THI PHÁP NGUYỄN BÍNH
Thơ Nguyễn Bính kết hợp hai thể loại của hai dòng thi ca cổ điển : thể ngâm của Cung oán và Chinh phụ và thể thoại của các truyện nôm : Hoa tiên, Kiều... Nói khác đi thơ Nguyễn Bính là tự truyện kết hợp với tiểu thuyết. Nếu Cung oán và Chinh phụ là những khúc ngâm của người đàn bà thế kỷ XVIII, thì Lỡ bước sang ngang là khúc ngâm của người đàn bà đầu thế kỷ XX.
Lá vàng mùa thu
Bài thơ Lỡ bước sang ngang khi ra đời có lẽ không bao giờ ngờ rằng nó sẽ trở thành tác phẩm «báo mộng» cuộc đời Nguyễn Bính : một đời lỡ bước, một đời tài hoa bạc mệnh. Một đời chia ly, phân kỳ, đoạn trường, tang liệm, một đời khát khao tình yêu và hạnh phúc. Tập Lỡ bước sang ngang mở đầu bằng bài thơ bạc mệnh ấy và kết thúc bằng hai bài Chuyến tàu đêm và Đàn tôi, cả ba đều là thơ bạc mệnh, như thể bao nhiêu nỗi buồn trên thế gian đều theo nhau vào thơ Nguyễn Bính
Nguyễn Bính tên thật là Nguyễn Trọng Bính, sinh năm 1919, quê ở xóm Trạm, thôn Thiện Vinh, xã Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Mồ côi mẹ từ lúc ba tháng. Không học ở trường mà học nhà với cha và cậu. Làm thơ từ lúc 13 tuổi. Được giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn năm 1937. Đến năm 1942, Nguyễn Bính đã có 7 tập thơ : Lỡ bước sang ngang và Tâm hồn tôi (in năm 1940), Hương cố nhân và Một nghìn cửa sổ (1941), Người con gái ở lầu hoa, Mười hai bến nước, Mây tần và Bóng giai nhân (1942).
Nguyễn Bính nổi tiếng ngay từ tập thơ đầu, Lỡ bước sang ngang. Người Việt từ Nam chí Bắc thuộc Lỡ bước sang ngang. Sự bình dân của Nguyễn Bính được Hoài Thanh Hoài Chân giải thích trong Thi Nhân Việt Nam, như một lời khen, rằng Nguyễn Bính đã làm sống lại mỗi con người nhà quê trong chúng ta, nhưng Hoài Thanh Hoài Chân lại tiếc rằng Nguyễn Bính làm thơ bình dân như thế thì «khó lọt vào mắt những nhà thông thái» và các ông trách Nguyễn Bính đã nhà quê sao lại không nhà quê cho trót, mà thình thoảng lại chêm những câu thơ rất «tỉnh» vào, làm cho «người ta khó nhận thấy cái hay của những câu thơ khác có tính chất ca dao».
Tóm lại, theo Hoài Thanh Hoài Chân : thơ Nguyễn Bính nhà quê và cái hay trong thơ Nguyễn Bính là nhờ giống ca dao. Cả hai nhận xét đều vội vàng, sai lạc, rất bề ngoài, vì không phải, trong thơ, cứ tả cảnh sống ở thôn quê là thành người nhà quê, cứ có thôn Đông, thôn Đoài, có vườn dâu, nong tằm là có chất ca dao. Hai nhà phê bình khác, cảm thông sâu sắc với định mệnh khắt khe, đau buồn trong thơ Nguyễn Bính là Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng trong Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến, do Sống Mới tái bản năm 1968, tại Sài Gòn.
Thơ Nguyễn Bính bình dân, nhưng không quê mùa. Nguyễn Bính đã nhập hồn người dân quê, hồn người phụ nữ, để viết lại đời sống quê hương và dân tộc mình, bằng một giọng thơ bình dân ai cũng hiểu. Bình dân được như Nguyễn Bính không phải dễ.
Nguyễn Bính nói hộ cả một thế hệ đàn bà, một thế hệ lỡ bước trong những cuộc hôn nhân dàn xếp, bằng ngôn ngữ của họ, bằng những thổn thức của họ. Nguyễn Bính nói thơ chứ không làm thơ. Ngôn ngữ thơ của ông là ngôn ngữ đối thoại giữa hai người, hoặc một người độc thoại với chính mình. Chính cái cấu trúc thi thoại, gồm đối thoại và độc thoại trong thơ ấy, đã tạo nên thi ca Nguyễn Bính :
Em ơi, em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương
Cấu trúc thi thoại, gọi nôm na là thơ nói có từ thế kỷ XVIII, trong các truyện nôm.
Nền thơ nôm của chúng ta khá rực rỡ trong thế kỷ XVIII với ba tác phẩm cột trụ : Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều (1741-1798), Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự (1743-1790) và Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn do Phan Huy Ích (1750-1822) dịch, mà tới nay người ta vẩn coi là của Đoàn Thị Điểm, mặc dù Hoàng Xuân Hãn đã chứng minh về văn bản trong Chinh phụ ngâm bị khảo từ hơn nửa thế kỷ nay.
Cung oán và Chinh phụ là những khúc ngâm, tức là những lời tâm sự, than vãn của một người đàn bà, nói cách khác, đó là những «tự truyện» khổ đau ; trong khi Hoa tiên là một truyện nôm, tức là một «tiểu thuyết» viết bằng thơ. Hoa tiên mở đường cho những truyện nôm sau này như Quan Âm Thị Kính, Lục Vân Tiên, Bích Câu kỳ ngộ, Nhị Độ Mai, Nữ Tú Tài, Phan Trần ... và nhất là truyện Kiều của Nguyễn Du. Truyện nôm là một hình thức tiểu thuyết, mà trong tiểu thuyết phải có đối thoại. Vì vậy, trong truyện nôm luôn luôn có những chữ : nàng rằng, chàng rằng. Ví dụ trong Hoa Tiên :
Thưa rằng : Chút phận bọt bèo
Hậu sinh đã dám chơi trèo sao nên
Hoặc trong Quan Âm Thị Kính :
Chàng rằng: Giấc bướm vừa say
Dao con nàng bỗng cầm tay kề gần
Thơ Nguyễn Bính kết hợp hai thể loại trên đây: thể ngâm của Cung oán và Chinh phụ và thể thoại của các truyện nôm : Hoa tiên, Kiều... Nói khác đi thơ Nguyễn Bính là tự truyện kết hợp với tiểu thuyết trong thơ.
Tác phẩm Lỡ bước sang ngang cho thấy ảnh hưởng sâu sắc của hai dòng thi ca cổ điển này. Nếu Cung oán và Chinh phụ là những khúc ngâm của người đàn bà thế kỷ XVIII, thì Lỡ bước sang ngang là khúc ngâm của người đàn bà đầu thế kỷ XX. Khúc ngâm nào cũng gắn bó với hai niềm đau : Tình thế bi đát của đối tượng mà tác giả đưa ra và niềm đau nội tâm của chính tác giả. Đối tượng trong Cung Oán và Chinh phụ ai cũng đã rõ. Đối tượng trong Lỡ bước sang ngang, ở ngay trong đề : lời than của một thiếu phụ lấy người mà mình không yêu.
Đây cũng là bi kịch chung của người phụ nữ đầu thế kỷ XX mà những ngòi bút thời ấy không mấy ai không viết, từ Hoàng Ngọc Phách đến Khái Hưng, Nhất Linh, qua TTKh. Theo Bùi Hạnh Cẩn, anh họ của Nguyễn Bính, trong cuốn Nguyễn Bính và tôi (nxb Văn Hoá Thông Tin, tái bản 1999) thì đối tượng ngoài đời của bài thơ là Th, người yêu của nhà thơ Trúc Đường, anh ruột Nguyễn Bính. Nguyễn Bính đặt tên cho người đàn bà này là chị Trúc. Chị Trúc trở thành đối tượng của nhiều khúc ngâm, trong những giây phút đau thương nhất của đời mình, Nguyễn Bính thường làm thơ gửi cho chị Trúc, viết về niềm đau của chị Trúc như niềm đau của chính mình. Chị Trúc là một nàng thơ, là một ảnh thật và ảnh ảo chập chùng. Thân phận lỡ làng, nổi trôi của chị Trúc cũng là thân phận lênh đênh lạc loài của Nguyễn Bính.
Lỡ bước sang ngang còn là một truyện nôm. Nguyễn Du khi viết truyện Kiều đã chịu ảnh hưởng của Nguyễn Huy Tự trong Hoa tiên, Nguyễn Bính khi viết Lỡ bước sang ngang đã lấy Nguyễn Du làm mẫu.
Chúng ta thử đọc lại đoạn Thúy Kiều dặn dò Thúy Vân trước khi đi vào cuộc đời mưa gió, Nguyễn Du viết :
Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy, rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa, mặc em.
Nguyễn Bính viết:
Mẹ già một nắng hai sương
Chị đi một bước trăm đường xót xa
Cậy em, em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương
Ảnh hưởng trực tiếp, rất thầy trò. Lỡ bước sang ngang có hơi thơ Nguyễn Du, có cái tâm Nguyễn Du, có lòng thành Nguyễn Du, có cách đưa đối thoại vào thơ thần tình như Nguyễn Du. Bởi cả hai nhà thơ đều đã nhập vào hồn nhân vật mà họ diễn tả. Nguyễn Du nhập vào Kiều, viết hộ Kiều những lời tha thiết dặn dò Thúy Vân, trước khi bước vào quãng đời mưa gió. Nguyễn Bính nhập vào hồn người chị trước khi lấy chồng, dặn em những lời đau đớn xót xa :
Rồi đây sóng gió ngang sông
Đầy thuyền hận chị lo không tới bờ
Miếu thiêng vụng kén người thờ
Nhà hương khói lạnh, chị nhờ cậy em
Đêm nay là trắng ba đêm
Chị thương chị, kiếp con chim lìa đàn
Một vai gánh lấy giang san...
Một vai nữa gánh muôn vàn nhớ thương
Mắt quầng, tóc rối tơ vương
Em còn cho chị lược gương làm gì !
Một lần này bước ra đi
Là không hẹn một lần về nữa đâu
Cách mấy mươi con sông sâu
Và trăm nghìn vạn dịp cầu chênh vênh
Cũng là thôi... cũng là đành...
Sang ngang lỡ bước riêng mình chị sao ?
Lỡ bước sang ngang viết cho chị Trúc. Là tiếng bạc mệnh của một người chị, nhưng cũng là điềm «báo mộng» quãng đời lưu lạc của tác giả :
Mười năm gối hận bên giường
Mười năm nước mắt bữa thường thay canh
Mười năm đưa đám một mình
Đào sâu chôn chặt mối tình đầu tiên
Mười năm lòng lạnh như tiền
Tim đi hết máu, cái duyên không về
Những năm bốn mươi ở Hà Nội, nghệ sĩ, thường không có kế sinh nhai, thơ không nuôi nổi người, phải đi nơi khác «kiếm ăn». Nguyễn Bính đi Nam khoảng 1941, lang bang vào Thanh Hoá rồi đến Huế :
Chúng tôi hai đứa xa Hà Nội
Bốn tháng hình như kém mấy ngày
Lăn lóc có dư mười mấy tỉnh
Để rồi nằm mốc ở nơi đây (Giời mưa ở Huế, 1941)
Hai đứa đây là Nguyễn Bính và Vũ Trọng Can.
Từ Huế, Nguyễn Bính vào Nam, lang thang Rạch Giá, Hà Tiên, Sài Gòn, ngủ đình, ngủ chợ, nay tá túc chỗ này, mai ở nhờ chỗ khác. Sau này Kiên Giang đã viết những dòng cảm động, tả lại những nỗi «đoạn trường» nằm đất, quấn nóp (một thứ túi ngủ), ngủ đình của Nguyễn Bính trong quãng đời lưu lạc này.
1945, cách mạng bùng nổ, Nguyễn Bính được mời tham gia kháng chiến, nhưng tạng Nguyễn Bính không hợp với thơ tuyên truyền, cho nên ông chỉ viết được những vần thơ khẩu hiệu, không hay :
Đánh ! Đánh! Đánh! Chỗ nào cũng đánh
Hoặc những câu gượng gạo như:
Nếu quân thù không đem binh tiếp viện
Thì quân ta tiêu diệt hết quân thù.
Trong suốt thời gian chín năm gắn bó với cách mạng, những vần thơ hay nhất của Nguyễn Bính là những bài thơ ở Nam nhớ Bắc, rồi sau 54, về Bắc nhớ Nam : Mối tình đầu tiên và chân thật nhất của Nguyễn Bính là quê hương đất nước.
1954, tập kết ra Bắc, Nguyễn Bính để lại trong Nam người vợ và đứa con. Khi chủ trương tờ Trăm Hoa cùng với Nhân Văn Giai Phẩm, Nguyễn Bính viết bài Tỉnh giấc chiêm bao, trên báo Trăm Hoa, tháng 12/1956, với những câu thơ đắng cay, hai nghiã, có thể hiểu là ông viết lại truyện nhân duyên trắc trở của mình với người vợ hay là với cách mạng, bởi đó là cuộc nhân duyên “Chín năm đốt đuốc soi rừng” (1945-1954). Những tưởng: “Duyên nhau đã dựng Trường- đình” Nào ngờ :”Mẹ em đã xé tan tành gối thêu”.
Sau cơn bão táp Nhân Văn Giai Phẩm, Nguyễn Bính trở về Nam Định, sống quãng đời đen tối còn lại của những người đã trót gắn bó với Nhân Văn. Lỡ bước sang ngang lại một lần nữa trở về trong định mệnh của Nguyễn Bính :
Chị giờ sống cũng bằng không
Coi như chị đã sang sông đắm đò
Một định mệnh tăm tối, u buồn, sa thải, cho đến lúc mất, trong cô đơn, bệnh tật và đói vào ngày cuối cùng của năm Ất Tỵ , ngày 20/1/1966.
*
Nói về thi pháp Nguyễn Bính tức là nói về một dòng thơ không thi pháp. Nguyễn Bính đã vô hiệu hoá tất cả những quy luật về thi ca từ trước đến giờ. Bởi tất cả những lý thuyết về thơ, đại loại như : ngôn ngữ thơ phải là một thứ ngôn ngữ độc đáo phi thường, ra khỏi phạm vi của lời nói hàng ngày. Nhà thơ phải bóp méo ngôn ngữ nói bằng những thủ pháp ẩn dụ, hoán dụ, đảo ngữ ... để đạt tới ngôn ngữ thơ, mà mỗi chữ phải có một giá trị riêng biệt, khác với công dụng của nó trong ngôn ngữ hàng ngày v.v... Nói khác đi, thơ phải là những câu với lời lẽ trác tuyệt như thơ Ôn Như Hầu : Trải vách quế gió vàng hiu hắt. Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng.
Tất cả những nguyên tắc ngôn ngữ thơ ấy đối với Nguyễn Bính đều vô dụng. Thơ Nguyễn Bính chính là tiếng nói hàng ngày, là ngôn ngữ chúng ta thường dùng để nói chuyện với nhau, không có gì khác cả, Thơ Nguyễn Bính là lời mẹ dỗ con gái trong buồng, trước khi nhà trai đến đón dâu:
Gái lớn ai không phải lấy chồng
Can gì mà khóc nín đi không
Nín đi mặc áo ra chào họ
Rõ quý con tôi các chị trông
Ương ương dở dở quá đi thôi
Cô có còn thương đến chúng tôi
Thì đứng lên nào, lau nước mắt
Mình cô làm khổ bấy nhiêu người
Này áo đồng lầm quần lĩnh tiá
Này gương này lược này hoa tai
Muốn gì tôi sắm cho cô đủ
Nào đã thua ai đã kém ai (Người mẹ)
Thơ Nguyễn Bính là lời người dì thủ thỉ dặn dò cháu gái trong đêm tân hôn :
Dì em khe khẽ tai em dặn :
Như thế...từ nay...cháu nhớ chưa
Chết nhỉ ! Đêm nay ngủ với chồng
Trời ơi ! Gió lạnh ! Gớm mùa đông
Lặng yên níu áo dì em lại
Ngủ nốt đêm nay có được không ? (Giọt nến hồng, 35)
Thơ Nguyễn Bính là lời cha thi sĩ, tha thiết khuyên con gái :
Nhất kiêng đừng lấy chồng thi sĩ !
Nghèo lắm con ơi ! Bạc lắm con ! (Oan nghiệt)
Từ Nguyễn Du, chưa ai viết được những lời thơ đối thoại thần tình như vậy.
Cái kinh nghiệm sống, kinh nghiệm đời ấy, Nguyễn Bính lấy từ đâu ? Làm sao một cậu thanh niên chưa đầy hai mươi tuổi đã có thể nằm trong da thịt và tâm hồn người đàn bà hôn nhân ngang trái, để viết nên những hàng :
Năm xưa đêm ấy giường này
Nghiến răng... nhắm mắt...cau mày...cực chưa ? (Lỡ bước sang ngang)
Nguyễn Bính không chỉ dừng lại ở ngang trái. Nhà thơ hai mươi tuổi ấy đã đi hết trọn đời người và đã viết những câu thơ tiên tri cho định mệnh của chính mình :
Bao nhiêu đau khổ ngần này tuổi
Chết cũng không non yểu nỗi gì (Giối giăng)
*
Cho nên, sự độc đáo nhất của Nguyễn Bính là ông đã khuynh đảo tất cả những lý thuyết về ngữ học văn thơ từ trước đến giờ : thứ lý thuyết phân biệt giữa văn thơ và lời nói thông thường. Ông dùng ngôn ngữ hàng ngày để là thơ, và thơ ông thường là một câu truyện, ông kể lại những chuyện tầm thường nhất, ví dụ chuyện hai chiếc lá bàng rụng :
Thu đi trên những cành bàng
Chỉ còn hai chiếc lá vàng mà thôi
Hôm qua đã rụng một rồi
Lá theo gió cuốn ra ngoài sơn thôn
Hôm nay lá thấy tôi buồn
Lìa cành theo gió lá luồn qua song
Hai tay ôm lá vào lòng
Than ôi ! Chiếc lá cuối cùng là đây (Cây bàng cuối thu)
Chỉ là câu chuyện hai chiếc là vàng rụng, với những lời lẽ mộc mạc nhất, nhà thơ đã tạo nên một không gian chia lìa, một đời hoang lạnh, một tình yêu chớm nở giữa lá và người, trước khi lá kia nhắm mắt Lìa cành theo gió lá luồn qua song, người đã Hai tay ôm lá vào lòng.
Trong những trang cuối của tập Lỡ bước sang ngang, bài Chuyến tàu đêm đứng riêng một cõi. Chuyến tàu đêm là một chuyến tàu siêu thực, là tác phẩm đặc biệt của Nguyễn Bính ra khỏi quỹ đạo ngâm khúc và truyện nôm, hai yếu tố chính cấu thành thơ Nguyễn Bính :
Gió lạnh, nghe chừng đêm thấy sâu
Mà con đò mộng đã sang đâu !
Qua song, một chuyến tàu đêm chạy
Một chuyến tàu đêm chảy rất mau
Những ánh đèn phai tựa nắng tà
Toa này toa khác nối liền toa
Chập chờn như một con giời lớn
Như một oan hồn hiển hiện ra
Tàu chạy hình như để chở buồn
Chở người đi nhớ kẻ về thương
Nâng bao nhiêu gót chân xinh đẹp
Tàu chạy đêm nay có lạc đường
...
Tàu biết bây giờ chạy đến đâu ?
Đêm sâu hoàn trả lại đêm sâu
Bỏ đây một chiếc tàu kiêng đỗ
Chở một toa tim nặng oán sầu
Bài thơ tả một chuyến tàu đi trong mơ, đi trong tâm linh, trong cô đơn hoang lạnh và không dừng lại ở ga hồn người chờ đợi. Tính chất siêu thực không đến từ một thủ pháp ẩn dụ như những nhà thơ khác vẫn làm, mà đến từ những chữ rất bình thường như «tàu đêm» «chảy», « chập chờn như một con giời lớn ». Sự lộng lẫy ma quái của « con giời » ẩn chứa tất cả các thể lỏng, thể đặc, sự thay đổi hình hài, biến thiên màu sắc, tạo ra cái ghê rợm trầm uất của một con tàu ma « chở một toa tim nặng oán sầu ».
Nỗi đau nơi Nguyễn Bính đã nhập vào ngũ tạng nó không phải là nỗi đau lãng mạn, mà đã trở thành nỗi đau nội tâm và ý thức. Rồi bài Quán lạnh vẫn tác giả là cậu thanh niên hai mươi tuổi ấy dẫn chúng ta đến một hội ngộ bất ngờ khác :
Mùa thu đến chậm như chưa đến
Lá vội rơi theo gió vội vàng
Sương đã dâng lên, chiều lắng xuống
Bến đò đã tắt chuyến sang ngang
Đem theo cát bụi đường xa lại
Tráng sĩ dừng chân khẽ thở dài
Hơi lạnh đầm đià trong quán lạnh
Người ta đóng giở chiếc quan tài (Quán lạnh)
Trên cuộc đời không nguôi lữ thứ, quán là nhà, lạnh là bạn.
Nhà thơ tráng sĩ hạnh ngộ với chiếc quan tài, với nỗi chết giữa đường.
Nguyễn Bính nhỏ lệ khô bằng những gieo âm bất ngờ “Mùa thu đến chậm như chưa đến”. Tại sao lại “như” ở đây ? Ở chỗ không ngờ nhất ? Rồi đến “lá vội rơi theo gió vội vàng”. Lại nữa, hai lần vội, lá vội và gió vội. Tiếp theo là “Hơi lạnh đầm đìa trong quán lạnh”, lại thêm hai lần lạnh. Tất cả những bất ngờ, không chờ, không đợi ấy, dội lên không gian hoang vắng của “bến đò đã tắt chuyến sang ngang” để dẫn đến bất ngờ cuối cùng là nỗi chết : “người ta đóng giở chiếc quan tài”.
Những buồn, lạnh, vội, tạm, gặp nhau trong cái quán này. Quán của niềm đau và nỗi chết. Thi sĩ như cái quan tài phiêu lưu, lang bạt, nay chỗ này mai chỗ khác, một cái chết lưu vong, cái chết lữ thú, cái chết lạc loài, không chỗ đỗ :
Sáng mai xuôi ngược về đâu nhỉ
Nào biết về đâu kẻ ngược xuôi (Ngược xuôi)
Nguyễn Bính, đời và thơ bạc mệnh
Những mối tình tha thiết nhất trong tâm hồn, Nguyễn Bính thường dành cho những người đàn bà không quen. Mối cảm thông của Nguyễn Bính với những người phụ nữ mệnh yểu, bị tình phụ, ngoài tâm sự của chính mình, còn là sự giao cảm của nhà thơ với định mệnh, với cái chết, tương tự như mối
Nguyễn Bính xuất hiện lần đầu trên văn đàn năm 1936 với bài Mưa xuân. Trong Mưa xuân, đã thấy xuất hiện hai yếu tố chính trong thơ Nguyễn Bính : thơ ngâm và thơ thoại, nhờ hai yếu tố này mà thơ Nguyễn Bính sớm đi vào lòng người. Bài Mưa xuân, kể chuyện một cô gái quê đợi gánh hát chèo về làng hát trong dịp tết, để gặp người yêu.
Thời ấy, làm thơ về cảnh sống thôn quê là thường, hầu như nhà thơ nào cũng viết dăm ba “bức tranh quê”, nhiều bài trở thành bài học thuộc lòng cho học sinh tiểu học như thơ của Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, Tế Hanh, Bàng Bá Lân... , những câu dễ đọc, dễ nhớ :
Chiều hôm đón mát cổng làng
Gió hiu hiu thổi mây vàng êm trôi (Bàng Bá Lân)
Thơ Nguyễn Bính cũng dễ đọc, dễ hiểu, nhưng không thể trở thành bài học thuộc lòng cho trẻ nhỏ, bởi nó còn có tình, nó đi ra ngoài quỹ đạo hồn nhiên của những bức tranh quê cùng thời. Dù với giọng vui, thơ Nguyễn Bính luôn luôn chở cái bi đát của số phận. Tính chất bi đát trong thơ Nguyễn Bính, gắn bó với hai chữ bạc mệnh, tiềm ẩn ngay trong những câu thơ tưởng như vô tư nhất, trong bài Mưa xuân:
Em là con gái trong khung cửi
Dệt lụa quanh năm với mẹ già
Lòng trẻ còn như cây lụa trắng
Mẹ già chưa bán chợ làng xa (Mưa xuân)
Đây là lời người con gái tự giới thiệu mình: nàng ví nàng như cây lụa trắng mà mẹ chưa đem bán. Nếu nói thơ Nguyễn Bính có chất ca dao, thì quyết không phải là ở những yếu tố ngoài da như thôn Đông, thôn Đoài; mà ở đây, gói trọn trong câu “mẹ già chưa bán chợ đàng xa” đã có chất ca dao (thân em như tấm lụa đào, nắng mưa giữa chợ biết vào tay ai) và nhờ chữ bán, nó còn có chất Nguyễn Du (rẽ ra cho thiếp bán mình chuộc cha) nữa.
Vậy ngay trong những câu thơ “khai bút”, ở tuổi 18, Nguyễn Bính đã nhìn thấy số phận bán mình của người phụ nữ, có thể coi như ảnh hưởng Kiều và ca dao giao thoa, trong tư tưởng. Người con gái quê trong bài thơ Mưa xuân ấy, rất mới, nàng đợi người tình trong đêm hát, lòng say đắm:
Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm
Em mải tìm anh chả thiết xem
Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh
Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em (Mưa xuân)
Hai câu tuyệt bút: Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh / Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em chứng minh một ngòi bút thiên tài vừa chớm nở.
Nhưng gã trai lỗi hẹn:
Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay
Hoa xoan đã nát dưới chân giày
Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ
Mẹ bảo:“Mùa xuân đã cạn ngày” (Mưa xuân)
Người tình không đến, hội làng đã hết, mưa xuân đã ngại bay, và hoa xoan đã nát dưới chân giày, một câu thơ tuyệt vời nữa. Tất cả chấm dứt bằng lời mẹ “xuân đã cạn ngày” như một tàn lụi : xuân đã chết. Thơ xuân của Nguyễn Bính, ngay trong buổi đầu đời, đã gắn bó với bất hạnh, đớn đau, tuyệt vọng, tàn lụi. Sự bạc bẽo của người tình, ngay trong mùa xuân, trở thành vết thương trong thi ca Nguyễn Bính :
Nhưng rồi người khách tình, xuân ấy
Đi biệt không về với... bến sông
Đã mấy lần xuân trôi chảy mãi
Mấy lần cô gái mỏi mòn trông (Cô lái đò)
Đó chính là cái khác biệt sâu xa giữa thơ “quê mùa” của Nguyễn Bính với những “bức tranh quê” cùng thời: tranh của các nhà thơ khác chỉ là những bức tả cảnh, vui tươi, nhộn nhịp cảnh chợ, cảnh làng, cho học trò học. Nguyễn Bính lấy cảnh quê làm nền, để nói lên cái bi kịch của con người khuất sau, luôn luôn là bi kịch của người phụ nữ bị bỏ rơi, bị phản bội, bi kịch của người bạc mệnh. Nếu chiếu vào thân phận Nguyễn Bính, thì người bạc mệnh ấy chính là Nguyễn Bính.
*
Ra đời được ba tháng thì mẹ mất, không được học trường, học ở nhà với cha và cậu. 13 tuổi làm thơ. 15 tuổi lang thang lên Hà Nội “lập thân”, làm nghề bán báo. 18 tuổi (1936) có thơ đăng báo. 19 tuổi (1937) được giải thưởng Tự Lực Văn Đoàn. 20 tuổi (1938) trở thành một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất thời ấy... Nhưng chìm trong Nguyễn Bính, vẫn có một mặc cảm sâu xa về bản thân, không mẹ, không được học “đến nơi đên chốn”:
Còn tôi sống sót là may
Mẹ hiền mất sớm giời đầy làm thơ (Nhà tôi).
Và cái mặc cảm ấy, người đời đã “dạy” cho Nguyễn Bính. Dạy bằng nhiều cách. Dạy suốt cuộc đời.
Nữ sĩ Mộng Tuyết kể lại khi Nguyễn Bính đến tá túc nhà ông bà ở Hà Tiên (tuy bà viết là năm 1944, nhưng có lẽ đây là năm 41 hoặc 42) : “Người khách thâm thấp. Phong trần hiện trên mớ tóc đen rậm, rối bồng, dài tới mang tai. Bộ âu phục cũ nhầu nát làm cho người tăng thêm phần tiều tụy (...) Trong khi nghe anh Đông Hồ và tôi bàn chuyện Tam Quốc Chí, Bính không góp chuyện được, vì Bính chưa từng đọc Tam Quốc bao giờ. Bính thấy xấu hổ, cũng như đã xấu hổ vì chưa biết đi xe đạp. Càng xấu hổ, khi thấy tôi và Đông Hồ tỏ vẻ ngạc nhiên vì sao mà Nguyễn Bính lại có thể chưa đọc Tam Quốc Chí. Thế rồi, Bính về tìm trong Vạn Vạn Quyển Lầu, đọc ngấu nghiến, suốt mấy đêm liền, hết bộ truyện” (trích Để nhớ Nguyễn Bính những ngày ghé bến Hà Tiên, Văn số 60, ra ngày 15/6/66 tại Sài Gòn, trang 52 và 55).
Nữ sĩ Anh Thơ, ghi lại trong hồi ký, mối tình của bà với B, “người trong mộng, người lý tưởng, người tôi yêu bằng cả trái tim thơ tha thiết”, hai người đã “tha thiết yêu nhau” qua thư từ. Và bà kể lại về lần gặp mặt : “Tôi nhớ lại cảnh Kim Trọng “lỏng buông tay khấu, bước lần dặm băng” gặp Thuý Kiều. Chàng là một thi sĩ thủ đô, hẳn là hết sức trang nhã, biết mọi kiểu cách lịch sự để quý yêu tôi... Bỗng từ quán nước đầu cầu sông Thương, một anh chàng thân hình lùn ngắn, cái đầu hơi to, sù lên những tóc, tay vất vội chiếc điếu cày đang hút dở, xông lại trước mắt tôi, nhe hai hàm răng đen cáu nhựa thuốc, cười sát mặt tôi...” (Từ bến sông Thương, nxb Văn học 1986, trang 101). Rồi bà giải thích sự tan vỡ này bằng cử chỉ sàm sỡ của Nguyễn Bính “một cái hôn bất ngờ chộp lên má tôi”, khiến bà phải “thất thanh” gọi anh bà, bà là “con nhà nề nếp” thì “không thể nào yêu được B, nên B luôn luôn bị thất vọng, từ cô này tới cô khác, và phải tìm quên ở tiệm hút, lầu xanh” (sđd, trang 103).
Đấy là nhận xét của hai nữ sĩ. Đến nhà phê bình Hoài Thanh và nhà thơ Xuân Diệu, thì sự phê chuẩn có tính chất khác hẳn.
Bài Chân quê của Nguyễn Bính có câu : Hôm qua cô đi tỉnh về /Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều, để trách người con gái quê ra tỉnh học đòi theo mốt thị thành. Nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại vận hai câu thơ đó vào thân Nguyễn Bính để khen mà trách Nguyễn Bính nhà quê, nhưng hình như có hơi ngụ ý thiếu học nữa. Hoài Thanh thích thơ Xuân Diệu. Xuân Diệu là nhà thơ “có học”, lại tỉnh thành, có những câu thơ rất Tây, y như dịch từ tiếng Pháp : Yêu là chết ở trong lòng một ít, hay Yêu tha thiết thế vẫn còn chưa đủ, hoặc : Hãy sát đôi đầu ! Hãy kề đôi ngực ! Đặc biệt câu Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi được nhiều người ưa chuộng, Anh Thơ thuộc lòng. Nhưng chắc chắn là nhờ nhà phê bình Hoài Thanh hết lời ca ngợi như một hồn thơ “say đắm tình yêu” mà Xuân Diệu trở thành nhà thơ số một của tình yêu.
Thật ra, thơ tình của Xuân Diệu hời hợt, vì ông là người đồng tính, không thể yêu con gái. André Gide đã viết được những trang về tình trai, kín đáo, tế nhị, thơ mộng và đớn đau làm rung động trái tim bao nhiêu người đọc nam cũng như nữ trên trái đất. Nhưng xã hội Pháp không giống xã hội Việt Nam, Xuân Diệu dù có muốn cũng không thể viết về tình trai được. Ông chỉ có một thơ bài tên là “Tình trai” với câu “Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine” không có gì đặc biệt. Thơ Xuân Diệu hay ở chỗ khác : tình trai của ông đã hoá thân trong mối Giao cảm mà Baudelaire gọi là Correspondance giữa cỏ cây, hoa lá, đất trời. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này khi viết về Xuân Diệu.
Dĩ nhiên Hoài Thanh có quyền sai lầm về Xuân Diệu và Nguyễn Bính, nhưng cái đáng trách là sau này, người ta cứ sao chép lại cái sai lầm của Hoài Thanh, trong hầu hết những bài nhận định và phê bình văn học. Về Xuân Diệu, điều đáng ngại nhất, là trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, ông đã thực sự trở thành bồi bút, viết bài mạ lỵ Lê Đạt, tố cáo Văn Cao và riêng đối với Nguyễn Bính rất tàn tệ.
Lại Nguyên Ân, trong bài nghiên cứu mới, tựa đề:“Xuân Diệu trong những năm 1954-58”, cho biết: “Tác phẩm mới (1969-1976) mà Xuân Diệu là một trong số vài ba nhân vật chủ chốt cầm lái, đã hầu như không nhắc gì đến Nguyễn Bính, đã làm như không hề có Nguyễn Bính trong nền thơ Việt thế kỷ XX (...) Phải nhờ có dư luận văn nghệ miền Nam nhắc nhở, tên tuổi Nguyễn Bính mới được sống lại với công chúng miền Bắc từ 1986”.
*
Người ta chỉ yêu thơ Nguyễn Bính, yêu sự nổi tiếng của thi nhân, nhưng khi gặp mặt, người ta vỡ mộng, người ta chê nhếch nhác quá, người ta chờ đợi một tao nhân mặc khách Hà thành. Không ai lấy một nhà thơ lang bạt, chẳng có nghề ngỗng gì nuôi thân :
Không ai chôn cất hộ lòng tôi
Mối lái cho tôi lấy một người (Vườn hoang)
Tất cả phũ phàng của những “người yêu”, mà thư tình đầy ắp những hộp bích quy, như Tô Hoài thuật lại, dẫn đến điều lạ lùng và cũng dễ hiểu là những mối tình tha thiết nhất trong tâm hồn, Nguyễn Bính thường dành cho những người đàn bà không quen : Người hàng xóm, Cô lái đò, Cô hái mơ, Dòng dư lệ, Viếng hồn trinh nữ... tất cả đều không quen, vậy mà “bao nhiêu đau khổ của trần gian trời đã dành riêng để tặng nàng” Nguyễn Bính đều biết cả.
Mối cảm thông của Nguyễn Bính với những người phụ nữ mệnh yểu, bị tình phụ, ngoài tâm sự của chính mình, còn là sự giao cảm của nhà thơ với định mệnh, với cái chết, tương tự như mối linh cảm giữa Kiều và Đạm Tiên. Sự cảm thông tình yêu qua cái chết, giải thích mối linh ứng diệu kỳ giữa những người không quen ấy:
Nàng đã qua đời để tối nay
Có chàng đi hứng gió heo may
Bên hồ để mặc mưa rơi ướt
Đếm mãi bâng quơ những dấu giày...
Người ấy hình như có biết nàng
Có lần toan tính chuyện sang ngang
Nhưng hồn nàng tựa con thuyền bé
Đã cắm nghìn thu ở suối vàng
Có gì vừa mất ở đâu đây ?
Lòng thấy mềm như rượu quá say
Hoảng hốt chàng tìm trong bóng tối :
Bàn tay lại nắm phải bàn tay
....
Tôi với nàng đây không biết nhau,
Mà tôi thương tiếc bởi vì đâu ?
Mỹ nhân tự cổ như danh tướng
Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu. (Viếng hồn trinh nữ)
Nhưng còn có một yếu tố khác, đã khiến thơ Nguyễn Bính rung động lòng người trong nhiều thế hệ, đó là âm điệu. Bất cứ người Việt nào xa nước đã lâu mà không được trở về, tình cờ nghe thấy đâu đó một âm giai ngũ cung, trong lòng không khỏi gợn lên chút gì như tiếng sóng. Và những tiếng ru, tiếng ngâm, thường cũng gợi trong lòng họ những tiếng sóng ngầm. Thơ Nguyễn Bính, là một thứ âm thanh có thể gây ra trong lòng người Việt những tiếng sóng ngầm như thế :
Gió đưa xác lá về đường,
Thu sang nhuộm cả sầu thương một trời
Sầu thương quyện lấy hồn tôi
Đêm qua ngồi đọc thơ người xa xăm
Một nghìn năm, một vạn năm,
Con tằm vẫn kiếp con tằm vương tơ
Tặng người gọi một giòng thơ,
Hay là giòng nước mắt thừa đêm qua. (Dòng dư lệ)
Bởi âm nhạc trong thơ ông là một thứ âm nhạc quen thuộc, của lục bát, có giọng đều đều của tiếng ru ạ ời, lại có tiếng định mệnh của Kiều và tiếng than của người chinh phụ. Tiếng thơ Nguyễn Bính là hợp âm của nhiều thứ “tiếng” ấy, nó là một thứ âm giai ngũ cung trong lòng người Việt.
Bởi thế, khi Nguyễn Bính xướng lên tình yêu giữa những người không quen biết ấy, tưởng như cái gì không thực, nhưng nó lại có thể làm tan nát lòng người. Bởi người ta không yêu Nguyễn Bính trong đời thực. Trong đời thực chỉ có sự giả dối và phản bội. Và Nguyễn Bính đã phải tạo ra đời mộng để yêu và được yêu. Những người không quen biết nhau ấy đã gặp nhau trong mộng. Họ là những giấc mơ bạc mệnh của nhau. Họ sống mơ nhưng yêu thật, yêu cái mệnh bạc, cái ngắn ngủi của giấc mơ, hiện thân sự cô đơn của chính mình. Phần hồn của kẻ cô đơn, tự chẻ đôi chẻ ba ra cho có bạn và mỗi nửa riêng lẻ, mỗi phần xẻ ra ấy, tự cảm thấy không còn cô đơn:
Những một mình em uống rượu hồng (Xuân tha hương)
Hoặc:
Chân bước hững hờ theo bóng lẻ
Một mình làm cả cuộc phân ly (Những người trên sân ga)
Những câu thơ lạc ra ngoài sự cô đơn thông thường của nhân thế, bởi cái tôi nơi đây đã tự chẻ đôi chẻ ba ra, để tự lũy thừa mình, tạo một cuộc sống tâm linh mới lạ rất đơn đau và ngoạn mục mà dường như chỉ Nguyễn Bính nắm bắt được nghệ thuật biệt cách ấy : nghệ thuật tạo sầu Nguyễn Bính. Nghệ thuật tạo sầu của nhà thơ dựa trên tính chất bạc mệnh, yểu số của những giấc mơ, không chỉ nằm trong những bài thơ có chủ đề trực tiếp như Viếng hồn trinh nữ, Dòng dư lệ... mà còn bàng bạc ở cả những bài thơ vui như Cô hái mơ:
Thơ thẩn đường chiều một khách thơ
Say nhìn xa rặng núi xanh lơ
Khí trời lặng lẽ và trong trẻo
Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ
Hỡi cô con gái hái mơ già
Cô chửa về ư? Đường còn xa
Mà ánh trời hôm dần một tắt
Hay cô ở lại về cùng ta?
Nhà ta ở dưới gốc cây dương
Cách động Hương Sơn nửa dặm đường
Có suối nước trong tuôn róc rách
Có hoa bên suối ngát đưa hương
Cô hái mơ ơi!
Chẳng trả lời nhau lấy một lời
Cứ lặng rồi đi, rồi khuất bóng
Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi (Cô hái mơ)
Cả bài thơ là một giấc mơ, từ “ta” đến cô hái mơ, đến rừng mơ... may ra chỉ hai chữ Hương Sơn là thật. Một giấc mơ khi lên chơi động Hương Sơn. Cô hái mơ là một trong những bài thơ đầu tiên của Nguyễn Bính. Phạm Duy khi chọn bài thơ để phổ nhạc bài ca đầu tiên của đời mình đã có con mắt tinh đời : người nhạc sĩ trẻ tuổi ấy đã nhìn thấy ở Cô hái mơ, không chỉ là một thực thể hữu hình, mà nàng còn là hiện thân của giấc mơ, hiện thân của sự sáng tạo, Cô hái mơ khai phóng những giấc mơ bạc mệnh của thi nhân, của nghệ sĩ.
Hết rủ rê lơi lả “hay cô ở lại về cùng ta”, lại đến tiếng gọi khẩn khoản tha thiết: “Cô hái mơ ơi!”, nàng cũng chẳng thèm trả lời, nàng “cứ lặng rồi đi, rồi khuất bóng”, một cách rất liêu trai, huyền mộng, bởi tất cả chỉ là cuộc độc thoại của nhà thơ với chính mình. Trong rừng mơ có ai đâu, ngoài kẻ có khả năng chẻ mình làm hai để thoát khỏi cô đơn, để tạo thêm một đời sống nội tâm khác, ngoài mình, lũy thừa một mơ thành rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi !
Nghệ thuật tạo sầu của Nguyễn Bính phát xuất từ khả năng luỹ thừa vô cùng biến ảo và liêu trai ấy, từ cách vạn hoá tâm hồn ấy, Nguyễn Bính có những câu thơ tuyệt vời :
Hồn anh như hoa cỏ may.
Một chiều cả gió bám đầy áo em (Hoa cỏ may)
Hoặc ngược lại, nhà thơ có thể hội tụ vạn tâm hồn trong một :
Cả kinh thành có những ai ?
Cả kinh thành có một người mắt nhung (Mắt nhung)
Nguyễn Bính dường như đã nắm trọn bí quyết làm xiêu đổ lòng người qua nghệ thuật phân kỳ và hội tụ cảm xúc và tâm linh.
*
Cô hàng xóm, đối với chúng ta, là hình ảnh gần gụi, thân quen. Nguyễn Bính có cô hàng xóm ấy thân quen ấy trong bài Xuân về :
Bên hiên hàng xóm, cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn trời, đôi mắt trong
Nhưng nhà thơ còn có Người hàng xóm, một đối tượng khác. Rất khác. Bởi người khác cô. Người là người lạ, không quen. Ở cái quan hệ không quen không biết gì về nhau ấy, Nguyễn Bính đã viết nên bài thơ, có lẽ là một trong những bài thơ tình đẹp nhất của thế hệ ông. Đây là một bài thơ liên hoàn, không thể đọc câu trên mà không đọc tiếp câu dưới, lời lẽ hoàn toàn là ngôn ngữ hàng ngày nhưng keo sơn gắn bó với nhau như một hơi nhạc, một âm giai ngũ cung bám vào hồn người Việt:
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn
Hai người sống giữa cô đơn
Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi
Giá đừng có dậu mùng tơi
Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng
Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng
Có con bướm trắng thường sang bên này ...
Bướm ơi, bướm hãy vào đây
Cho tôi hỏi nhỏ câu này chút thôi
Chả bao giờ thấy nàng cười
Nàng hong tơ ướt ra ngoài mái hiên
Mắt nàng đăm đắm trông lên
Con bươm bướm trắng về bên ấy rồi
Bỗng dưng tôi thấy bồi hồi
Tôi buồn tự hỏi : hay tôi yêu nàng ?
Không, từ ân ái nhỡ nhàng.
Tình tôi than lạnh tro tàn làm sao !
Tơ hong nàng chả cất vào
Con bươm bướm trắng hôm nào cũng sang.
Mấy hôm nay chẳng thấy nàng
Giá tôi cũng có tơ vàng mà hong
Cái gì như thể nhớ mong?
Nhớ nàng ? Không, quyết là không nhớ nàng !
Vâng, từ ân ái nhỡ nhàng
Lòng tôi riêng nhớ bạn vàng ngày xưa
Tầm tầm giời cứ đổ mưa
Hết hôm nay nữa là vừa bốn hôm !
Cô đơn buồn lại thêm buồn
Tạnh mưa bươm bướm biết còn sang chơi ?
Hôm nay mưa đã tạnh rồi
Tơ không hong nữa, bướm lười không sang
Bên hiên vẫn vắng bóng nàng
Rưng rưng tôi gục xuống bàn... rưng rưng...
Nhớ con bướm trắng lạ lùng
Nhớ tơ vàng nữa, nhưng không nhớ nàng
Hỡi ơi bướm trắng tơ vàng
Mau về mà chịu tang nàng đi thôi
Đêm qua nàng đã chết rồi
Nghẹn ngào tôi khóc, quả tôi yêu nàng
Hồn trinh còn ở trần gian
Nhập vào bướm trắng mà sang bên này
Bài thơ gói trọn tâm hồn và phong cách Nguyễn Bính : lung linh giữa mơ và thực. Người hàng xóm, nàng là mẫu người mệnh yểu, nàng có thật hay chỉ là giấc mơ nghệ sĩ, là sự chẻ đôi của tâm hồn? Là độc thoại của tình yêu, nàng là thơ thoại : nàng mang không gian và thời gian Nguyễn Bính, phản ảnh những cuộc tình chết yểu, những cuộc tình chưa ngỏ, chưa dám ngỏ, những cuộc tình bướm trắng trong mơ, những bất hạnh khổ đau trên con đường tìm hạnh phúc. Nàng giao liên giữa sự sống và cái chết trong nỗi hoá kiếp Trang Chu, nàng là mối hoài nghi : nhớ thương-thương nhớ ? Nàng là sự phủ định lòng mình, là sự nói dối thành thật và thiêng liêng nhất của con người trước tình yêu và cái chết.
BÙI GIÁNG BÌNH THƠ QUANG DŨNG
Mai chị về em gửi gì không
Mai chị về nhớ má em hồng
Mai chị về nhớ má em hồng
Chỉ hai câu đầu đã khiến người tê lạnh. Không có gì cả, không lời nào tha thiết, nhưng đúng như ông Huy Trân nói: “Thơ Quang Dũng ý đã nhiệt thành, cao đẹp, mà lời thơ lại êm ái gợi cảm vô cùng. Nói về thơ nhẹ nhàng, êm dịu, mà đọc tới đâu lâng lâng chết cả lòng đến đấy, thì thi ca hiện đại chỉ có Quang Dũng.”
Thi ca hiện đại hay thi ca ngàn đời, thi ca Việt Nam hay thi ca thế giới – vâng – cũng chỉ riêng một Quang Dũng thôi.
Mai chị về em gửi gì không
Mai chị về nhớ má em hồng
Đường đi không gió lòng sao lạnh
Bụi vướng ngang đầu mong nhớ mong
Mai chị về nhớ má em hồng
Đường đi không gió lòng sao lạnh
Bụi vướng ngang đầu mong nhớ mong
Đó là chỗ sơn cùng thủy tận của ngôn ngữ. Ngôn ngữ thần tiên hiển hiện tinh thể một cách không thấy hình hài máu me đâu cả. Người ta đã bao đời đi tìm cõi huyền nhiệm của ngôn ngữ thơ. Mỗi phen trở về, mỗi phen như bó tay lắc đầu, tuyệt nhiên không biết ăn nói ra sao cả. Đành chỉ nói quanh co.
Và biết bao thy sỹ hoằng viễn đã nghĩ rằng, nguyệt rằng, mình sẽ suốt đời không làm một vần thơ nào cả - một phen để hội cái chỗ dị thường trống trải vắng vẻ trong lời man mác thiên tiên kia.
Lại có những nhà tư tưởng như Heidegger, viết bao pho sách lịch kịch nêu bao câu chất vấn u ẩn, đáo cùng vẫn chỉ nhằm mục đích nhiếp dẫn tư tưởng tới chỗ mép bờ bất khả tư nghị của thi ca.
Nerval sau những lần thành tựu cõi miền ngôn ngữ đó, ông bèn lao mình vào cõi ẩn mật vô ngần của một nguồn siêu thực không tiếng không lời Les Chimères.
Apollinaire, sau phút dị thường bước lên tột đỉnh đạm nhiên kia, lập thời nhảy lùi làm thơ theo thể thái bông lông tầm phào, bất sá lam hồng tố bạch.
Mai chị về em gửi gì không?
Câu hỏi cũng lững lờ như lời đáp cũng lửng lơ. Hỏi mà cũng không hỏi, không nói, không ngó, không nhìn nhau…
Và chỉ sau khi lên ngựa, chia bào, con người mới để lòng mình bay tỏa khắp đường đi.
Đường đi không gió lòng sao lạnh
Bụi vướng ngang đầu mong nhớ mong
Bụi vướng ngang đầu mong nhớ mong
Tâm sự của người đi, nhưng nhan đề là kẻ ở. Kẻ ở hay người đi cũng một tâm tình ly biệt. Đi giữa không gian, thì cũng như đứng ở trên dâu biển. Lòng sao lạnh? Vì lòng mang chứa tất cả khoảng vắng lạnh? Vì lòng mang chứa tất cả khoảng vắng lạnh không gian… Và tiếng “mong nhớ mong” kia cũng chỉ vọng vào được trong không gian xa hút mà thôi.
Nghĩa là vọng trở lại vào lòng mình. Từ lòng mình toả vào lòng vũ trụ. Lại từ lòng vũ trụ dội lại lòng mình. Đó là cái vòng kỳ ảo của mong nhớ mong. Và mong nhớ mong mênh mông như thế, thì mong nhớ mong là cõi của từ bi tế độ vậy.
Bởi vì nó mang hải lượng bao hàm. Nó bao dong rừng biển, sớm chiều, canh gà, sương hoa, cành hoang ngựa lạc. Nó đem thương mến phủ khắp hình hài vạn vật từ gần gũi tới xa tít dặm xa.
Quê chị về xa tít dặm xa
Vì đó là một quê hương nào riêng biệt nằm tại một bến bờ bỉ ngạn nào vô tức vô thanh, vô biên vô tế.
Quê chị về xa tít dặm xa
Rừng thu chiều xao xác canh gà
Hoa rơi khắp lối sương muôn ngả
Ngựa lạc cành hoang qua lướt qua
Rừng thu chiều xao xác canh gà
Hoa rơi khắp lối sương muôn ngả
Ngựa lạc cành hoang qua lướt qua
Ngựa lạc? Dẫu ngựa không lạc đường vẫn cứ là lạc nẻo. Nghĩa là: ở trong cõi hư không bao la như thế, thì đâu cũng là lênh đênh, nhưng lênh đênh theo nghĩa vô ngần: trụ vô sở trụ.
Người ngồi trên ngựa cũng lạc ngựa luôn. Hươu trong rừng cùng một cảnh ngộ lạc loài như nhau, lại tam trùng lạc lõng nhau, vì bất ngờ sợ hãi nhau, quay đầu bỏ chạy. Lời thơ lại thêm một chút niêm hoa vi tiếu “theo ngó theo”.
Ngựa chị dừng bên thác trong veo
Nếu thác đục lầy cho một chút, ắt có phần gần gũi bụi hồng hơn. Nhưng tại sao thác lại trong veo cắc cớ ra như thế? Thì trần gian còn biết đem tâm sự hồng trần ký thác vào đâu? Đó là chỗ đạm nhiên huyền bí lô hỏa thuần thanh vậy. Nó đốt cháy linh hồn bằng một tiếng trong veo. Nhưng đốt cháy mà đâu có bỏng da bỏng thịt. Nó cháy để thăng hoa cho linh hồn về ba la mật, sau một phút linh hồn tạm dừng trong một phen tư lự. Vì dù sao trận giũ áo cũng còn vướng víu với nhân nghĩa nhân tình.
Ngựa chị dừng bên thác trong veo
Lòng chị buồn khi nắng qua đèo
Nơi đây lá giạt vương chân ngựa
Hưu chạy quay đầu theo ngó theo
Lòng chị buồn khi nắng qua đèo
Nơi đây lá giạt vương chân ngựa
Hưu chạy quay đầu theo ngó theo
Rừng đêm nhòa bóng nhớ hoang mang
Ngựa chị dừng bên thác sao vàng
Sao rơi đáy nước vương chưn ngựa
Buồn dâng đôi mi hàng lại hàng
Ngựa chị dừng bên thác sao vàng
Sao rơi đáy nước vương chưn ngựa
Buồn dâng đôi mi hàng lại hàng
Ta lại gián tiếp với một sự tình kỳ dị. Nói ra là buồn dưng đôi mi hàng lại hàng, nhưng có bao giờ mối sâu mênh mông và hầu như vô đối tượng lại tràn ra thành hàng lệ. Nhưng đây là hàng lệ riêng biệt của hư không đi về vui chơi êm đềm với không hư thái thiên nhiên tĩnh tịch. Người ta có thể khóc, nhưng không phải khóc vì một mối đoạn trường riêng tây trong một cảnh ngộ nhất định.
Hoặc đâu có phải bạ đâu khóc đó như bọn thy sỹ trung niên. Người ta khóc từ chín kiếp khóc về; như trận mưa vốn từ thiên thu rớt hột. Vì thế nên gọi là hàng lại hàng. Vì thế nên có chuyện sao rơi đáy nước. Vì thế nên có chuyện sao vương chưn ngựa. Chưn ngựa ở đây cũng mang đủ trùng quan thời gian vũ trụ nên mới có thể chạm vào bóng sao rơi từ thời gian tinh thể rớt về. Người và ngựa và sao và nước bỗng nhiên như nhiên đã đi vào cõi chung vạn vật nhất thể. Thì từ đó trở lại với đoạn đầu, từ câu hỏi mông lung tới lời đáp nhẹ nhõm, niềm mong nhớ mong là một tặng vật không lời, không nhất định là riêng biệt của riêng ai trao gửi lại cho ai. Người chị và người em kia cũng không có tên tuổi nào được hạn định nơi đâu. Đó là hai đứa con của trời và đất đẻ ra trong một mùa xuân hôn phối. Thì mai chị về em gửi gì không, là gửi cho chị hay cho ai? làm sao ta dám quyết định? Chỉ biết rằng: chị hãy nhớ má em hồng. Nghĩa là: mùa xuân xanh còn tồn lưu mãi mãi trong mùa thu ly biệt. Đó là tặng vật của em trời trao chị đất – nhớ má em hồng là ký ức kỳ ảo Mnémesyne.
Chẳng hiểu sao đọc thơ Quang Dũng, Nguyễn Du, Hồ Dzếnh, Huy Cận, tôi thường nghĩ tới người Chiêm Thành. Tội lỗi ông cha chúng ta đối với dân tộc ấy kể cũng được chuộc phần nào, cũng như ngày xưa Homère đã giải oan cho người Troyens bị đắm chìm bởi người Hy Lạp.
Mấy bài thơ của Quang Dũng như giữ lại cho mọi người một niềm tương ứng mênh mông trong thời đại ngỗn ngang oan nghiệt, thế giới cùng xô ùa nhau vào hủy diệt, tàn phá, trong những trận tẩu hỏa nhập ma. Chiến tranh trong thời Quang Dũng dù sao cũng còn để lại cho người một dư địa để hoài niệm nhớ thương nhau. Nhưng dần dà, chút tình thương còn sót cũng mất đi giữa hỗn độn. Lúc bấy giờ e chỉ còn cửa quỷ đối thoại với nhà ma. Quang Dũng cũng linh cảm sự đó, nên bài “Đôi Mắt Người Sơn Tây” khép lại với mấy tiếng “bao giờ, bao giờ” ngậm ngùi khôn tả:
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn?
Về núi Sài Sơn ngóng lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng
Về núi Sài Sơn ngóng lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng
Bao giờ ta gặp em lần nữa
Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa
Đã hết sắc màu chinh chiến cũ
Còn có bao giờ em nhớ ta
Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa
Đã hết sắc màu chinh chiến cũ
Còn có bao giờ em nhớ ta
Khoảng trống lại trở về ngập khắp mép bờ ngôn ngữ. Như muốn đánh chìm hết mọi lời thân thiết đã thốt ra. Chúng ta không còn biết phải giải thích thơ Quang Dũng ra sao được nữa cả.
Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa
Nhưng có lẽ ông không tin ở ngày ấy, ông không nghĩ rằng ngày nở hoa ấy sẽ về. Còn có bao giờ em nhớ ta? Nghĩa là không còn có bao giờ nữa cả? Chúng ta sẽ tiếp tục chết hết. Người ta sẽ tiếp tục giết nhau cho tới buổi chung cục thời gian. Cuộc chiến tranh ngày nay không còn chút gì giống như chiến tranh những thời đại trước. Có những cuộc chiến tranh huy hoàng như một trận mưa rào rực rỡ, làm hồi sinh con người trong tâm thức từ bi. Nhưng có những cuộc chiến tranh vốn từ trong tinh thể là làm tan rã tiêu diệt mất bản tính con người. Ngay cả con ngợm, con đười ươi cũng không còn sống sót một mống nào hết cả. Thì như thế? Còn có bao giờ em nhớ ta?
Người ta nhầm lẫn một cách kỳ quặc cái ý nghĩa sơ thủy của chiến tranh. Cuộc chiến tranh bao dong của những ông Nguyễn Huệ, chiến tranh bác ái của những ông Napoléon, chiến tranh đó không còn tự nhận diện ra mình nữa trong cuộc chiến tranh tàn phá ngày nay. Tolstoi ngày xưa chẳng hiểu gì về Napoléon hết cả, cũng như chúng ta ngày nay chẳng hiều gì cả về cuộc chiến tranh của chúng ta. Thật là cắc cớ. Còn có một chân lý dị thường ẩn tàng trong Dịch Kinh của Khổng Tử đang khiến mọi người tư tưởng ngậm ngùi không còn biết phải thốt bất cứ một lời gi trong hiện trạng năm châu. Bài thơ Quang Dũng hiện ra tại chỗ chênh vênh bát ngát và thê thảm nhất trong sử lịch con người. Nó chỉ đạm nhiên và thống thiết khơi rộng những khoảng trống vắng ra để cho mọi vấn đề được nhận định và tự tìm lời giải đáp.
Bàn luẩn quẩn mãi là vô lối. Chỉ nên thong dong đọc thơ như uống nước mía, như dõi theo cánh chuồn chuồn, như nằm ngủ gọi em Thúy Kiều em Thúy Vân em Đạm Tiên, em Hoạn Thư em Bạc Hạnh, em Sở Khanh, em Mã Giám Sinh, mọi mọi em em của em Tố Như Tử em Liệp Hộ em Thanh Hiên, em Hiền em Thánh, em Cành em Nhánh, em Trái Ớt, em Muối Tiêu, em Soài Riêng sa rụng, em Bương Cấn em Sài Sơn…
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về núi Sài Sơn ngóng lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắc thổi đêm trăng.
Về núi Sài Sơn ngóng lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắc thổi đêm trăng.
Tuy nhiên riêng đối với học sinh đang tập đi thi để cuối năm cưới vợ thì chớ nên lẩn thẩn chiêm bao đọc thơ nhiều quá
(Trích “Đi vào cõi thơ” của Bùi Giáng)
“KẺ Ở” KHÔNG PHẢI LÀ THƠ CỦA QUANG DŨNG
Bài thơ “Kẻ ở” có chút nghi vấn về tiểu sử . Bài thơ được coi là của Quang Dũng vì nó xuất hiện trong một cuốn sổ tay của ông . Tuy nhiên , Quang Dũng chưa bao giờ nhận đó là tác phẩm của mình cả . Xét cho cùng, tứ thơ , phong cách và nhạc điệu của bài thơ cũng rất ... Quang Dũng . Theo sự tìm hiểu mới nhất của tôi thì bài thơ “Kẻ ở” chính là bài “Dặm về” của Nguyễn Đình Tiên ( một bạn thơ trong kháng chiến của Quang Dũng ) . Bài thơ này Quang Dũng chép trong sổ tay và chép trên quạt tặng bạn .( Hình như Quang Dũng có chỉnh sửa nên một số từ ngữ hơi khác so với bản gốc , bản “ Kẻ ở ” hay hơn – theo cảm nhận của tôi )Từ người bạn này mà bài thơ được lưu truyền và đã có một thời giới văn học miền Nam xôn xao bàn tán và tranh luận ai là tác giả bài thơ “Kẻ ở”. Sôi nổi nhất là các bài viết của Trần Văn
Bùi Giáng là một thiên tài trong văn học Việt nam , ông bình thơ rất hay. Chuyện nhầm lẫn bài thơ "Kẻ ở" là của Quang Dũng là do thông tin văn học trong thời chiến bị sai lệch . Ngay cả nhạc sĩ Cung Tiến khi phổ nhạc vẫn ghi “ Thơ Quang Dũng ; Nhạc Cung Tiến” Cho đến thời đại tin học bùng nổ bây giờ ,mấy ai biết tác giả đích thực của bài thơ “Kẻ ở” . Nhìn chung , bất kể tác giả bài thơ”Kẻ ở” là ai , cảm nhận thơ của Bùi Giáng đúng là siêu tuyệt . Mượn lời nhạc sĩ Trịnh Công Sơn để nhìn lại ông một cách giễu cợt phiêu bồng :
“Bùi Giang Bàng Dúi Bùi Giáng
Ơ hay trăm ngõ bàng hoàng lỗ không
Lỗ không trời đất ngỡ ngàng
Hóa ra thi thể là ngàn hư vô
Nhớ thương vô cùng là từ
Là từ vô tận ứ ừ viễn vông”
Là từ vô tận ứ ừ viễn vông”
(TRỊNH CÔNG SƠN/ 1988)
LA THỤYTiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Đình Tiên
Sinh năm: 1924
Năm mất: 1995
Nơi sinh: Thanh Hoá
Bút danh: Nguyễn Đình Tiên
Dặm về
Mai chị về, em gửi gì không?
Mai chị về nhớ má em hồng
Đường đi không gió, lòng sao lạnh?
Bụi vượt ngang đầu mong nhớ mong.
Quê chị về xa tít dặm xa
Rừng thu chiều xao xác canh gà
Sương buông khắp lối đường muôn ngả
Ngựa lạc cành hoang qua lướt qua.
Ngựa chị dừng bên thác trong veo
Lòng chị buồn khi nắng qua đèo
Nơi đây, lá dạt vương chân ngựa
Hươu chạy theo đàn, theo ngó theo.
Rừng đêm nhoà bóng nhớ hoang mang
Ngựa chị vừa qua thác sao vàng
Sao trôi đáy nước, rơi chân ngựa
Buồn dựng đôi mi, ngàn lại ngàn.
Thu 1945
Mời nghe nhạc bài “KẺ Ở” hay còn có tên “MAI CHỊ VỀ”
CUNG TIẾN phổ nhạc
KẺ Ở
Mai chị về
em gửi gì không ?
Mai chị về nhớ má em hồng
Đường đi không gió lòng sao lạnh
Bụi vướng ngang đầu mong nhớ mong
Quê chị về xa tít dặm xa
Rừng thu chiều xao xác canh gà
Hoa rơi khắp lối, sương muôn ngả
Ngựa lạc rừng hoang qua lướt qua
Ngựa chị dừng bên thác trong veo
Lòng chị buồn khi nắng qua đèo
Nơi đây lá giạt vương chân ngựa
Hươu chạy quay đầu theo ngó theo
Rừng đêm nhòa bóng nhớ hoang mang
Ngựa chị dừng bên thác trăng vàng
Sao rơi đáy nước vương chân ngựa
Buồn dâng đôi mi hàng lại hàng.
em gửi gì không ?
Mai chị về nhớ má em hồng
Đường đi không gió lòng sao lạnh
Bụi vướng ngang đầu mong nhớ mong
Quê chị về xa tít dặm xa
Rừng thu chiều xao xác canh gà
Hoa rơi khắp lối, sương muôn ngả
Ngựa lạc rừng hoang qua lướt qua
Ngựa chị dừng bên thác trong veo
Lòng chị buồn khi nắng qua đèo
Nơi đây lá giạt vương chân ngựa
Hươu chạy quay đầu theo ngó theo
Rừng đêm nhòa bóng nhớ hoang mang
Ngựa chị dừng bên thác trăng vàng
Sao rơi đáy nước vương chân ngựa
Buồn dâng đôi mi hàng lại hàng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét