mở cõi của Chúa Nguyễn, rốt lại là bài "Sự Tưởng Niệm Lặng Lẽ " ghi những sinh hoạt của Cựu Học Sinh Nguyễn Hoàng với biết bao xúc động. "Danh thơm của người mở cõi dành cho ngôi trường được vinh dự mang tên, nhưng tên Trường nay cũng không còn". Bằng những sự kiện ấy, mọi người những tưởng cơ duyên đã đến. Thầy Lê Hữu Thăng mở ra một cuộc vận động để phục hồi tên Trường, Thầy Trần Kiêm Đoàn viết Bản Thỉnh Nguyện Thư chính thức, bên cạnh đó là thư của các học sinh mà dẫn đầu là các cựu nữ sinh, cá nhân cũng như tập thể. Trong thư dưới tiêu đề " Nguyễn Hoàng - Xin trả lại tên Trường", một cựu nữ sinh đã viết: “… Bởi thế, nguyện vọng xin trả lại tên Trường Nguyễn Hoàng là điều chính đáng. Đó không chỉ thể hiện sự biết ơn tiền nhân mà còn là thước đo lòng nhân ái và đạo đức của người Việt Nam trong thời hiện tại".
Nhưng mọi chuyện cũng chỉ là ước mơ ... Bởi lẽ ai cũng hiểu rằng đây không phải chỉ là vấn đề lịch sử, văn hóa ...
Như đã trình bày, dù ở nhiều nơi đã hình thành những cụm, những Ban Liên Lạc để sinh hoạt, gặp gỡ hàng năm ... nhưng ước nguyện để có một lần hội ngộ trên sân trường cũ cứ canh cánh bên lòng. Ý niệm này được Thầy nhen nhúm từ năm 2005 với một chương trình quy mô như là một Festival, đầy ắp tình cảm pha chút lãng mạn, nhưng khi thực sự bắt tay vào việc lại gặp muôn vàn khó khăn ... Ở vị trí tế nhị: Thầy âm thầm hỗ trợ trong tổ chức cũng như vận động, cuối cùng ngày 4 tháng 8 năm 2007, buổi hội ngộ đã hình thành và số người tham dự vượt quá dự tính của Ban Tổ chức.
Đã có hàng chục bài viết về ngày hội dưới góc độ nhìn nhận và cảm xúc khác nhau. Cũng từ điểm mốc lịch sử này hình thành một mạng liên lạc rộng lớn và có nhiều cây bút xuất hiện tạo nên không khí khởi sắc, sinh động trên nhiều diễn đàn văn nghệ. Đến nay, chúng ta đã có Đặc San Nguyễn Hoàng Bắc-Cali, Đặc San Nguyễn Hoàng Nam-Cali, Trường Nguyễn Hoàng-Chân Dung và Kỷ Niệm, Ấn phẩm Nguyễn Hoàng tại Huế và Hương Quê Nhà ở Saigon.



Là một người học trò của Nguyễn Hoàng thuộc thế hệ đầu tiên, sau này trở về dạy lại trong gần 10 năm nhưng Thầy Lê Hữu Thăng luôn tự nhận mình là một cựu học sinh, thường xuyên quan tâm chăm sóc đồng môn và Thầy Cô giáo. Khi nghe một thành viên Nguyễn Hoàng gặp khó khăn, bệnh tật hay qua đời, bằng cách này hay cách khác, đã có những biểu lộ tình cảm thiết thực, Thầy cũng luôn tạo điều kiện để có mặt trong những lần Hội Ngộ từ Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng, Hàm Tân, Đồng Nai, đến Saigon. Thầy còn ước ao thắp lên ngọn lửa để hình thành các tổ chức ái hữu CHS/NH ở các địa danh như Nha Trang, Dalat, Banmethuot, Cần Thơ, v.v…
Gần đây, chắc hẳn quý thầy cô và cựu học sinh Nguyễn Hoàng khó mà quên được việc Thầy bỏ nhiều công sức để lo tổ chức sinh nhật lần thứ 90 của Thầy Lê Văn Quýt. Việc làm ấy không chỉ là điểm sáng tâm hồn giữa cái thời đạo đức đang suy đồi nầy mà còn là quá đổi tuyệt vời vì Thầy đã hành xử kịp lúc (vì chỉ sau nửa năm là thầy Quýt qua đời). Chúng ta cũng đã nghe được lời bày tỏ chân tình, xúc động của vị Giáo sư trưởng lão đối với Thầy Thăng - người học trò cũ và cũng là đồng nghiệp của mình.
Xuất thân trong một gia đình bình thường, thấm nhuần truyền thống đạo lý nhân nghĩa, được hun đúc tác động bởi hạnh nguyện từ bi và quan hoài đến những người chung quanh, lòng Thầy không yên khi thấy những mảnh đời cơ cực, nhất là với thế hệ trẻ, khó khăn trên đường học vấn.
Những năm cuối thập niên 2000, khi trả xong nợ áo cơm, Thầy trăn trở cố tìm ra một mô hình để giúp đỡ những sinh viên nghèo Quảng Trị. Sau 3 năm nghiên cứu và thử nghiệm, niên khóa 2009 - 2010 chương trình tạm hoàn chỉnh dưới hình thức giúp đỡ trực tiếp qua tìm hiểu cụ thể, với sự cộng tác điều hành của Ban Liên Lạc Nguyễn Hoàng tại Quảng Trị. Tâm nguyện sau cùng của Thầy là tạo điểm tựa, tiếp sức mở đường cho thế hệ sinh viên Quảng Trị tốt nghiệp Đại học trở thành những nhà khoa học, chuyên gia, trí thức nhằm xây dựng một nền kinh tế, công nghiệp hiện đại, góp phần tạo khởi sắc cho quê hương, đáp ứng nhu cầu cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Đến nay đã qua nhiều năm ở tuổi thất thập, Thầy vẫn năng động trong mọi lãnh vực. Vốn là người có nhiều kinh nghiệm và khả năng tổ chức, Thầy đã đưa ra những đề nghị hợp lý cho sinh hoạt Nguyễn Hoàng. Chính Thầy là người gợi ý họp mặt kỷ niệm 60 năm thành lập Trường Nguyễn Hoàng (1952-2012) và ấn hành Đặc San kỷ niệm. Không chỉ lên kế hoạch, Thầy thực sự bắt tay ngay vào những bước khởi đầu chuẩn bị. Tôi cũng vừa biết tin Thầy đã hỗ trợ thực hiện xong logo trường Nguyễn Hoàng và đã gởi tặng cho một số CHS/NH ở các tỉnh trong nước. Đây là những huy hiệu để Người Nguyễn Hoàng cài trên ngực áo khi đến những điểm hội ngộ của Trường. Lửa tim Nguyễn Hoàng ở Thầy còn thể hiện bằng mô hình Trường Nguyễn Hoàng xưa mà Thầy đã mày mò dựng lên từ những vật liệu thô sơ tự tìm kiếm. Trong ngày họp mặt NH/Saigon tân niên 2012, mô hình nầy đã làm xúc động bao lòng ngưởi năm cũ và nó trở thành tâm điểm để những người về dự hội ghi hình kỷ niệm bên nhau.
Hình như Thầy đã vạch cho mình một tiêu chí trong cuộc sống, cứ thẳng đường mà bước, không bị ràng buộc bởi quyền lực hay cám dỗ danh lợi. Hạnh phúc đối với Thầy là " Cho Đi", xem niềm vui của người là niềm vui của mình và thực hiện những điều đó trên mọi lằn ranh hay định kiến - cho dù bị thiệt thòi hay kẻ khác phê phán.  
Nói đến đây tôi cũng thấy cần phải cảm ơn Cô Diệp Kim Liên - Người bạn đời của Thầy - Tôi muốn nói rằng tâm huyết của Thầy được thực hiện một phần cũng nhờ vào sự đồng thuận và góp sức của Cô. Qua bao biến thiên của thế sự, Thầy Cô vẫn son sắt bên nhau từ thưở ban đầu cho đến bây giờ răng long tóc bạc. Thật là Thuận vợ, thuận chồng tát biển Đông cũng cạn. Không chỉ về mặt xã hội mà trong gia đình, Thầy còn là một Người Chồng - Người Cha - Người Ông lý tưởng. Ai đã từng đến nhà Thầy đều cảm nhận được điều đó. Bởi vậy cuộc sống gia đình Thầy Cô dù qua bao thăng trầm vẫn chan chứa tình yêu thương, sẻ chia và hạnh phúc.
Một đặc điểm đáng quý ở Thầy là không chỉ luôn chịu khó lắng nghe mà Thầy còn trao đổi, đề nghị góp ý khi chuẩn bị thực hiện một việc gì - điều nầy thật hiếm có ở những người lớn tuổi. Mọi việc tập thể hay gia đình, Thầy đều tham khảo ý kiến người khác ngay cả với những học trò rất trẻ. Bởi thế chung quanh Thầy đã hình thành một vành đai tình cảm - hoặc nói đúng hơn - ở Thầy đã tỏa ra năng lượng thuyết phục hay một từ trường có lực cuốn hút, nên ở bên cạnh Thầy họ thấy bình an và đầy tin cậy. 
Nghề Giáo như người chèo thuyền, âm thầm đưa khách sang sông . Đến lúc tay chèo đã mỏi, tìm một bến lặng yên nào đó, neo lại, có khi rất cô đơn. Với Thầy thì không như thế, bến đò của Thầy luôn nhộn nhịp, rộn ràng khách từ muôn phương tìm về, vây quanh như là biểu hiện lòng tri ân, sự quý mến, cũng là cách làm ấm thêm và sáng lên ngọn lửa Nguyễn Hoàng.
Có lần tôi nói vui:" Em học lóm ở Thầy nhiều thứ lắm...", nhưng cuộc đời Thầy là cả một Giáo Trình với nhiều Bài Giảng, cho dù một học sinh cố gắng cách mấy cũng không bao giờ Học Thuộc hết được. Mai này khi vô thường đến, Thầy sẽ không còn hiện diện trên cõi đời nầy nữa nhưng những gì Thầy để lại mãi còn đó, đậm nét trong lòng mọi người với vô vàn trân quý và cảm phục. 
Xin dâng tặng Thầy bó hồng tươi thắm từ trái tim chan chứa niềm tôn kính của em - đứa học trò ngày cũ của Thầy. 
Học trò Lê Văn Trạch   
Memphis, USA đầu năm 2012)- Email: letrach@yahoo.com
                          
                                                                                                                                                                                                                   
Vài cảm nghĩ  
(Về việc vinh danh tác phẩm và tác giả
Nguyễn Hoàng tôi yêu thích)
Trần Văn Phỉ   
CHS/NH 57-65
                                                 
Lời đầu:
Kính thưa quý thầy cô và các bạn đồng môn Trường Trung học Nguyễn Hoàng - Quảng Trị!
Từ những năm đầu của thế kỷ 21, mọi sinh hoạt có liên quan đến Trường Trung Học Nguyễn Hoàng - Quảng Trị diễn ra sôi nỗi. Sân chơi nầy đã lan rộng khắp nơi - từ trong ra ngoài nước, ở đâu cũng được sự hưởng ứng nhiệt tình của quý thầy cô và học sinh cũ của trường.
Ngoài những lần hội ngộ và các buổi gặp mặt có tính chất định kỳ hay đột xuất còn có sinh hoạt văn nghệ, báo chí; kể cả những thông tin trên hệ thống internet đã góp phần không nhỏ cho tiến trình kết nối, xây dựng và phát triển của các nhóm, hội ái hữu Nguyễn Hoàng ở nhiều nơi. Trong đó có những tập sách phát hành đều đặn như Nguyễn Hoàng - Chân Dung và Kỷ niệm ở Huế; Hương Quê Nhà ở Saigon; Những Ngày xưa thân ái ở Nam - Cali;, Đặc san Nguyễn Hoàng ở Bắc - Cali, … Các tờ nội san ấy đã được đông đảo bạn đọc là thầy cô và đồng môn của Nguyễn Hoàng xưa tham gia góp bài cũng như ủng hộ nhiệt tình qua nhiều năm tháng - điều hiếm thấy ở bất cứ ngôi trường nào của miền Nam Việt Nam trước đây.
Là người ham đọc sách đồng thời yêu mến ngôi trường đã cho mình chút vốn liếng tri thức để vào đời, tôi đã tìm đọc hầu hết các tập nội san của Nguyễn Hoàng - Quảng Trị. Qua hàng chục ngàn trang viết của nhiều thế hệ từ thầy cô đến học trò, tôi đều cảm nhận được cái tình nghĩa trường xưa, thầy bạn cũ; lòng yêu mến quê hương của các cây bút không chuyên trên mỗi dòng chữ. Những dòng thơ, câu văn chân chất, giản dị cứ như dòng nước trong veo chảy ngược về quá khứ. Ở đó tôi thấy mình được gặp lại một ngôi trường mang tên Nguyễn Hoàng với thầy cô, bè bạn giữa khu phố nhỏ Quảng Trị hiền hòa bên dòng sông Thạch Hãn của một thời hoa niên cắp sách. Hơn thế nữa, ở đó tôi còn được biết rõ thêm lịch sử của ngôi trường từ khi hình thành (năm 1952 - trước 5 năm khi tôi vào Nguyễn Hoàng), đến nỗi thăng trầm khi trường không còn tên (năm 1975 - 10 năm sau khi tôi rời trường).
Xin cảm ơn các ban biên tập; xin cảm ơn quý thầy cô, những đồng môn đã cho tôi giây phút về với Nguyễn Hoàng xưa, tôi yêu mến tất cả những bài viết của thầy cô và của các bạn. Vì thế, với ý nghĩ “còn chút gì để nhớ”, tôi tự chọn ra 1 tập sách và 5 đồng môn đã có nhiều bài viết mà tôi yêu thích nhất. Nhân dịp mừng xuân mới Nhâm Thìn, tôi có đôi dòng gọi là “Vinh Danh” và có chút quà kỷ niệm cho những tác giả mà tôi ngưỡng mộ.
Xin mời quý thầy cô và đồng môn xa gần bỏ chút thì giờ quý báu để đọc những cảm nghĩ nầy, bắt đầu là một tập sách và người chủ biên. Sau đó sẽ lần lượt điểm qua 5 tác giả mà tôi yêu thích những bài viết của họ.

* Cảm nghĩ về NH - CD&KN  
          Mới đây mà đã sáu năm kể từ ngày NH-CD&KN tập 1 phát hành. Sáu năm không phải là dài để phát hành 8 số đều đặn như đã có… và khi tôi đang viết dòng cảm nghĩ nầy thì số 9 sắp in. Như là giấc mơ trong chuyện cổ tích mà người chủ trương tập sách đã thường nói. Từ lúc đầu tôi đã cảm nhận được những khó khăn, trở ngại khi thực hiện tập sách nầy. Tôi e rằng NH/Võ Thị Quỳnh - người chủ biên - khó mà vượt qua, vì đây phải là công việc của một tập thể hay một hội ái hữu cùng nhau làm, chứ không phải là đơn phương cá nhân thực hiện.
          Tôi khâm phục cô Quỳnh từ đầu đã đề ra chỉ tiêu 10 tập sách. Chính nhờ cái can đảm và quyết tâm của cô mà bất kỳ những ai từng là người có thời gian dạy và học dưới mái trường mang tên Nguyễn Hoàng, Quảng Trị đểu có dịp góp mặt vào sân chơi nầy mà không cần phải có “tài văn bút”. Với những tập sách quy tụ nhiều tác giả, NH-CD&KN đã có tác dụng và ảnh hưởng lớn với độc giả. Ngoài những chân dung và kỷ niệm của thầy trò NH qua các thế hệ, tập sách còn mang ý nghĩa như pho tự điển nhiều tập và có tính chất lịch sử nữa. Mai sau, những tập sách ấy sẽ là dấu ấn để thế hệ con cháu chúng ta hiểu về sinh hoạt của bậc phụ huynh trong quá khứ. Với gần sáu ngàn trang giấy chứa trong 8 tập sách ngày một dày hơn: tập 1 có khoảng 500 trang, số trang được dần dần nâng lên cùng với sự góp mặt của thầy trò trường Nguyễn Hoàng ngày một đông đảo hơn. Nhờ những tập sách nầy mà nhiều người Nguyễn Hoàng năm cũ từ trong ra ngoài nước bao năm lưu lạc, cách biệt nhau đã có cơ hội tìm lại nhau khi tuổi đã xế chiều. Thời gian trôi qua, mấy mươi năm dâu bể chỉ còn chăng là kỷ niệm ngọc ngà của thời cắp sách đến trường. Còn thời gian tương lai thì quá ngắn nên cần lắm sự yêu thương, chia sẻ và thông cảm cho nhau. Bản thân tôi cũng thế, nhờ những tập sách của Nguyễn Hoàng trong nước và hải ngoại mà tôi đã liên lạc được với một số thầy cô xưa, bạn học cũ - có người sau nửa thế kỷ mới biết tin nhau, hỏi còn gì cảm động hơn? Và những tập sách ấy còn trở thành món quà quý giá để gởi tặng nhau. Xin cảm ơn những người thực hiện đã giúp tôi chuyển những món quà tinh thần đó đến những người bạn cũ ngay khi tập sách mới phát hành.
Nay thì chặng đường thực hiện bộ tự điển 10 tập của NH-CD&KN đã gần về đích. Dù khó tính đến đâu, chúng ta cũng phải đồng ý rằng nếu không có tâm huyết, trách nhiệm cũng như lòng yêu mến, luyến lưu trường xưa, thầy bạn cũ thì cô Quỳnh làm sao thực hiện được? Cá nhân tôi cho rằng đây là một công trình tuyệt vời từ người chủ trương cho đến những người tham gia, góp mặt để tạo ra tập sách.
Chỉ còn 2 tập nữa là chung cuộc. Kính mong quý thầy cô và các bạn đồng môn tham gia nhiều hơn nữa để tập 10 nhiều hơn 1000 trang mong đợi. Như thế câu chuyện cổ tích của thầy trò Nguyễn Hoàng được kết thúc tốt đẹp và có hậu - như ước mơ của người chủ trương lẫn bạn đọc.
Xin cảm ơn NH/Võ Thị Quỳnh và gia đình đã làm hết sức mình để tạo nên một sân chơi để đời. Tôi xin vinh danh tập sách NH-CD&KN cùng người chủ trương: cô Võ Thị Quỳnh.  
Xin cảm ơn quý thầy cô và đồng môn, thân hữu đã đọc bài nầy.
Trân trọng. 
Trần Văn Phỉ 
(Viết từ Tran Family Farm 
Chinquapin -NC - USA . Vào thu 2011) 
                                                                                                                                                                                                                                                        
* Cảm nghĩ về các tác giả tôi yêu thích  
          Lời thưa: Trong lúc chọn các tác giả có bài viết trong các tập san Nguyễn Hoàng mà tôi yêu thích và quyết định vinh danh, trao quà xuân cho họ, tôi sẽ lần lượt viết ra cảm nghĩ của mình với từng tác giả. Cũng xin nói thêm rằng, tôi làm điều nầy không nhằm ca ngợi cá nhân, không xen vào đời sống riêng tư của bất cứ ai dù quá khứ hay hiện tại; càng không viết theo lối bình văn, bình thơ vì tôi không có khả năng ấy. Với ý tưởng mộc mạc và thô thiển, tôi chỉ trình bày cảm nghĩ của mình để làm sáng thêm việc tôi vinh danh nên không nhất thiết những bài viết phải đều nhau. Có thể có tác giả tôi nói nhiều và cũng có thể có tác giả tôi chỉ viết một đoạn ngắn thôi. Có gì sai sót, kính mong quý thầy cô và đồng môn bỏ qua cho.
Và người đầu tiên tôi vinh danh là NH/Phan Thạch Giang
1. Cảm nghĩ về bài viết của NH/Phan Thạch Giang

          Tôi “gặp” anh Phan Thạch Giang lần đầu từ bài thơ Cố hương trong đặc san xuân Hương Quê Nhà 2007 (vì tôi chỉ có HQN từ số đó).
          Bài thơ làm tôi rất xúc động và liền chú ý đến tác giả. Ý thơ có hồn khiến người đọc bồi hồi tâm can - nhất là với người sống xa quê hương như tôi. Có lẽ ý thơ hay như thế nên đến số xuân Tân Mão năm 2011, Hương Quê Nhà đăng lại - một điều hiếm thấy trong cùng một tờ báo (?) Liên tục trong các tập san Nguyễn Hoàng khác, tôi theo dõi và rất tâm đắc những bài viết chân thật và chung thuỷ của anh. Câu thơ nào, đoạn văn nào anh cũng diễn tả nỗi nhớ thương trường xưa, thầy bạn cũ cùng quê hương yêu dấu - nơi anh sinh ra và lớn lên trong vòng tay mẹ; nơi anh đã theo học ngôi trường danh tiếng có tên Nguyễn Hoàng.
          Thế hệ anh và tôi chẳng may phải sống vào thời chiến tranh khốc liệt. Chúng tôi đã phải trải qua biết bao mất mát, đau thương; biết bao ly tán và những cảnh đời ngang trái dở khóc dở cười mà hậu quả đến nay ai cũng biết. Dù sau bao năm chinh chiến, đất nước cũng đến hồi thống nhất nhưng phần lớn CHS/NH chúng ta phân tán khắp nơi - từ trong nước cho đến hải ngoại. Hiện anh Giang ở Biên Hoà, thi thoảng anh có thể trở về Quảng Trị để tìm lại những dư âm xưa hầu khoả lấp phần nào nỗi nhớ thương, ray rứt; còn tôi thì ngái xa hàng vạn dặm nên sự trở về để nhìn lại cái đổi thay của thế sự cũng chẳng dễ gì.
          Nếu nhớ thương là trạng thái vĩnh viễn của tâm hồn thì dù ở xa hay gần; địa lý cách nhau dài hay ngắn thì tình cảm nhớ thương vẫn vậy. Có điều khi đối tượng thương nhớ ở gần, lòng ta cũng cảm thấy gần gũi hơn, còn ở khoảng cách xa vời vợi thì khiến lòng ta càng khắc khoải. Triết lý một chút như vậy để thấy tôi và anh đều có chung một nỗi lòng nên tôi dễ đồng cảm với anh. Tôi chưa gặp mặt anh bao giờ dù trước đây chúng tôi cùng học chung một khối trong sáu năm ở Nguyễn Hoàng. Chúng tôi cũng chưa hề trao đổi gì với nhau qua mọi phương tiện mãi cho đến khi tôi quyết định vinh danh anh. Tháng trước, tôi điện thoại báo tin cho anh biết việc tôi sẽ vinh danh những người viết về Nguyễn Hoàng - trong đó có anh. Anh nói thật là bất ngờ khi có người tận chân trời xa chú ý đến mình. Anh đã khiêm tốn trình bày ý nghĩ của anh rằng được tiếp chuyện với tôi là một hạnh phúc của anh rồi. Còn chuyện vinh danh và trao quà anh rất ngại phiền toái. Lúc đó tôi đã trả lời anh đây là một sân chơi văn hóa nhằm khích lệ người viết cũng như người đọc, mong anh hiểu cho. Tôi còn nói thêm rằng tôi chỉ là một độc giả bình thường và tôi muốn GÓP vào sân chơi của CHS/NH chút gì đó để sân chơi hào hứng thêm mà thôi. Lời giải thích chân thành của tôi đã làm anh rất cảm động và yên tâm.
  Đọc thơ anh, tôi tâm đắc nhất là những tâm tình của một CHS/NH mấy mươi năm sống xa quê hương. Không oán thán cũng chẳng căm hờn, cái buồn của anh cũng chẳng tan nát tâm can mà chỉ nhẹ nhàng rơi như những giọt “Mưa trưa”; như tiếng dương cầm thả nhẹ âm thanh trong chiều vắng nơi tu viện. Với cuộc chiến khốc liệt đã qua, anh chỉ buồn buồn trong tiếng trách nhẹ thời cuộc đã gây ra cảnh tang điền thương hải như một tiếng thở dài:

       Nguyễn Hoàng ơi một thời để nhớ
   Ai nỡ chôn vùi kỷ niệm ngày thơ…
Để bây giờ anh trở về với:
Bước độc hành qua bãi nắng chiều buông
Lối đi xưa trường cũ đâu còn
    Và anh lang thang làm người lữ hành cô đơn độc thoại:
Nguyễn Hoàng trường cũ của ta ơi
  Người hóa thân thành một nhà lang thang lớn
    Rồi có lúc anh bật khóc trong chiều ngoại ô nắng quái:
Ai nhuộm chiều hôm màu tím nhạt
  Cho Quảng Trị tôi khóc Nguyễn Hoàng
     ………………………………………..
Với tài làm thơ cùng nhân cách sống, Anh đã được khá đông độc giả và bạn bè mến mộ. Ai đã đọc bài viết “Phan Thạch Giang - Người về muộn…” trong Hương Quê Nhà xuân Canh Dần (2010) sẽ thấy rõ điều đó. Riêng tôi, tôi rất thú vị khi đọc một lượt 5 bài thơ trong chùm thơ Đối Thoại của nhóm CHS/NH tại Đồng Nai. Từ bài thơ Độc thoại anh viết tặng, bốn đồng môn lớp đàn em đã đáp lại bốn bài thơ đầy tình đồng môn, quê hương chan chứa mà theo tôi thì quá đổi tuyệt vời - không chỉ về phương diện tình cảm mà còn về văn phong, bút pháp. Tôi nghĩ chỉ một nhóm nhỏ CHS/NH tại Đồng Nai thôi mà đã có những bài thơ hay như thế thì hỏi sao chúng ta không hãnh diện mình là CHS/NH cho được?
            Để tạm ngưng về những cảm nhận dành cho anh, tôi xin mượn mấy vần lục bát trong đoạn kết của chùm thơ Đối thoại để gởi đến quý thầy cô và bạn đồng môn với muôn vàn tình thân ái:

Dù em thôi ngậm chỉ hồng
   Tung tăng áo trắng gió lồng lộng bay
Dù chị thôi hoa bướm say
   Dù anh thôi những tháng ngày ươm mơ
            Tha hương tri ngộ không ngờ
   Lưu dân đất khách, lời thơ bồi hồi
            Dù cho tóc trắng tuổi trời
   Nguyễn Hoàng trường cũ… 
vẫn ngời tin yêu.
 Viết từ Orlando - Florida  
Mùa Giáng sinh 2011                                                                                                                                                                                                                                                                                        
2. Viết về tác giả Phan Sĩ Trung
      Tôi biết anh Phan Sĩ Trung qua sự giới thiệu của thầy Lê Hữu Thăng vào năm 2006, từ đó chúng tôi thỉnh thoảng có liên lạc với nhau.
       Năm 2008, lần đầu tiên tôi gặp anh tại cuộc hội ngộ liên trường ở Texas. Trong lần ấy, vợ chồng anh cùng con trai và dâu về dự. Nói sao hết nỗi mừng vui khi tôi gặp được tác giả “Sân Trường” mà tôi hằng mến mộ, để rồi sau lần ấy tôi và anh thỉnh thoảng lại gặp nhau qua điện thoại. Nhưng hai năm trở lại đây thì sự liên lạc thưa dần, bởi lẽ tôi đang ở vào thời gian điều trị, chữa bệnh nên không gọi điện cho ai và anh Trung có lẽ cũng bận rộn nên cũng không gọi lại.
            Trong năm 2011, tôi đi California hai lần - một lần vào tháng 3 và một lần vào tháng 8. Lần nào ghé phi trường Dallas - vùng anh cư trú - tôi đều phone cho anh nhưng chỉ gặp được chị mà thôi. Mãi sau nầy khi nghĩ đến chuyện vinh danh tác giả, tôi phone cho anh để thông báo quyết định chọn anh thì rất may là tôi đã được tiếp chuyện cùng anh. Về chuyện vinh danh theo ý riêng của mình, tôi chỉ nói với anh Trung và anh Phan Thạch Giang biết mà thôi. Anh Trung lúc nào cũng từ tốn, nói năng nhẹ nhàng dễ nghe (sĩ quan chiến tranh chính trị mà). Khi nghe tôi trình bày những người tôi định vinh danh, anh hỏi tôi đã tham khảo ý kiến bạn bè chưa? Có lẽ anh nghi ngờ khả năng và uy tín của tôi khó thuyết phục người đọc; có lẽ anh cũng lo ngại tính khả thi của việc làm nầy. Sau khi tôi đưa thông báo chính thức về quyết định vinh danh đến những người có liên hệ thì tuyệt nhiên anh không có một sự phản hồi nào. Tôi nghĩ thầm may mà tôi đã nói chuyện trước với anh chứ không thì sự im lặng đáng sợ nầy có thể làm tôi hụt hẫng, ít nhiều băn khoăn và cũng cảm thấy quê quê.
            Xin anh Trung xem lời nói nầy như là một phần tâm sự của một người đang tự biên tự diễn - một người dám làm một việc mà trong phạm vi Nguyễn Hoàng chưa ai làm. Ý kiến của tôi có phần chủ quan nên có gì xin anh bỏ qua cho. Nói như anh Nguyễn Văn Trị - Trưởng ban liên lạc CHS/NH tại Saigon thì “Anh Phỉ nghĩ sao nói vậy”. Tôi nghĩ anh Trị chưa gặp tôi mà đã đọc được sự chân thật qua ngôn ngữ của tôi.
            Trở lại tác giả Phan Sĩ Trung., tôi thường gọi anh là Nhà Văn Của Sân Trường. Bởi lẽ trong 8 tập NH-CD&KN, các tựa đề bài viết của anh đều có hai chữ sân trường. Từ những câu chuyện tình nửa thực, nửa hư cho đến nỗi niềm cảm xúc khi trở lại chốn xưa không còn thầy, bạn … anh đều diễn tả một cách chân thành và lôi cuốn người đọc. Anh đã ghi lại những câu chuyện tình của bạn bè hay của chính mình (?) nhưng kết thúc nào cũng đầy tình người. Chính điều ấy đã làm người đọc nhớ lại một thời hoa bướm mộng mơ của mình. Có bạn còn muốn đề nghị với các chủ biên nên có một số đặc biệt viết về câu chuyện tình yêu của mình trong lứa tuổi học trò - mà phần đông ai cũng trải qua. Tác giả Phan Sĩ Trung đã làm điều nầy, những chuyện tình học trò anh viết tôi đều thích nhưng tôi thích nhất là bài Sân trường và loài hoa dại trong NH-CD&KN tập 6. Các bạn đã đọc câu chuyện tình ấy chưa? Còn tôi, tôi đã đọc nhiều lần và hoan nghênh ý kiến của anh đề nghị thu nhận chị Mitchell vào danh sách nữ sinh Nguyễn Hoàng, đồng thời tặng anh Trung và cô Quỳnh mỗi người một đóa hoa hồng. Bởi lẽ hai người là cầu nối để một người chưa bao giờ học Nguyễn Hoàng vẫn được xem là thành viên Nguyễn Hoàng. Thành viên đặc biệt nầy luôn luôn hướng về trường Nguyễn Hoàng (huống chi là chúng ta). Chị thể hiện lòng mình bằng những suất học bổng cho những học sinh giỏi, nhà nghèo là con cháu của các CHS/NH-Quảng Trị. Câu chuyện nầy là một minh chứng cho lời nói của tôi về ảnh hưởng của tập sách NH-CD&KN đối với độc giả.
            Ngôi trường, sân trường, thầy cô và bạn học cũ luôn là nỗi ám ảnh của anh. Mấy năm trước, anh là người hăng hái làm nhịp cầu qua lại Việt Nam để đem những tấm lòng của Nguyễn Hoàng hải ngoại gởi về giúp đỡ thầy cô và bạn hữu đồng môn - đặc biệt là những lần phát học bổng cho thế hệ con em của Nguyễn Hoàng, Quảng Trị nơi quê nhà.
    Trong những chuyến đi về, khi ghé lại trường xưa anh không khỏi xót xa:
    Thăm lại trường xưa lòng tôi bỡ ngỡ
    Dãy phượng, hàng dương cảnh cũ không còn
    Trong sân trường chim cất tiếng véo von
    Trường Nguyễn Hoàng đổi tên rồi bác nợ.
             (n trường hàng cây -  NH/CD&KN tập 2)
      Hoặc đôi lần anh nhắn nhủ với cả tấm lòng:
            Mai tôi về, bạn gởi gì không?
            Bạn về, tôi gởi cả tấm lòng
            Mái trường Nguyễn Hoàng ngày xưa ấy
            Dĩ vãng lâu rồi bạn biết không?
                                    (Mai em về – HQN 2009)
Anh là người có bài viết khá đều tay trong các tập san Nguyễn Hoàng trong nước cũng như hải ngoại. Mong anh còn góp mặt dài lâu trên văn đàn Nguyễn Hoàng trong thời gian tới.    
                                                                      
3. Đọc tác giả Lê Văn Trạch
          Những bài viết của NH/Lê Văn Trạch xuất hiện rất khiêm nhường trong các tập sách và đặc san Nguyễn Hoàng. Đến nay - 2011 - anh Trạch cũng như tôi chưa có bài viết nào trong Hương Quê Nhà, tuy nhiên một số bài của anh trong NH-CD&KN và rải rác trên các báo Nguyễn Hoàng ở Mỹ thật lôi cuốn người đọc. Anh còn là cây bút quen thuộc của các đặc san Hội đồng hương/Quảng Trị ở các tiểu bang Hoa Kỳ. Anh có chân trong nhóm chủ trương thực hiện tạp chí Thạch Hãn do thầy Lê Hữu Thăng  chủ trì xuất bản tại Mỹ từ năm 2004.
            Những bài viết của anh, ngoài chuyện hoài niệm trường xưa, thầy bạn cũ anh còn viết về ca dao tục ngữ quê hương khá phong phú, đa dạng. Vì thế tác giả Lê Văn Trạch còn được biết đến như là một tác giả sưu tầm về văn học dân gian Quảng Trị. Văn anh ngắn gọn, súc tích; đôi khi còn pha chút dí dỏm, têu tếu khiến người đọc bất chợt bật cười thú vị.  Đọc bài anh viết, tôi cảm giác như đang nghe anh kể chuyện vậy. Tâm hồn anh sâu kín mà trong sáng; nhạy cảm mà kín đáo với những cảm xúc đôi lúc tưởng chừng chỉ lướt qua nhẹ nhàng, vô tư như áng mây mỏng nhưng cũng đủ để lại trên bầu trời trong xanh những dấu ấn khó quên.
Có lẽ anh sống nội tâm nhiều nên anh luôn trân trọng những giá trị tinh thần; văn anh đầy lòng thủy chung với thầy, bạn. Cô Kim Sa chỉ dạy một niên khóa tại Nguyễn Hoàng, vậy mà hình ảnh cô giáo cho đến hàng chục năm sau vẫn hiện ra từng nét rõ ràng qua dòng chữ nghĩa tình - cho dù cuộc sống sau năm 1975 quá nhiều nghiệt ngã hay khổ ải trong các trại cải tạo thì tâm hồn anh vẫn ăm ắp những kỷ niệm tinh khôi của một thời cắp sách. Anh lý giải điều đó như sau: Chữ nghĩa thu thập ở nhà trường đã tiêu hóa, hòa tan trong bể tích lũy kiến thức không thể nhận biết; nhưng bản tính và phong cách của quý thầy cô đôi khi hiện ra rất rõ và có ảnh hưởng tác động nhất định. (DS Đại hội NH/Nam Cali -2011)
          Nói về ảnh hưởng của các kỳ họp mặt hay các tờ đặc san Nguyễn Hoàng khắp nơi đã làm cầu nối cho đại gia đình Nguyễn Hoàng nối vòng tay lớn, anh đã viết: Có vị đã tuyệt tích giang hồ nay xuất hiện; có những mảnh đời cơ cực tưởng như bị bỏ quên ở một góc khuất nào đó của xứ sở, những xác thân không lành lặn gặm nhấm mặc cảm, xót xa… bỗng nhiên quên đi hoàn cảnh, đứng lên tìm về với nhau. (Chuyện Trầu Cau - NH-CD&KN6). Khi đọc đoạn nầy, tôi bỗng nhớ đến bài thơ Tháng chín Nguyễn Hoàng của thi sĩ Phan Khâm đăng trong đặc san hội ngộ Nam Cali 2011 vừa qua. Tôi cho đây là bài thơ hay nhất trong các bài viết riêng cho những lần Nguyễn Hoàng họp mặt trong và ngoài nước. Cả hai anh đã đồng cảm khi ghi nhận từng hoàn cảnh của mỗi người khi về dự hội.
            Cũng trong Chuyện Trầu Cau, anh kể về cô nữ sinh lớp đệ tam tên Hà mà anh đã quen biết trên những chuyến đò ngang qua sông Thạch Hãn. Chuyện chưa đến đâu cả; nỗi lòng xao xuyến vẫn còn thầm kín nên chưa có lần hò hẹn thì Hà đã bất ngờ ra đi gây trống vắng, tiếc nuối khôn cùng cho chàng trai vừa bước vào lứa tuổi yêu đương. Tình bạn, tình đồng môn thường được nâng lên thành một thứ tình cảm đặc biệt hơn; có thể nụ tình e ấp vừa chớm nở trong lòng hai người chưa kịp hé cánh đón nắng sớm thì đã phải chia xa khiến anh bị hụt hẫng và mãi hoài nuối tiếc. Trang sách đã gấp lại mà trước mắt tôi cứ thấy cảnh cô nữ sinh quảy gánh trầu cau đi bán như một hoạt cảnh sinh động. Lúc thì tôi thấy cô đứng đợi đò trên bến; khi thì tôi thấy cô trong chiếc đó ngang lướt nhẹ trên dòng nước trong xanh. Ôi! Hoạt cảnh ấy mới dễ thương và thơ mộng xiết bao.
Mới đây tôi được đọc bài Tìm Nhau của anh. Bài viết ghi lại những mẫu chuyện bên lề đại hội NH/Nam-Cali. Cách dùng từ ngữ trong bài viết nầy rất thật mà lại hết sức mới lạ, rất riêng, rất thú vị. Anh như một camera dấu mình trong góc khuất để quan sát và thu lại những thước phim sinh động của một gian hàng chưng bày đồ cổ (theo cách ví von của anh). Đó là những người muôn năm cũ tìm nhau; tìm lại những mối tình thời son trẻ; đôi khi chỉ là một thoáng ngẫn ngơ trông vời tà áo trắng hay mối tình câm đơn phương mà đối nhân chưa hề hay biết. Giờ đây được gặp nhau, những con tim chồng chất tuổi tác ấy bỗng dưng trẻ hóa không ngờ. Kỷ niệm thời áo trắng tràn về như thác đổ nhưng họ chỉ lặng thầm trao nhau ánh mắt, nụ cười. Còn với những mối tình một phía thì họ cũng cũng chẳng ngại ngần kể lể để rồi cười vui hay nuối tiếc cho một thời thơ ngây đã qua; với người tế nhị thì có khi họ chỉ kín đáo nhắc nhau những kỷ niệm tưởng như vô tình ngày ấy. Trong cái gian hàng đồ cổ lạ lùng đó bỗng có những chi tiết nỗi bật khiến camera Lê Văn Trạch phải dừng lại hơi lâu. Đó là những người tuổi tác đã ở buổi xế chiều đang sống lại mấy chục năm xưa cũ. Con tim họ, sóng mắt họ đang trở về trên chiếc máy thời gian nhưng cũng đủ tỉnh táo để không quên hiện tại. Anh đã diễn tả: Trong vô vàn cảm xúc, đến nay bắt gặp tín hiệu ngày xưa, hạt giống năm nào rơi xuống, lăn lóc nổi trôi bây giờ đủ duyên để nẩy mầm (?). Nhưng chàng ý tứ biều lộ trong một chừng mực nào đó, luôn giữ một khoảng cách an toàn, tôn trọng điều lệ cách thức về thời gian. Lối hành văn dí dỏm mà mực thước khiến người trong cuộc - và có thể cả độc giả - chơi vơi giữa thực và ảo; giữa quá khứ với hiện tại; còn tương lai thì chắc chắn sẽ khắc thêm một kỷ niệm nữa cho các kỳ hội ngộ sắp tới.
         Nói về văn phong và con người của tác giả Lê Văn Trạch thì có thể gọi là truyện nhiều kỳ như các báo Saigon xưa. Ở đây tôi chỉ điểm qua một vài nét đặc biệt mà tôi cảm nhận được nên xin phép dừng lại ở đây. Hiện anh ở tiểu bang Tennessee  - cách tôi khoảng hơn ngàn cây số. Tôi đã gặp anh hai lần ở đại hội liên trường Quảng Trị năm 2008 tại Houston-Texas; lần gặp mới đây là trong đại hội Nguyễn Hoàng thế giới ở South Cali. Văn phong như thế, bề ngoài anh còn dễ mến hơn, phong cách đàng hoàng, đứng đắn mà không thiếu sự thân ái, vui vẻ, hòa đồng và khiêm tốn của anh làm người đối diện cảm mến một cách tự nhiên.
Anh và tôi ít khi trao đổi với nhau dù qua phone hay email cho đến khi tôi gởi mail thông báo những tác giả tôi ưa thích. Anh đã hồi đáp bằng tấm lòng cởi mở, anh bảo rằng anh quá sức bất ngờ và không tưởng tượng được việc làm của tôi - điều mà từ trước đến nay chưa có cá nhân nào dám làm. Thái độ tích cực của anh đã như cơn gió thổi bùng đốm lửa còn âm ỉ trong tâm hồn tôi, thúc đầy tôi mạnh dạn nói lên những cảm nghĩ của mình về những tác giả viết về Nguyễn Hoàng mà tôi ưa thích không chút ngần ngại, băn khoăn.
Xin cảm ơn Anh! Cảm ơn tác giả Lê Văn Trạch của Nguyễn Hoàng mà tôi hằng quý mến.
                                                                                                                                                          
4. Đọc bài của
                             tác giả Đinh Thị Quang Tuyết
          Cách đây 4 năm, tôi biết tác giả Quang Tuyết qua 2 bài thơ Khúc tình muộn và Đoản ca đăng trong HQN năm 2007.
            Tuy ý thơ không liên hệ gì với trường xưa, bạn cũ nhưng cũng làm tôi chú ý và ngạc nhiên không ít về nữ tác giả nầy - có lẽ lúc đó Quang Tuyết mới tham gia vào các sân chơi của Nguyễn Hoàng nên nội dung chưa sát với chủ trương của đặc san là hướng về những kỷ niệm thời cắp sách đến trường. Tôi ngạc nhiên vì lời thơ khá điêu luyện, cách diễn tả nội tâm khá hay, văn phong chẳng khác chi các nhà thơ chuyên nghiệp. Tôi thích bài thơ 5 chữ với những câu ngắn:
Em hát bản tình ca.
Nói về thời con gái
Anh là người xa lạ
Kể chuyện tình đôi ta
Hay 4 câu lục bát trong Đoản ca:
Anh đi trên đỉnh trời chiều
Nhặt con nắng muộn bên lều tranh xưa
Anh về gom những giọt mưa
Mơ duyên tình thắm đong đưa võng buồn
Qua thơ văn, tôi nhận thấy Quang Tuyết cũng là người con có hiếu với cha mẹ, nặng lòng với quê hương. Chúng ta không khỏi xúc động bùi ngùi khi nghe Quang Tuyết kể lại chuyến về thăm vườn cũ, cô gặp một nhánh mai vàng nhỏ bé trên gốc mai già ngày cũ như cố vươn lên đón ánh mặt trời. Gốc mai xưa đã bị bom đạn trong chiến cuộc 1972 phạt sát gốc; nay nó đã hồi sinh. Và trước sự kiện tái sinh diệu kỳ ấy, Quang Tuyết đã nhắc lại lời người cha lúc còn sinh thời mà cô đã khắc sâu vào tâm khảm: “… Là con người cũng thế, phải biết hoài niệm đúng cách, không được ủy mị, mạnh mẽ lên để xây dựng lại tất cả…”. Nhờ thế Quang Tuyết đã có bản lĩnh để xây dựng lại cuộc đời - dù con đường trước mặt chưa hề bằng phẳng. Biết thế nhưng Quang Tuyết vẫn mạnh dạn tiến lên và cô đã đạt được những gì cô có như hiện nay. Sau nầy, Quang Tuyết trở về quê nhân ngày giỗ ba. Bên ngôi mộ người cha thân yêu, cô đã bật khóc: Mai vàng khoe sắc lung linh. Ngắm hoa con khóc một mình ba ơi! (Lời khấn nguyện – HQN 2010).
Những năm gần đây, Quang Tuyết đã tham gia nhiệt tình vào các sân chơi chữ nghĩa của Nguyễn Hoàng rất đúng điệu. Khởi đầu là bài Những nhân vật dễ thương, cô đã ghi lại tên một số bạn học cũ Nguyễn Hoàng năm xưa. Nhân đây tôi cũng muốn cảm ơn Quang Tuyết đã cho tôi được biết thêm các đồng môn nổi bật trong sinh hoạt Nguyễn Hoàng quốc nội mà bấy lâu nay tôi đã nghe tiếng như Nguyễn Văn Trị, Nguyễn Đặng Mừng, Thu Vàng, Mỹ Liên,… là các bạn đồng môn học sau tôi trên dưới mười niên khóa.
Đến với Nguyễn Hoàng là đến với tình thân ái. Hãy nghe Quang Tuyết nhắn nhủ với bạn mình: Khi đã ngồi lại với nhau thì mọi chức tước, địa vị xã hội không còn tồn tại nữa mà chỉ còn cô, cậu học sinh trường Nguyễn Hoàng - Quảng Trị trong sáng, vô tư, thương yêu nhau như anh em một nhà. Cứ hồn nhiên để nỗi ưu tư, phiền muộn; những vết thương trầy trụa vì số phận trở nên nhẹ nhàng hơn. (trang 766). Để rồi cô minh định: Tôi vô cùng hãnh diện là một cựu học sinh của trường Nguyễn Hoàng. Cái khái niệm tình bạn tưởng chừng đóng băng trong tôi nay lại tuôn ra như dòng suối trong veo chảy ngược về quá khứ….
      Nhưng cũng có lúc Quang Tuyết thú nhận sai lầm của mình trong việc đánh giá người khác qua bài Húi Cua xóm Ga. Quang Tuyết đã nhìn không chính xác về anh bạn hàng xóm cùng học với anh cô một lớp ngày xưa nên cô đã có nhận xét này, nọ… Nhưng khi rõ hơn về người thật, việc thật của Húi Cua thì cô đã tích cực bỏ hết những nghi ngờ và tỏ lòng cảm mến ông anh nầy một cách thực lòng. Với sự thay đổi cách nhìn và đánh giá người khác, Quang Tuyết đã viết: Tôi không quá lý tưởng để nghĩ toàn những điều hay cho bản thân hay của một người nào đó; càng không tô son giả tạo cho một nhân cách vì mấy ai hoàn thiện nhỉ? Tôi chỉ cảm nhận ở anh (Húi Cua) những gì tôi hiểu, đó là chân là thiện để mối tương quan giữa người và người luôn tốt đẹp, vui vẻ. (HQN 2011).
Con người Quang Tuyết là thế đó, cô sống chân thật và tôn trọng người khác. Tuy có lúc bốc đồng nhưng sau đó cô biết cách kiểm soát lại mình. Nhiều lần Quang Tuyết nói với tôi: Chẳng những sự vinh danh của anh đối với Quang Tuyết là một danh dự cho Tuyết mà còn khuyến khích Tuyết trau dồi thêm sự nghiệp văn chương. Và tôi tin cô em gái nầy có khả năng ấy…
Trong NH-CD&KN 6, Quang Tuyết là cô học trò mang tiếng “vất vở bụi tre” đến nổi thầy Lê Văn Quýt dạy môn Pháp Văn đã phải thốt lên Đinh Thị Quang Tuyết là một học trò vất vở bụi tre vì nhiều lần cô mất bình tỉnh không trả bài được. Thời còn đi học, Quang Tuyết nằm trong số nữ sinh tinh nghịch và quậy có tiếng - dám đùa giỡn với cả thầy, cô giáo. Như lần đi thăm thầy Quýt bệnh, các cô đã cả gan ra tay đạo chích lấy hết thức ăn bồi dưỡng của thầy trong tủ lạnh. Thật không oan khi người ta nói nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò.
Trong bài viết Một Chuyến Đi… Khi trả lời câu hỏi của NH/Ngô Ngọc Hồng, Quang Tuyết đã cho biết quan niệm của mình về quá khứ và hiện tại như sau: Tụi em thà ở như ri, buông rơi mất tình riêng để sống trong sự ao ước đem được niềm vui chan hòa đến với mọi người; để nhận hạnh phúc bao la từ các anh chị đây…(trang 685 –NH/CD&KN 8). Không riêng anh Hồng mà nhiều người - trong đó có tôi - rất trân trọng suy nghĩ nầy của Quang Tuyết - dù tôi chỉ mới quen biết cô qua vài lần email trong hơn tháng nay. Cũng trong bài Một Chuyến Đi… Quang Tuyết đã kể lại rất rõ nét cuộc hành trình từ lúc lên xe đến địa danh Hàm Tân để mừng thọ đại thụ Nguyễn Hoàng là thầy Lê Văn Quýt. Tôi rất ngưỡng mộ tấm lòng của các bạn đã không quản ngại đường sá xa xôi, sự khó khăn trong thời buổi kinh tế suy thoái mà vẫn thể hiện tấm lòng người học trò với vị thầy xưa. Tôi ở xa nên không có cái diễm phúc được về tận nơi, nhìn tận mặt, cầm tận tay Thầy để nói lời chúc tụng như các bạn, mà chỉ biết gởi tấm lòng về Thầy qua phút điện đàm cùng chút quá mọn từ phương xa mà thôi.
            Đối với tác giả Đinh Thị Quang Tuyết tôi còn nhiều điều muốn nói, tuy nhiên tôi không dám làm mất thì giờ của quý thấy cô và các bạn. Dịp khác tôi sẽ có thêm nhận xét về cô nữ sinh Nguyễn Hoàng niên khóa 66-72 nầy - người đã có nhiều tâm huyết đóng góp cho sinh hoạt của CHS/NH. Tôi cũng mong rằng mọi trái tim, mọi lứa tuổi nên giữ mãi tình nghĩa với nhau như những lời hô to mỗi lần tập thể NHSaigon bên nhau: NH thân thương - NH đoàn kết - NH gắn bó… và mãi mãi như thế.                                                           
                                                                                                                                                                                                                             

5. Vài cảm nhận về một số bài viết
                                     của NH/Nguyễn Thị Liên Hưng
            Trước khi có vài cảm nhận về các bài viết của tác giả Nguyễn Thị Liên Hưng, tôi xin ghi lại cuộc trò chuyện cách đây 8 năm giữa tôi và một CGS/NH tại Mỹ. Vị cựu giáo sư đã nói với tôi đại ý: bây giờ chúng ta nên có một tập san mang tên khác để nội dung rộng rãi hơn, không bị gò bó vào tiêu chí Nguyễn Hoàng. Vị nầy còn nói thêm vì đề tài Nguyễn Hoàng đã gần cạn kiệt, số lượng CHS và CGS/NH ở hải ngoại quá ít; bài vở viết cho các đặc san cũng hạn chế. Lúc đó tôi đã 60 tuổi - sắp già đến nơi rồi nhưng tôi không đồng ý với vị giáo sư đó. Vì tôi nghĩ vào năm 1965 tôi thôi học Nguyễn Hoàng mà đến năm 1975 trường mới không còn tên. Như thế với thời gian 10 năm ấy biết bao thế hệ lớp học sinh Nguyễn Hoàng tiếp tục vào, ra trường. Con số ấy chắc chắn là lên đến hàng nhiều ngàn học sinh, tôi còn tin rằng lớp sau giỏi hơn lớp trước và thực tế thời gian qua suy nghĩ của tôi khá đúng.    
            Qua các đặc san Nguyễn Hoàng trong và ngoài nước đã xuất hiện khá nhiều tác giả trẻ viết hay; viết với tấm lòng mình. Lớp trẻ của Nguyễn Hoàng đã đóng góp vào diễn đàn văn học Nguyễn Hoàng khá phong phú và NH/Liên Hưng là một trong số những bạn ấy.
            Khi Liên Hưng chào đời thì tôi đã vào học Nguyễn Hoàng (năm 1957), bởi thế không lạ khi nhiều đồng môn quen gọi Liên Hưng là cô út. Bài viết của Liên Hưng rất lôi cuốn khiến người đọc có nhiều ấn tượng về trường xưa, thầy bạn cũ. Đặc biệt bút ký Nguyễn Hoàng - Một thời để nhớ của cô ghi lại số phận của ngôi trường thân yêu từ khi cô vào trường (1969), qua chiến tranh lưu lạc (1972-1974) cho đến khi mất tên (1975) đã được quý thầy cô khen ngợi và đồng môn nể phục. Dù tôi không nêu rõ thứ hạng trong việc vinh danh nhưng khi lên danh sách tôi đặt tác giả Liên Hưng lên trước. Tuy nhiên khi phổ biến những cảm nghĩ của mình, tôi lại để tên cô sau cùng vì tôi nghĩ rằng nữ tác giả nầy đã được đa số độc giả vinh danh trong tâm tưởng từ trước rồi. Chúng ta thường thấy cô xuất hiện trong các buổi sinh hoạt trường, lớp với nhân dáng dễ mến, vui tươi và hồn nhiên như thời còn đi học. Hầu hết bài viết của Liên Hưng hướng về quê hương, trường xưa, thầy bạn cũ. Ai đã đọc Nước Trong Nguồn của Liên Hưng đăng trong Đặc san Nguyễn Hoàng-Bắc Cali, xuân 2010 sẽ thấy rõ lòng hiếu thảo của cô - dầu cô không viết hoa hai chữ ấy nhưng nó tiềm tàng trong từng câu chữ. Liên Hưng thú nhận thuở nhỏ cô là đứa trẻ quá hiếu động nên đôi lúc trở thành quậy phá, kèm thêm bản tính ương bướng nên thường bị ba mẹ cho ăn đòn. Thế nhưng cô chưa bao giờ vì những trận đòn ấy mà bớt lòng thương yêu ba mẹ Cô thương mẹ lắm nhưng lại mắc cỡ nên bao năm qua dù kề cận mẹ mà chưa bao giờ nói với mẹ được câu “Mẹ ơi! Con thương mẹ” như thầy Nhất Hạnh đã dạy. Khi viết Nước Trong Nguồn, Liên Hưng đã mượn trang giấy để thưa với mẹ của mình như sau: Mạ ơi! Con không nói ra được nhưng con sẽ gởi bài viết này cho nội san Trường Nguyễn Hoàng để chia sẻ tình mẹ với quý thầy, cô và các anh chị đồng môn… (ĐSNH –trang 108). Cũng trong đặc san nầy, cô em út của tác giả là NH/Nguyễn Thị Vĩnh Phước cũng đóng góp bài viết về Mạ khá xúc động. Thật diễm phúc khi được viết về người mẹ yêu quý của mình khi người còn tại thế. Tôi đọc bài viết của hai chị em Liên Hưng - Vĩnh Phước mà nghĩ tới người mẹ của tôi - người đã qua đời khi tôi vừa lên tám tuổi. Trên 60 năm rồi, tôi không có cơ hội rúc vào mẹ để hít mùi mồ hôi đặc biệt của mạ - rất Mạ - như Vĩnh Phước diễn tả.
            Trong bài Một chút riêng tư… Liên Hưng viết cho Thiên Ân - con gái cưng của mình lúc bé mới học lớp 5 đã có những lời thật xúc động khi kể về bé:  “…Con thích tìm hiểu về quê hương Quảng Trị của mẹ; con thân thiết, quý mến những người bạn thời cắp sách đến trường của mẹ; con say sưa đọc những trang viết về Nguyễn Hoàng/Quảng Trị…” (Trang 314- NH/CD&KN 3). Tôi không lạc đề đâu, tôi muốn nói đến cái dòng suối trong veo trong tâm hồn Liên Hưng đó. Dòng máu Nguyễn Hoàng - Quảng Trị đã thấm đẫm vào tâm hồn em nên em mới diễn tả được như vậy - dù chủ đề bài viết là viết riêng cho mẹ hoặc con mình. Còn trong Bảo Lộc - Nắng Vẫn Còn Xuân, Liên Hưng ghi lại một kỷ niệm lần ghé thăm đồng môn Nguyễn Hoàng ở Bảo Lộc. Ngoài các đoạn văn tả cảnh, tả người thật chân tình, sống động lồng vào không gian thơ mộng của miền xứ lạnh cao nguyên có cả cuộc hội ngộ tình cờ của mấy người Nguyễn Hoàng xa xứ. Cô đã viết “… và khi các CHS/NH gặp nhau thì hồn trôi về Quảng Trị ngày xưa…” rồi cô kết luận Bảo Lộc ơi! Nắng vẫn còn xuân như tình đồng môn nơi đất khách.
            Không chỉ bây giờ mà cả trước đây, khi đọc những bài ký và hồi ức của Liên Hưng tôi đã cảm nhận được điều đó nên trong một bài viết ngắn gởi cho Đặc san Nguyễn Hoàng - Bắc Cali tôi đã vinh danh cô - vinh danh tác giả viết bài Chim Bay Về Tổ - những câu chuyện bên lề của cô và bạn bè trong chuyến về quê họp mặt Nguyễn Hoàng năm 2007 - quá đổi ấn tượng.
Với Liên Hưng, ngoài trí nhớ thật tuyệt vời cô còn lối hành văn mạch lạc, giản dị và dễ hiểu. Đọc văn Liên Hưng, tôi không hề gặp chút nào ngắc ngứ, khựng lại mà cứ như nước chảy xuôi dòng. Có những bài viết nghiêm trang, cảm động như Hành Phương Nam, Có những dòng sông, Hương sầu đông... nhưng đôi khi cũng có bài dí dỏm, nghịch ngợm như trêu chọc, đọc đến đâu phải bật cười đến đấy như các bài Dân Ca Quảng Trị. Tuy nhiên tất cả đều bộc lộ một tình cảm chan chứa, thân thương với trường xưa, thầy bạn cũ hay mảnh đất Quảng Trị quê hương gió mưa khắc nghiệt mà vẫn ngàn đời dấu ái.  Với những câu thơ 8 chữ tha thiết trong Tiếc một thời …Quảng Trị ơi! Ta đọc được nỗi khắc khoải nghẹn ngào của cô học trò nhỏ khi “tư cố hương” dù cô đã xa rời nơi ấy từ thuở thôi khoác áo học trò:
Tiếc một thời! Một thời bé dại
Quảng Trị ơi! Ta ngoái lại mỏi mòn
Hành phương Nam qua trùng điệp núi non
Không che nổi mây quê nhà diệu vợi…
                                            ( ĐSNH- Bắc Cali – 2008)
Ôi! Cái ngoái lại ấy sao mà da diết! Ta hãy đọc thêm 4 câu thơ trích trong bài Một Lần Ngoái Lại để thấy tình cảm của Liên Hưng đang trào dâng như thế nào khi về thăm trường cũ:

Tôi đã về trên nền trường cũ
Nguyễn Hoàng ơi! Còn đó nỗi buồn
Bạn bè ơi! Xin thắp dùm ngọn nến
Kẻo mong manh lạnh lắm những u hồn.
                                   (Hương Quê Nhà - 2008)
Có thể do tính hiếu kỳ muốn biết về ngôi trường cũ mình đã theo học trước đây - nhất là những năm có biến động lớn của đất nước vào thời điểm 1972, 1975 nên tôi đã tìm đọc những bài viết của Liên Hưng ghi lại kỷ niệm thời em đã theo học. Đó là lúc trường dời vào Đà Nẵng trong không khí chiến tranh cận kề. Lúc đó trường Nguyễn Hoàng ở các khu tạm cư trước đây là trại lính Mỹ để lại nên thiếu thốn mọi bề. Học sinh đi học phải tự mang theo ghế ngồi. Trong Nguyễn Hoàng - Gió cát xứ người, Liên Hưng đã viết: Lúc đầu chúng tôi ngồi học chồm hổm... có đứa lót guốc ngồi bệt xuống nền nhà dùng ghế làm bàn viết; có đứa ngồi lên ghế rồi bỏ vở lên đùi để viết; thậm chí có đứa dùng lưng của đứa ngồi đằng trước làm bàn viết (trang 438- NH/CD&KN 5). Hoặc khi về hồi cư ở bãi cát Hải Lăng và sau ngày 30/4/75, học sinh học với thầy cô từ phía Bắc vào dạy. Trong bài ký Nguyễn Hoàng - Dư Âm Một Thuở, có đoạn khi bị cô giáo miền Bắc chua chát phê bình rằng cách ăn mặc (áo dài) của học sinh Nguyễn Hoàng là tàn dư của chế độ cũ. Lời nói ấy đã chạm đến lòng tự tôn của học trò nhưng buộc các em phải nghe lời. Thế là Liên Hưng... “về nhà mua một bịch thuốc nhuộm rồi quăng hết áo quần đang có vào nồi nước thuốc nhuộm - trừ hai bộ đồng phục Nguyễn Hoàng, tôi để lại và thỉnh thoảng vẫn mặc đi học. Còn những áo quần đã nhuộm thì khi đem phơi khô chả biết nó màu gì, tôi nhớ hình như là cái màu xỉn xỉn trông phát ớn”. (trang 243/ĐSNH - Bắc Cali 2008). Nhưng không phải thầy cô nào từ Bắc vào cũng như cô giáo kia, đa số thầy cô rất thương học trò, có những vị hết lòng dẫn dắt học sinh của mình. Liên Hưng rất công bằng và ngay thẳng trong vấn đề nầy, cô đã viết: Thuở đó tình thầy trò mới đáng quý làm sao, vô tư làm sao! Thầy giảng bài như muốn trút hết tri thức vào đầu chúng tôi, không cần nhận một lời cảm ơn mà còn bao cả cơm trưa dù thầy khó khăn, thiếu thốn mọi bề; còn học sinh thì vẫn vô tư đón nhận mà không hề thắc mắc... (trang 268/ĐSNH - Bắc Cali 2008). Cũng trong bài Nguyễn Hoàng - Dư Âm Một Thuở, Liên Hưng tiết lộ lúc cùng bạn học về nhà thầy Quang để thầy dạy bồi dưỡng môn Văn cho học trò lớp 12, bữa trưa nhà thầy có gì ăn nấy. Thầy trò ai cũng có phần việc: Người bổ củi nhóm bếp, kẻ vo gạo nấu cơm. Có hôm Liên Hưng mãi nghe thầy đàn nên nhặt rau xong quên mang rửa, khi cho rau vào nồi xong mới sực nhớ. Đến lúc cơm được dọn ra, cô kiếm cớ để không ăn canh rau.... dù đã biết rau nấu chín rồi thì mọi vi trùng chết sạch. Tôi không đồng ý với Liên Hưng điểm nầy và có lẽ khi lớn hơn cô cũng hiểu ra điều đó. Tuy nhiên lúc ấy cô còn là học trò nên chưa hiểu thấu đáo mọi việc cũng là lẽ thường tình.
            Bản tính bướng bỉnh, ương ngạnh và nghịch ngợm của Liên Hưng thời đi học cũng đã gây phiền cho thầy cô không ít, như lần đến thăm thầy Lợi - giáo viên chủ nhiệm bị bệnh. Thầy Lợi có trách khéo gì đó làm cô học trò thường được thầy cưng không vui và bỗng dưng trở chứng. Khi ra về, Liên Hưng đã mở toang hết hai cánh cửa phòng của thầy làm cho gió mùa đông bắc lạnh buốt thấu xương ào ạt lùa vào phòng, phủ trùm cả người bệnh. Biết tính cô học trò nên thầy không la mắng mà chỉ cất tiếng than: Con bé quá quắt nó muốn giết tôi đấy mà. Ôi! Quả thật là con bé quá quắt! May mà nay vào tuổi tri thiên mệnh cô út đã ăn năn nên đã khai báo và thành thật gởi lời xin lỗi đến những người mà có thời từng là nạn nhân của trò Liên Hưng có tiếng thông minh và dễ mến, vui vẻ nhưng cũng lắm lúc giở chứng bất tử.
            Cũng trong Nguyễn Hoàng - Một thời để nhớ, ở bút ký Trở về Quảng Trị quê hương - Mù sa nước mắt, Liên Hưng ghi lại thời gian Nguyễn Hoàng hồi cư trên bãi cát Hải Lăng, trên đường vào chợ Diên Sanh. Ở bài nầy cô đã dành 5 trang để nhớ về vị giáo sư hướng dẫn năm cô học lớp 11, đó là thầy Nguyễn Đức Liệu. Vị thầy kỳ lạ và dạy văn giỏi nầy cũng xuất thân là CHS/NH. Cô đã dành những dòng chữ - mà theo tôi nghĩ - là từ trái tim đầy tiếc nhớ, xót xa của cô học trò cũ đối với vị thầy tài hoa, bạc mệnh để viết lên những dòng ký ức đó. Khi đọc xong, tôi có gọi điện về nhà Liên Hưng và đã gặp em. Tôi kể cho em nghe tôi đã có thời gian ở tù với thầy Liệu tại trại Xoa - Hoàn Cát, Quảng Trị. Tôi thấy những nhận xét của em về thầy khá đúng. Thầy Liệu là người bạn tù tôi quý mên nhất và đây cũng là lần đầu tiên tôi biết chút ít về người bạn tù ngày ấy trước năm 1975. Nghe tôi kể chuyện, em tỏ ra rất xúc động, em đề nghị tôi nên ghi lại những kỷ niệm tôi biết về thầy Liệu trong thời gian cùng ở tù với tôi. Em nói thêm rằng thầy Nguyễn Đức Liệu là người tài hoa nhưng cuộc đời mang nhiều đau khổ, thiệt thòi. Thầy về trường muộn nên học sinh ít ai biết đến thầy. Tôi đã hứa với cô út là tôi sẽ ghi lại ít nhiều kỷ niệm tôi lưu nhớ trong thời gian hai chúng tôi cùng ở trong trại cải tạo.
Nói về tác giả Nguyễn Thị Liên Hưng, tôi có thể viết thành một quyển sách mới tạm đủ. Trong khuôn khổ những dòng cảm nhận nầy, tôi chỉ nêu lên một số bài viết của Liên Hưng mà tôi cho là ấn tượng - để độc giả có dịp đọc lại và có nhận định khách quan hơn.
        Để kết thúc bài viết về tác giả nầy, tôi xin mượn câu đối của NH/Võ Đình Trâm - một bạn học cũ của Liên Hưng - đăng trong bài Chạy về Dĩ Vãng để nói lên tình nghĩa thiêng liêng của Nguyễn Hoàng của chúng ta:
Nguyễn Hoàng trường cũ vẫn thơm,
 trăng sao mấy thuở thiêng liêng tình bè bạn.
Thạch Hãn sông nay còn vọng,
mây nước bao năm mầu nhiệm nghĩa thầy trò. 
Những ngày cuối năm 2011 
Trần Văn Phỉ (Florida - USA)  
                                                                                                                                                                                                             
Lời kết:
                                                                                   
Sau khi thông báo đến những người được vinh danh và một số thầy cô, đồng môn cũng như vài Hội ái hữu Nguyễn Hoàng trong và ngoài nước, tôi đã nhận được nhiều ý kiến của thầy cô cũng như đồng môn thuộc nhiều thế hệ gọi điện thoại, gởi mail về tỏ ý đồng thuận việc làm nầy. Những lời khích lệ ấy còn nói rằng việc làm nhỏ của tôi đã khơi dậy phong trào viết và đọc các tờ nội san Nguyễn Hoàng. Có người còn bảo rằng qua việc vinh danh ấy, họ đã tìm đọc lại bài của các tác giả mà tôi vinh danh và họ cho rằng cảm nhận của tôi không quá chủ quan.
Kính thưa quý thầy cô và các bạn đồng môn!
            Quả thực, khi quyết tâm thực hiện điều nầy tôi cũng có ít nhiều băn khoăn nhưng bây giờ thì lòng tôi hoàn toàn thanh thản trong niềm hạnh phúc. Thế mới biết giá trị tinh thần là điều không thể nào cân đong đo đếm được. Món quà tặng các tác giả được vinh danh không chỉ là vật chất hữu hình mà còn là tấm lòng của tôi đối với đồng môn, đối với Nguyễn Hoàng. Bởi thế tôi đã được nhận lại sự đồng thuận, sự cảm kích từ những tấm lòng thân thương, quý mến… đó là món quà vô giá đối với tôi và cũng là sợi dây thân ái kết nối những người cùng có thời ngồi dưới mái trường xưa, là niềm vui sống trên hành trình ở chặng cuối cuộc đời của chúng ta.
            Nhân đây tôi cũng xin phép quý thầy cô và đồng môn Nguyễn Hoàng cho tôi được bày tỏ lòng biết ơn của tôi đối với gia đình mình. Đó là vợ tôi - dâu Nguyễn Hoàng: Phan Thị Phụng và các con tôi - những người thân yêu của tôi đã khuyến khích tôi trong việc làm nầy, không chỉ bằng tinh thần mà cả việc hỗ trợ vật chất để tôi làm tặng phẩm và món quà tới tay của các tác giả được vinh danh ý nghĩa hơn.
            Và bây giờ thì tôi đã cảm nhận câu nói “Bàn tay nào tặng hoa hồng cũng phảng phất mùi hương” là chân lý bất biến vì tôi đang rất… rất hạnh phúc.
            Một lần nữa, tôi xin kính chào và cảm ơn quý thầy cô, quý đồng môn và những người thân yêu của tôi.  
NH/Trần VănPhỉ
 (Florida - USA)                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                     
Thơ của nẻo về
Hồ Sĩ Bình

     Anh bạn Ngô Hai học cùng một lớp  đệ tam C  niên khóa 1968-69 trường Nguyễn Hoàng, rồi sau biệt tăm không có một chút tin tức. Mới đây, trên đường về Quảng Trị, anh ghé lại Đà Nẵng thăm, thế nhưng tôi lại bận công việc đi xa nên chỉ gặp nhau qua điện thoại. Anh về tới quê là nhắn tin Đường về QuảngTrị chiều nay / Lòng vô hạn nhớ những ngày cố hương…
Và sau đó, sau hơn 40 chục năm khi ngủ lại đêm đầu tiên ở làng, không ngủ được anh lại nhắn tin bằng thơ :
- Làng tôi trăng nước hững hờ.
Mằm nghe ếch nhái bên bờ sậy lau
Rộn ràng vịt lội bờ ao
Xa xa tiềng gió đêm  thao thức lòng...

- Nơi đây đêm không ngủ.
Nằm nghe tiếng mưa rơi.
Gió lòn qua khe cửa.
Xót xa thân phận người.

     Một mình lên lại thị xã Quảng Trị, ghé thăm trường cũ rồi cũng rưng rưng bằng thơ :
- Phố thị chiều nay vắng bóng người.
Lạnh lùng như chiếc lá buồn rơi
Chợt nghe sương xuống chiều vô hạn
Lặng ngắm mây trời thương nhớ ơi.
     Thú thật dù rất yêu thơ nhưng lâu nay lại rất sợ đọc thơ vì năm khi mười họa mới có được bài thơ hay còn đa phần thì thơ ca không có gì mới cả nhất là thời buổi này ai cũng có thể thành nhà thơ, câu lạc bộ thơ thì như nấm mọc sau mưa. Tôi chỉ liếc qua không đọc kỹ, không trả lời bạn. Bỗng bạn nhắn tin : Lộ phùng kiếm khách tu trình  kiếm. Bất thị thi nhân bất hiến thi.. đại ý là có gặp kiếm khách thì trình kiếm, không gặp nhà thơ thì đừng đưa thơ. Biết là bạn giận rồi đây mượn câu thơ cổ mà trách cứ Tự ái hung rồi : một là mình chê thơ bạn hoặc  không còn yêu thơ như những ngày còn học chung trường. Tôi vội vàng trả lời bạn, cứ tiếp tục, mình đang  chờ đọc..
      Ngô Hai thời ấy đi tu, có lẽ anh vào chùa là để trốn lính .Trong lớp, anh chỉ thân với tôi, nhiều buổi anh đưa về chơi ở một căn phòng nhỏ trong chùa Đồng Tri, phía sau bến xe Quảng Trị. Rảnh rỗi, anh em lại về làng An Mô, quê anh. Vườn nhà ở quê có rất nhiều cây trái, chúng tôi hay trải chiếu để đọc sách, phần nhiều là những quyển sách của Nhất Hạnh, có lẽ anh mượn trong chùa. Tôi nhớ những buổi ở quê trôi đi thật êm ả, tâm hồn thật bình yên. Nhiều buổi anh còn dạy tôi học chữ Hán, thời đó mà suy nghĩ chín chắn rồi : Mình học văn chương, sau này đụng văn học cổ, không biết chữ Hán là thua đó, anh nói. Mấy năm sau học ban Việt Hán, tôi lại chợt nghĩ về  những lời nhắc nhở ấy mới thấy quý anh hơn.
 Đi tu nhưng Ngô Hai thuộc loại “mộng đầy trời”, không chỉ làm thơ thiền mà thơ tình cũng nhiều. Lớp tam C chúng tôi hồi đó do cô Võ Thị  Hồng mới ra trường làm giáo sư hướng dẫn, làm mấy tờ báo quay roneo, “chú” Ngô Hai gởi thơ tình nhưng vẫn còn ngại phải lấy bút hiệu và ởm ờ nhờ tôi đăng. Những bài thơ tình sôi nổi đầy ắp cảm xúc của tuổi mới lớn giúp tôi gần anh hơn… Sau năm 1975, anh lập gia đình và  sống ở  Bà Rịa, Vũng Tàu, nghe nói cũng trầm luân lận đận lắm. Anh sống bằng nghề vẽ tranh tường, tranh trên kính ở các chùa. Hình như số phận của anh cả đời đều gắn chặt với chùa chiền…
Vậy mà cho đến giờ này, hơn 40 năm rồi vẫn chưa gặp lại nhau, sao tôi có thể ơ hờ làm anh phải dỗi hờn.
Thật ra, thơ của anh, âm điệu và ngôn ngữ, kể cả cấu tứ không có gì mới nhưng điều đáng nói đó là thơ của một người xa trường, xa cố hương hơn 40 năm  chìm đắm dâu bể và ngày trở lại cô đơn đến cùng tận trên nẻo về vì không còn ai thân thích, quen biết, người xưa thì chỉ còn  đăm đăm một phương trời đuối mộng. Tôi đọc thơ anh trong một tâm thế cảm hoài như gặp lại một hình ảnh quen thuộc ngỡ đã mất đi giữa trời đất, xa khuất mà gần gũi khó phai.

- Chập chờn trên đỉnh phù du.
Gió đưa từng chiếc lá thu rụng vàng.
Em về cóp nhặt dở dang.
Cho đêm tỉnh giấc mộng bàng hoàng đau…

- Ngày ta về không còn người ở đó.
Con đường xưa hoa tím nở trong chiều.
Ánh nắng đọng trên đôi mắt lạ
Nắng  dại khờ vùng cuối nẻo đìu hiu

Về lại nơi cố tự, tìm lại thầy trụ trì để thăm hỏi mới hay 40 năm mọi thứ đều thế sự phù sinh:

Mộng đời man mác chập chờn say.
Chợt nghe xuân đến đã bao ngày.
Mong về chùa gặp sư đàm đạo
Cám cảnh phù sinh tiếc lắm thay

Rồi sinh ra nhớ bạn cũ thời loạn lạc tản cư bên sông Hàn:

Quảng Nam trời cũ xa dần
Tường vi này đã mấy lần trổ hoa
Dấu chân trên cát phôi pha.
Còn chăng kỷ niệm nhạt nhòa trăm năm.

    Về lại bến sông Thạch Hãn, nhìn lại bóng mình trên dòng sông quê hương, bỗng thấy mọi vui buồn cuộc lữ trần ai thoáng chốc là hư ảo. Đây là giây phút mà Ngô Hai tìm được sự an nhiên tự tại của một con người từng trải suy nghiệm nhìn ra được mọi sự phù du của thế sự, thơ bỗng nhiên mang một chút phong vị của thiền:

Ta một đời rong chơi nhiều xứ lạ
Thời gian vừa quen biết đã chia tay
Cũng có lúc dấn thân vào sinh tử
Xem nhẹ đời như chiếc lá vàng bay
Cũng có lúc ngồi ôn chuyện cũ đã bao ngày
Vui cũng lắm mà buồn đau khôn xiết.
Dòng sông nào trôi đi là vĩnh quyết.
Một nụ cười thắp sáng tối đêm nay.

    Nhưng có lẽ giây phút “vong thân đốn ngộ” ấy không giữ được lâu, anh lại trở về với tâm trạng bùi ngùi, xa xót giữa lau trắng miền cổ xứ ví như tâm trạng của nhà thơ đời Đường Trần Tử Ngang trong bài Đăng U Châu đài ca : Tiền bất kiến cổ nhân/ Hậu bất kiến lai giả / Niệm thiên địa chi du du / Độc sảng nhiên nhi thế hạ. Nhìn phía trước  không thấy người xưa, sau lưng không thấy ai đến, một mình giữa trời đất mịt mờ mà rơi nước mắt. Và anh viết :

Mây bay bàng bạc cuối trời
Gió chiều nhè nhẹ lá rơi đêm về
Cuối trời thấp thoáng sơn khê
Xa xa cánh nhạn buồn tê tái lòng.

   Tôi quý nỗi buồn của bạn, buồn vì biết chắt chiu với quá khứ mà quá khứ thì không bao giờ có thể thay thế. Tôi quý tiếng lòng ấy, quý những dòng thơ chân thật vì chắc chắn sẽ có nhiều học sinh của trường Nguyễn Hoàng xưa lưu thân xa xứ có cùng một tâm trạng  khi trở lại cố hương.
Vì lý do đó, tôi viết bài này.
HSB

Những dòng chữ muộn màng
(Tưởng niệm NH/Hồ Ngọc Tố)
NH/Phan Thạch Giang (59-64)

                        "Ngoảnh lại cuộc đời như giấc mộng
                Được - mất - bại - thành: bỗng chốc hóa hư không"
            Thế là NH/Hồ Ngọc Tố đã ra đi, vĩnh viễn ra đi, bất ngờ ra đi không kịp nói lời từ giã những người thân yêu còn trên cõi tạm nầy.  Biết rằng nơi anh đến rồi thì chúng ta ai cũng phải đến nhưng sự ra đi đột ngột của anh đã để lại những hẫng hụt, chới với cùng bao nỗi niềm thương tiếc cho người ở lại vì anh đã sống một quãng đời đáng sống trên thế gian nầy.
            Trong mặt bằng cuộc sống của Hồ Ngọc Tố, anh đã dành một diện tích khá rộng để sống với bạn bè, với những người đồng hương Quảng Trị; đặc biệt là với đồng môn cùng anh một thời chung trường chung lớp; với những cư dân Nguyễn Hoàng đang tha phương phiêu bạt. Anh đã không mệt mỏi đi kiếm tìm để sẻ chia, an ủi...
            Điều đó sẽ chẳng còn lạ lùng chi khi bạn nghe bài điếu văn Vĩnh Biệt Anh Hồ Ngọc Tố hay Như Chim Bỏ Đường Bay đã trào ra từ những xúc cảm tiếc thương chân thực của NH/Nguyễn Thị Liên Hưng - một đồng môn lớp đàn em trong tập thể Nguyễn Hoàng trên đất Đồng Nai.
            Không chỉ Liên Hưng, các đồng môn khác cũng dành cho anh vô vàn tình thương tiếc và những dòng chữ ấy đã trải dài trên từng trang giấy. Đó là Tiếc Thương Anh của NH/Trần Hữu Giáo; là Khóc Hồ Ngọc TốHọp Mặt Không Có Anh của NH/Nguyễn Ngọc Thái và nỗi lòng ai oán của NH/Võ Văn Phúc khi Tiễn Bạn Về Nghĩa Trang.
Không chỉ những anh em trong bút nhóm Vọng Thời Gian mà cả thầy bạn Nguyễn Hoàng khắp nơi cũng xúc cảm nên những vần thơ thương tiếc. Từ NH/Văn Thiên Tùng ở quê nhà Quảng Trị đến Vũ Hồng Phong ở Bình Thuận; rồi NH/Phùng Nguyên, NH/ Lê Văn Hạt; NH/ Nguyễn Tường, v.v... Anh Tố ơi! Khi anh bước xuống con thuyền âm dương cách trở, những dòng thơ ấy như là những cánh hoa thơm rải theo bước chân anh đó.
Cùng bạn bè Nguyễn Hoàng ở các tỉnh phương Nam, tôi cũng có mặt trong buổi lễ thầy bạn Nguyễn Hoàng thắp nén nhang vĩnh biệt anh. Tôi mơ hồ thấy những chú chim chuyền cành cất tiếng kêu thương tiếc chủ trong khu vườn đầy hoa lá xinh tươi nhà anh - khu vườn đang ươm đầy những lộc non mơn mỡn của buổi đầu xuân. Thật ấn tượng về buổi lễ truy điệu  trang trọng và đầy xúc động mà các đồng môn đã dành cho anh.
Không thể ngờ được một Võ Văn Phúc - con ngựa chiến  dày dạn phong sương chỉ ngạo nghễ hí vang trời trong kiếp nhân sinh - mà khi thay mặt nhóm CHS/NH tại Đồng Nai đọc lời tiễn biệt Hồ Ngọc Tố đã phải bật khóc làm lời thoát ra khỏi vành môi chẳng thể trơn tru. Không thể ngờ một Trần Hữu Giáo với tâm hồn đa cảm chưa phai máu võ biền cũng đã ngập ngừng, nén dòng nước mắt khi thay lời Thầy Lê Hữu Thăng đọc lời tiễn biệt của Thầy từ phía bên kia bán cầu gởi về. Không thể ngờ một Nguyễn Ngọc Thái từng đứng lớp, quen với các bài giảng cho học trò giờ cũng rạn vỡ, nghẹn lời khi thay mặt Thầy Hồ Ngọc Thanh từ Đà Nẵng gởi vào những dòng chữ "Hồ Ngọc Tố ơi! Sinh tiền, tình nghĩa thầy trò chúng ta thân thiết mặn nồng là thế! Sao lúc sinh ly tử biệt lại quá nghiệt ngã thế nầy...". Và cũng không thể ngờ NH/Võ Văn Phúc đã lặng lẽ mời một CHS/NH đã xuất gia -Thầy Tì kheo Thích Lệ Nhân cùng đệ tử của Thầy cùng đến để lên hồi chuông mõ cầu siêu một cách trang nghiêm. Vây quanh linh cữu của anh hôm ấy là những tiếng nức nở nghẹn ngào cố nén nhưng dòng lệ thì cứ đầm đìa trên những khuôn mặt đồng môn, vì chẳng ai có thể nuốt được nước mắt vào lòng.
Sau tang lễ của anh, tôi nằm nhà trong nỗi đau của tuổi tác và của cả tâm hồn vì bầu trời Nguyễn Hoàng Đồng Nai đã tắt rồi một vì sao sáng. Trong chuỗi ngày ấy thì Liên Hưng mang những dòng ai điếu, những lời chia buồn và những bài viết đầy thương tiếc Hồ Ngọc Tố của thầy bạn đồng môn khắp nơi đến cho tôi. Cô ấy đã sắp xếp bài vở theo thứ tự thời gian khá gọn gàng trong những trang in rõ ràng. Cũng chính những trang giấy đó đã làm cho không chỉ bản thân tôi mà cả gia đình vợ con tôi bồi hồi xúc động. Bữa cơm chiều của gia đình tôi hôm ấy lặng lẽ, buồn đến ngẫn ngơ. Tôi đã bước ra vườn sau nhà, tựa người vào thân cau già để nghe chiều xuống. Trong bóng hoàng hôn, những cánh chim trời lại xao xác gọi nhau trên mấy tầng không làm tôi tưởng chừng đó là lời bạn bè chới với gọi anh trong nỗi tiếc thương, xa xót.
Tôi không có ý định viết gì  về anh vì đầu óc tôi rỗng tuếch đến dại khờ. Và cũng đã từ lâu rồi tôi chẳng màng cầm đến cây bút. Cho đến lúc các thành viên trong bút nhóm Vọng Thời Gian thôi thúc tôi nên viết một chút gì đó - Và thế là đêm nay tôi ngồi viết những dòng chữ nầy. Có vài điều về NH/Hồ Ngọc Tố - một thành viên ưu tú của tập thể Nguyễn Hoàng - tôi phải nói ra:
1. Đó là chuyện có một người đàn ông mang tên Hồ Ngọc Tố được đề cập qua bài viết của tác giả Phan Thu Hiền ở Cẩm Mỹ (Đồng Nai). Chị là con gái của CHS/NH Phan Xuân Trang (thế hệ HSNH 65-72). Bài viết ấy có tựa đề là Lá Thư được NH/Võ Thị Quỳnh đăng trong tập 7 NH - CD&KN trang 789. Những dòng chữ mộc mạc ấy làm tôi cảm mến anh hơn.
2. Hơn hai năm trước anh đã tìm đến tôi và mời cùng nhau họp bàn cho lần tổ chức họp mặt trường xưa tại Đồng Nai. Cảm giác đầu tiên của tôi khi gặp anh là một người đàn ông lịch lãm, thành đạt nhưng không phô trương. Anh nói năng từ tốn, dịu dàng đầy tình thân ái. Sau lần họp mặt, dù vẫn mến mộ anh nhưng thú thật đã nhiều lần tôi lẫn tránh anh một cách vô cớ. Một phần vì bệnh tật tuổi tác - một phần có lẽ vì một nỗi ưu tư mơ hồ nào đó của kẻ quen với bụi phong trần khiến tôi thấy ngại khi sóng bước bên một người đàn ông lịch sự như anh. Nhưng thật kỳ lạ, tôi càng tránh anh càng tìm kiếm tôi cho bằng được. Và rồi tôi trở thành người đồng môn được anh ưu ái lúc nào không hay.
3. Nếu bảo rằng tôi là bạn thân của anh thì chắc là không đúng vì thời gain chúng tôi biết nhau chưa dài. Nhưng trong tâm thức, tôi nhận thấy anh đúng là mẫu người tri kỷ -  người bạn chân thành. Tôi vinh dự được đồng hành cùng anh trong việc kết nối vòng tay thân ái Nguyễn Hoàng. Vậy mà bây giờ anh lại bỏ đi, tiếc lắm thay!
4. Trong nhóm đồng môn Nguyễn Hoàng trên đất Đồng Nai, anh tựa như hình ảnh của một vị linh mục. Vị linh mục ấy không mặc áo Dòng mà những thành viên Nguyễn Hoàng - trong đó có tôi - chẳng khác gì những con chiên không mấy ngoan đạo. Anh đã phải vất vả gọi đàn, kết nối, sẻ chia, khuyên bảo và ủi an để có một tập thể sát cánh bên nhau.
5. Bạn bè mỗi người một cuộc sống khác nhau. Bèo hợp để rồi tan; tan rồi lại hợp. Thỉnh thoảng tôi và anh lại có những cuộc hẹn, dừng lại giây phút với ly cà phê đăng đắng thơm thơm dọc đường nhân gian mà nhìn dòng đời xuôi ngược. Quán Cõi Riêng đối diện văn phòng làm việc của anh; quán Bụi Trúc dọc Quốc lộ I của thị xã Long Khánh và những quán nước của con gái tôi ở Biên Hòa. Có đôi lần cô em út Liên Hưng cũng góp mặt, ba anh em tôi thường rất vui khi gặp nhau. Có lắm chuyện để nói từ chuyện đời, chuyện người, chuyện trong nước, chuyện thế giới rồi cũng quay về chuyện Nguyễn Hoàng xưa và nay. Có nhiều lần anh em tôi hỏi thăm nhau về tình hình sức khỏe và chúng tôi luôn lo lắng, nhắc nhở nhau vấn đề thuốc thang chữa trị.
Bên ly cà phê, anh thường đàm đạo về các loại cây trồng, về hoa trái; anh thường đề cập đến những đền đài lăng tẩm xưa; về Hán học; về các triều đại vua quan khiến tôi cứ tưởng như đang nói chuyện với nhà nông học kiêm sử học vậy. Nhưng chưa bao giờ tôi nghe anh nói đến sự thành công hay thành đạt của bản thân anh cũng như tài sản, danh vọng anh đang có. Đó là đức khiêm tốn mà những người thành đạt hiếm khi giữ được, tôi học hỏi ở anh đức tính ấy.
Anh quan tâm đến chuyện nhà của anh em đồng môn với tình cảm sẻ chia, chân thật. Có lần nghe tôi dự định xây lăng mộ cho song thân tôi ở nghĩa trang Phật giáo chùa Quảng Long, anh đã dặn tôi khi khởi sự hãy cho anh biết ngày khởi công để đến tận nơi giúp đỡ nhưng sợ phiền anh nên tôi đã không cho anh biết. Còn nhiều, nhiều nữa nói sao cho hết khi cánh chim đã rời đàn về hướng khác.
Anh Tố ơi! Nơi chốn về ấy tôi luôn nghĩ anh sẽ bình an rong chơi trong lạc cảnh và trong tĩnh lặng đêm tàn, tôi xin gởi đến hương hồn anh những dòng thương tiếc:


Tĩnh Lặng
Bạn về âm cảnh ngàn thu vắng
   Thôi rồi!
        Giọt đắng ứa bờ môi
Đời đã đánh cắp nơi ta một niềm vui bè bạn
Nên đêm nay trăng mồng mười rơi
                                 Rơi xuống cõi tội tình
Tôi cúi đầu tiễn biệt
Rồi xót xa bên hàng nến đỏ
                                     cháy lung linh
Một vì sao chợt tắt
Một cánh chim lẻ bạn
Vội vàng bỏ đường bay
Đêm nay trăng mồng mười rơi
                                 Rơi xuống cõi tội tình
Tôi biết nói lời gì
        Trước hàng nến đỏ
                   Cháy lung linh
Tình đồng môn thân yêu
               Tố ơi! Có nhớ?
Có nhớ mang theo ngày vui hội ngộ của chúng mình
Bạn xa vắng thật rồi
Tôi trở lại quán cà phê cũ
            Nơi ta thường ngồi
Chiếc bàn màu vân gỗ quen quen
Chiếc ghế vẫn nghiêng nghiêng mời gọi
Có hai tách cà phê như hiểu được lòng ta
                      Nhỏ xuống giọt dài, giọt ngắn
Chầm chậm thôi có vội vã chi đâu
Bạn đi rồi không bao giờ trở lại
Còn mình tôi ngồi
                   Nhìn sỏi đá thương nhau
Ly phần tôi
Tôi uống cạn
Ly phần bạn
Xin gởi lại trăng sao
Ngồi một mình hiu hắt
Mà dặn lòng chớ khóc
Sao góc phố chiều nay bỗng chốc mưa rào
Thanh thản nhé rong chơi miền lạc cảnh
Nới dương gian bè bạn vẫn gọi tên
Gọi tên bạn giữa trời đêm
Không gian im ắng bên thềm trăng rơi
  Phan Thạch Giang
Biên Hòa (13/3/2011)

Bút nhóm Vọng Thời Gian – một ngày vui cũ

KHI MÔ VÔ SÀI GÒN RỨA BA?
Bút ký: Đinh Hoa Lư
 


hình bên  : 
TRONG XE GIƯỜNG NẰM TIẾN ĐẠT THÀNH Quảng Trị

Chỉ vài ngày về Quảng trị vội vàng vợ chồng tôi vội vô nam ngay . Thời gian về thăm quê quá nhanh sau bốn mươi năm xa vắng chẳng đâu vào đâu, nhất là những hình ảnh , âm thanh của ngày đại hội 60 Năm Nguyễn Hoàng như còn lởn vởn trong trí óc tôi. Thêm vào đó vợ chồng tôi về quê lần này có nhiều sự kiện mới lạ, đặc biệt khó quên.
Trên chiếc xe " GIƯỜNG NẰM CAO CẤP " xuôi nam , tôi đã có dịp so sánh  với các phương tiện giao thông trên con đường độc đạo 1A ,  thì những chiếc xe giường nằm đời mới này nó đương nhiên hơn hẳn. Tuy giá vé cao hơn ,  nhưng xe chạy nhanh , cẩn thận , lại thêm ăn uống dọc đường hãng xe phục vụ chu đáo hơn .  Chuyện này làm tôi phải nhắc đến "chuyến xe bão táp " cái tên tôi tự đặt cho chuyến xe ra Trung của vợ chồng tôi. Xe bình thuờng, ghế ngồi   chạy chậm , không an toàn , tài xế lại thiếu tinh thần trách nhiệm quá mức cho phép. Quý bạn có cho tôi viết quá lời hay không  khi anh tài trong chuyến xe ra vừa lái xe vừa nói điện thoại di động  "tán cô đào " nào ngoài Hà Tỉnh , Vĩnh linh gì đó !  Có khi xe đang chạy, thấy quán bán chuồng chim đẹp , anh ta dừng lại mua chơi ! Anh chẳng màng bao nhiêu  hành khách đang nôn nóng trên xe!  Có thể tôi quen đời sống chính xác, đúng giờ, nơi xứ người, nên qua đây lại "dị ứng" chăng? Hay tánh tôi khó,  hay "ca cẩm" ? dù sao vợ chồng tôi  khi vào nam lại chọn xe GIƯỜNG NẰM là  phản ứng tự nhiên sau khi tôi đã gán cho chiếc xe ra vừa kể là chuyến xe "bão táp".
Trở lại chuyện trên xe GIƯỜNG NẰM, chiểc xe chạy êm , không dồi khi có đoạn đường xấu .  Nằm thư thả tôi có cơ hội ngó nghiêng qua thành cửa sổ, vừa ngắm hình ảnh quê huơng vùn vụt chạy lui phía sau tôi vừa ôn lại chuyện vừa qua: những cái bắt tay vội vàng, những lời nói dứt khoảng chưa hết ý của bạn bè,  của những người quen lâu hay mới quen. Trong mớ hỗn độn vội vã trong mấy ngày về lại quê huơng đột ngột của tôi, thời gian chưa định sẵn nó như tạo dựng trong trí tôi một thứ cảm xúc pha trộn khó phân biệt vô cùng .
Có hai cha con trên cái giường cách tôi một hành lang rất hẹp.  Người cha cở tuổi con trai đầu tôi.  Dáng dấp người cha, nếu tôi không lầm, thì là một công nhân hảng xưởng nào đó trong nam. Tôi lại chẳng lầm khi qua giọng nói thì anh ta phải là người Nghệ -Tĩnh, có nghĩa là chắc chắn không phải là người Quảng trị! Đứa con gái khoảng ba tuổi , tóc hớt ngắn theo kiểu con trai . Bộ đồ cháu mặc như đang chơi trong nhà không có vẻ gì là đi nam, nói đúng hơn là đang cùng cha làm chuyến viễn hành vào nam trong đời cháu. Anh thanh niên, tức người cha, coi bộ cưng yêu đứa con gái lắm. Thỉnh thoảng anh ta lúi húi lấy từ túi đồ dưới chân chút quà đút cho con gái . Suốt khoảng đường dài hành khách ai cũng thiu thiu ngủ , duy cháu gái này  tôi để ý cứ lổm ngổm ngồi ngồi trên bụng cha không ngủ chút nào! Anh thanh niên thỉnh thoảng vổ cho con ngủ. Hai cha con đang đi vô nam , dĩ nhiên là sinh kế nhưng mẹ cháu gái này đâu ? tôi đoán chẵng ra !  Sự quấn quít giữa hai cha con làm tôi nhớ con gái tôi. Cha thì hay thuơng con gái mà ! có phải vậy không? có điu con gái tôi nay đã lớn , và hai mươi năm trước tôi làm gì có thì giờ để gần con , quấn quít bên con như thế này ! rẫy rừng làm bạn, quảng thời gian của quá khứ trước đây, khói núi sương chiều, đã ngốn mất những hạnh phúc như vậy đây.
-          "khi mô vô SÀI GÒN rứa ba?"
Câu hỏi đột ngột  của bé làm tôi giật mình !
"Sài Gòn" hai chữ này tưởng như đã nhạt nhòa , phủ lấp theo thời gian rồi bỗng nhiên lại phát ra từ chính miệng một cháu bé từ ngoài kia vào. Vừa ngạc nhiên vừa xúc động , cảm giác pha trộn khó tả vô cùng! Một thoáng nhìn qua bé , như một phản xạ nhanh không kìm được từ những gì sâu kín trong lòng mà lâu nay tôi (hay những người khác) cố kìm giữ đè nén.  Chỉ thoáng giây liếc qua bé, câu hỏi mộc mạc của bé phát xuất từ một tâm hồn thuần phát, từ những mong đợi thiết tha của bé, của cha mẹ bé , hay ngay cả xóm làng quanh bé ngoài kia - Vĩnh linh, Nghệ tĩnh: những truông cát dài hẹp, đất đai khô khan, người đông bao đời nghèo mãi! Và bé hàng ngày chứng kiến bà con lần lượt theo nhau huớng v nam - trong kia là vùng đất hứa, của việc làm, của những đồng lương , cơm gạo , mà cha bé đã từng tém nhặt, nhịn ăn tiêu đem v quê giúp đỡ gia đình . Có thể tôi đoán đúng, những ấn tượng và hình ảnh mà lúc cha cháu gái này v quê, ngoài kia, đã vẽ nên một hình ảnh no ấm của "cơm ăn áo mặc" của những chiếc bánh , gói kẹo mà cha bé mỗi lần v thăm quê đang dựng nên một phương nam tốt lành trong trí óc ngây thơ kia.
     -"khi mô vô SÀI GÒN rứa ba?"
   Câu hỏi của cháu  cứ lởn vởn trong đầu tôi suốt cuộc hành trình vô nam. Lòng tôi  chua xót mãi cái chuyện "hay quên" của người đời !  Trong lúc này, một em bé không liên hệ gì v một địa danh, hay một thành phố mất tên, như sự mất  tên của trường  tôi đã làm cho bao ngàn đứa học trò năm cũ từng bứt rức xót xa, cháu lại có một mỹ cảm ban sơ, một trực giác v một phương nam đầy hứa hẹn ./.
ĐHL
Chuyện ghi trên xe GIƯỜNG NẰM CAO CẤP TIN ĐẠT THÀNH 25/6/2012

Sau non một tháng trở lại Hoa Kỳ , phương trời ấy luôn là trong nỗi nhớ . Do vậy Thu mạo muội viết lên những lời này , kính gởi đến quý thầy cô và ACE cùng các bạn như là sự chia sẻ ( mong cảm thông về phần niêm luật ).

                                         MỘT LẦN ĐI VỀ

                           Về nhà , nhưng lại " xứ người "...
                      Quê hương đất Mẹ tiếng cười còn đâu
                            Phương xa ngàn dặm cơ cầu
                      Càn khôn thấu rõ nỗi sầu tha hương ...
                           Ngàn nỗi thương , vạn nhớ thương
                     Thương cha , nhớ mẹ , vấn vương lời thầy
                           Tao phùng hạnh ngộ , chia tay
                    Tháng ngày ngậm nhấm đắng cay cỏi lòng ...

                                               Aug 05 , 2012 Bùi DucThu
                                                 .

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét